Trang

Jan 27, 2004

Không được đi cầu thang



Một anh chàng bị ngã gãy chân. Sau khi điều trị cấp cứu, bác sĩ dặn anh ta không được đi cầu thang khi chân còn bó bột. Bốn tháng sau, khi bác sĩ tháo lớp bột, bệnh nhân hỏi:

- Bây giờ thì tôi đi cầu thang được rồi chứ?

- Được - bác sĩ trả lời - nhưng anh phải thật cẩn thận đó.

- Bác sĩ không biết tôi nhẹ nhõm như thế nào đâu - Anh ta hớn hở - Thật là phiền toái khi phải đi lối cửa sổ và lên xuống bằng ống thoát nước!

- !?



o O o


Hai tù nhân Taliban ngồi tán dóc trong giờ giải lao. Cả hai kể lại thời còn đi học. Một gã nói:

- Hồi tao đi học ấy à, được đổi trường mới liên miên. Cứ mỗi tuần là lại dời đến trường mới...

- Sao vậy?

- Thì dựng được vài bữa là đánh nhau bị sập.

- Trường thì nhằm nhò gì. Lớp thực tập của tụi tao cứ mỗi ngày là một thầy giáo mới!!!

- Mày học lớp gì?

- Đánh bom tự sát.2046

Jan 26, 2004

Không bỏ lỡ cơ hội



Người chủ hiệu đi qua phòng đóng gói, trông thấy một cậu bé đang ngả lưng trên một chiếc thùng, miệng huýt sáo vui vẻ.
- Mày làm được bao nhiêu tiền một tuần?
- ông ta hỏi.
- 50 đôla một tuần, thưa ông.
- Đây là tuần lương của mày. Cút luôn đi! Khi gặp người quản đốc, ông chủ cằn nhằn:
- Anh thuê thằng bé đó ở đâu vậy?
- Chúng ta có thuê nó bao giờ đâu, nó vừa mang tới một kiện hàng từ một công ty khác.
1716

Tuyệt đối nghe lời



Helen sống với bà chị Mary. Cả hai đều khoảng 75 tuổi và cả hai cùng chưa lấy chồng lần nào. Họ có một chiếc ô tô. Rất ít khi họ đi đâu nhưng cứ khi nào có việc đi, Mary đều lái vì mắt bà còn tốt hơn.

Một hôm cuối tuần, họ đến một thành phố lớn để xem một số thứ mà họ đọc thấy quảng cáo ở trên báo. Cả hai cùng chưa đến thành phố đó bao giờ.

Họ lái xe theo dòng xe cộ rồi rẽ phải vào một phố cấm ô tô qua lại. Người cảnh sát đứng ở góc phố huýt còi gọi lại nhưng bà Mary không dừng xe. Người cảnh sát nhảy lên môtô đuổi theo.

Sau khi ra lệnh cho xe dừng lại, anh ta nói: "Bà không nghe thấy tôi huýt còi sao?".

Mary nhận lỗi một cách lịch sự: "Có ạ. Nhưng tôi nhớ lời mẹ tôi dặn là khi bọn đàn ông huýt sáo thì đừng có dừng lại".

1025

Jan 25, 2004

Không Sợ Thủng Săm



Hai ông cùng hẹn nhau mai đi ăn cưới ở Lạng Giang. Tờ mờ đất ông này đã dắt xe đến nhà bạn, nhưng bạn ông ta đã đi rồi, đúng là "Aên cỗ đi trước, lội nước đi sau"; ông vội đạp xe đuổi theo, độ ba cây số thì gặp ông bạn đang cuốc bộ.

Ô, thế xe ông đâu?

Treo ở nhà!

Sao có xe ông không đi lại đi bộ?

Ông bạn dõng dạc:

Đi bộ không sợ thủng săm.

2895

Không Sợ Thủng Săm



Hai ông cùng hẹn nhau mai đi ăn cưới ở Lạng Giang. Tờ mờ đất ông này đã dắt xe đến nhà bạn, nhưng bạn ông ta đã đi rồi, đúng là "Aên cỗ đi trước, lội nước đi sau"; ông vội đạp xe đuổi theo, độ ba cây số thì gặp ông bạn đang cuốc bộ.

Ô, thế xe ông đâu?

Treo ở nhà!

Sao có xe ông không đi lại đi bộ?

Ông bạn dõng dạc:

Đi bộ không sợ thủng săm.

2895

Vũ Điệu Địa Ngục



Tôi ớn lạnh toàn thân khi nghĩ đến cầu vồng, ớn lạnh khi tưởng thấy những tia nắng vàng khé lao qua màn mưa. Khi đó, ngẩng nhìn thường đã thấy những chiếc cầu vồng bảy màu còng lưng trên trời.

Khi ấy, người đàn bà ở nhà đối diện bên kia đường sẽ chạy ra, mái tóc xổ bạc bời trong gió:
- Đỏ lên trời đó! Con ơi!

Và bà nhảy nhấp nhểnh trên đôi chân yếu như cẳng sậy. Hai cánh tay trắng nhợt dăn deo quào mười ngón lên trời, như hòng túm chặt lấy dải cầu vồng. Bà cố nhảy thật cao, rồi rớt xuống, rớt xuống lại nhảy lên.

Người qua đường dừng lại, hàng xóm đổ ra xem. Người điên xưa nay không hiếm. Nhưng điên chỉ muốn kéo cầu vồng thì quả thực chưa thấy bao giờ.

Khi ấy, tôi, một kẻ hèn, sẽ lủi vào nhà như một con chuột chũi và đổ ra giường.

Ngoài kia, người đàn bà tóc hoa râm vẫn nhảy lên kéo cầu vồng. Sẽ tiếp tục vũ điệu địa ngục ấy cho đến lúc bà kiệt sức, gục xuống như một tàu môn héo.

*

Giờ đây, tôi phỉ báng sự học. Tôi đau khổ vì đã chót là một kẻ “có học” - như người ta thường nói.

Bởi vì sự học chỉ đưa đến cho người ta những trò xa xỉ và những đau khổ không cần thiết: tâm hồn rắc rối, thói tự ái và lòng ngạo mạn ngốc nghếch. Ai không mang phải cái đó trong mình, người đó sẽ bớt đi được một gánh nặng.

Ngày nàng chết, tôi đã đốt sách. May mà cha tôi kịp ngăn tôi lại. Đốt sách, ấy là tôi muốn chết theo nàng… Nhưng vốn là kẻ hèn, tôi hoãn chết, tôi tự nhủ: “Phải thi tốt nghiệp rồi mới chết!”. Thế là tôi đã tự thả tôi xổng ra khỏi cái chết của nàng.

*
Nàng ra trường trước tôi bốn năm. Tôi nhớ ngày sắp mãn khóa, nàng tỏ ra hoang mang, như linh cảm một tai họa đang sắp ập tới. Mắt nàng nhìn như vô hồn, nhiều khi gặp tôi mà nàng không hề trông thấy tôi. Tôi không hiểu tại sao.

Tôi thường ít dám bắt chuyện cùng nàng, vì nàng đẹp quá lại nghèo. Cái thanh bần ở những người có học khiến họ trở thành bí ẩn, khó gần, xa vời như một dáng kiêu kỳ.

Lần ấy, tôi nhớ, tôi từng đánh bạo đi qua, đánh bạo nói một câu cho có chuyện, chỉ cốt để được đắm chút xíu trong luồng mắt sóng sánh của nàng:
- Thùy Châu sắp ra trường rồi, thích thật!

Một bóng mây sa làm sầm tối mắt nàng. Nàng thốt bâng quơ:

- Thích ư?!

*
Ngày ngày tôi không trông thấy dáng nghiêng nghiêng mềm mại như lá tóc tiên trên chiếc xe đạp màu xám xỉn nữa.

Như thế, nghĩa là nàng đang ngồi nhà. Nàng nghỉ chờ việc sau khi ra trường. Tôi mường tượng, sau vài tháng nghỉ ngơi, da nàng sẽ càng trắng muốt và mỉm cười vu vơ.

Tôi thường đứng bên này hè phố, trộm trông sang và thêu dệt rất nhiều viễn ảnh. Dù nhút nhát, tôi vẫn nghĩ nàng sinh ra là để cho tôi. Gia đình tôi khá giả, không ưa tôi lấy vợ nghèo. Mặc dù vậy, tôi không nghĩ đến ai ngoài nàng. Và không biết tự lúc nào, tôi cứ đóng đinh trong đầu ý nghĩ: chỉ cần bước một bước về phía nàng, nàng sẽ ở trọn vẹn trong vòng tay tôi.

Vì nàng nghèo mà. Đẹp trai như tôi, con nhà giàu. Yêu nàng, đó đã là một việc làm gần như từ thiện.

Mẹ tôi biết, ánh mắt tôi thường dừng lại trước cửa nhà nàng. Bà làm như vô tình, bảo: Con gái tốt nghiệp đại học ra bây giờ ế vô khối. Vô công rồi nghề, ối đứa đi làm những việc chẳng sạch sẽ gì! Muốn gì thì cũng phải chờ nó xin được việc đã nghe. Nhàn cư vi bất thiện. Còn bây giờ, thì tôi cấm”.

Không phải tôi sợ mẹ tôi đến thế. Nhưng tôi vẫn bước một bước về phía nàng, có lẽ bởi vì tôi còn quá trẻ: tôi mới mười chín tuổi.

*

Một năm trôi qua, nàng vẫn ở nhà.

Đến năm thứ hai, mẹ nàng đã phải dọn ra vỉa hè một quán nước trông thật đìu hiu. Mẹ nàng không cho nàng ngồi bán mặc dù nàng vẫn chưa xin được việc làm. Mẹ nàng vốn thuộc dòng quý phái bị sa sút. Bà chỉ có một mình nàng và đặt tất cả hy vọng cũng như chút kiêu hãnh còn vương lại của dòng họ vào nàng. Vì thế, bà không cho phép nàng làm những việc mà theo bà, ảnh hưởng đến gia phong. Bà nhận chân chường mặt ra đường ngồi bán. Còn nàng ngồi trong nhà, gấp những chiếc hộp màu vàng. Quán của một bà già buồn bã và lãnh đạm thì bao giờ cũng vắng. Hai mẹ con nàng sống rất chật vật. Có hôm tôi thấy mẹ nàng đang nói gì đó và nhìn nàng giận dữ. Còn nàng thì ôm mặt khóc và cúi xuống đống vỏ hộp đang dán dở un lên nuốt chửng cả dáng người bé nhỏ của nàng.

*

Đến năm thứ ba, nàng vẫn chưa xin được việc.

Sau một thời gian dài héo hắt, dạo này tôi thấy nàng ăn vận lộng lẫy. Bỗng nhiên ăn diện đẹp mà không có lời giải thích nào khả dĩ. Đáng ngờ lắm, khi người ta là con gái đẹp mà lại chưa có công ăn việc làm. Mỗi khi nàng vụt qua đường như có một ánh sao băng, hàng phố xì xào:

-Sao bỗng nhiên nó lại có nhiều tiền để ăn diện sang trọng thế kia nhỉ? Nhà ấy lâu nay vẫn nghèo xơ…

-á à, con gái thời nay thiếu gì cách, nhất là lại xinh đẹp thế kia… Một đêm của người ta biết đâu lại chả bằng một tháng bán hàng khô của bà!

Nói vậy rồi đám các bà các cô bấm nhau. Có người cười ré lên. Tôi thấy run lên vì giận dữ, như chính mình bị xúc phạm. Nhưng vẫn im lặng và trong lòng hoang mang.

Tôi còn nhớ rõ lắm. Có một linh cảm gì đó nhắc tôi rằng không được trì hoãn. Hôm ấy, tôi đánh bạo hẹn nàng:

- Ngày mai Thùy Châu có rỗi không? Tôi muốn mời Thùy Châu đi chơi, nói câu chuyện.

Có lẽ trông tôi hằn học lắm nên nàng ngần ngại. Nàng nói:

- Tuần sau nhé. Tuần tới tôi mới rỗi.

Tôi lập tức gằn giọng như một người yêu đang cơn ghen:

- Dạo này tôi thấy Thùy Châu khác quá rồi. Nên nghĩ đến chuyện “giữ lấy lề” đi thì hơn…

Tôi tưởng nàng sẽ co rúm lại trước làn roi quất. Được thế thì tôi hả hê lắm. Nhưng thật lạ. Mặt lạnh băng, nàng nhìn nghiêng sang tôi, bỏ đi, để lại một lời nói lãnh đạm:

- Rồi lề cũng chẳng còn đâu mà giữ…

Khi nàng quay nghiêng, tôi chợt lạnh người vì cái cổ của nàng sao như xanh trong.

Tôi sửng sốt nhìn theo nàng, rồi nghĩ lại: ô hay! Tôi đã ngỏ với nàng một lời nào đâu mà có quyền ghen kia chứ!

*

Một tuần, rồi ba tuần qua đi. Vì hờn giận, tôi chưa sang gặp nàng.

Hôm ấy, mưa rơi, tôi bỗng thấy bên nhà nàng xôn xao. Người ta chạy ra chạy vào hớt hải.

Mẹ nàng bị đi cấp cứu ư? Hay bà đã chết? Có thể lắm chứ. Bà đã già yếu lắm rồi.

Tôi hối hả nhào sang. Đúng rồi. Mẹ nàng bị ngất. Bà nằm lặng phắc trên giường. Mấy bà mấy cô kẻ đang xoa ngực, người rối rít hú gọi hồn bà.

Nhưng ở trong nhà, phía bể nước, còn đông người hơn. Tôi thấy một ông bác sĩ to béo, mặt tái xanh từ trong nhà bước ra, khoát tay vẻ tuyệt vọng. Một luồng điện bỗng đâu như đập mạnh vào tri giác tôi, khiến tôi cảm thấy rợn người.

Tôi thận trọng bước vào phòng tắm kiểu cổ - vật còn lại duy nhất gợi nhớ rằng chủ nhân nó ngày xưa vốn là dòng quý phái. Ở đó đang đông người. Người ta đang chăm chăm nhìn cái gì đó. Và thật lạ, hoàn toàn im lặng, đến cả một tiếng thở mạnh cũng không nghe thấy.

Tôi thận trọng bước vào. Và suốt đời, tôi sẽ phải ngụp lặn trong cảm giác của giờ phút ấy.

Lạy chúa tôi! Trước mắt tôi hiện ra một bồn tắm lớn đỏ rực màu máu loãng.

Trên đó, một thân người con gái mặc áo dài trắng đang yêu kiều gục nghiêng, đổ nửa thân trên vào thành bồn tắm. Cánh tay trái của nàng xắn quá khuỷu, nổi lập lờ trong bồn máu.

Nửa thân áo dài bên trái nàng đỏ thẫm. Nửa thân bên phải vẫn giữ nguyên màu trắng muốt. Tấm lưng thon nghiêng khiến cho thân áo căng không gợn một nếp nhăn.

Và ánh tà hắt nghiêng qua cửa sổ có kính xanh trong thoáng chốc khiến cho bể máu mang màu ngọc thạch. Tôi thấy như lúc đó nàng thoáng rùng mình và trông giống hệt một con sứa trong xanh kiều diễm.

Không kêu được một tiếng. Nhưng tôi hiểu ngay đó là nàng. Nàng đã hẹn gặp tôi như thế sao?

Cắt động mạch ở khuỷu tay và cho máu mình hòa vào nước trong bồn tắm cho đến cạn kiệt. Một lối tự hủy kiểu La Mã cổ.

Khi đó, ngoài trời mưa tạnh. Mặt trời rớt lại phun ra những luồng vàng đỏ chiếu nghiêng. Và qua cánh cửa giờ đây ai đã mở rộng, tôi nhìn thấy

Một cầu vồng ngạo nghễ đổ bảy màu trên trời. Ánh đỏ lục của chiếc cầu vồng hắt xuống bồn tắm như một dải vòi oan nghiệt kéo dòng máu từ trong bồn tắm vụt lên trời.

Khi ấy, mẹ nàng cũng vừa hồi tỉnh, bà chồm dậy, chạy xổ vào chỗ nàng nằm. Cái màu đỏ lục choáng rợp ấy lập tức phủ ngợp người bà. Bà chùn lại.

Sững sờ giây lát, rồi, bằng cú nhảy của một con báo điên, bà mẹ vọt ra sân, mái tóc bạc sổ tung bã bời và mười ngón tay quào lên trời:

-Đỏ lên trời đó. Con ơi!

*

Lá thư tuyệt mệnh:

“Mẹ yêu của con ơi!

Con ngàn lần rập đầu xin mẹ tha tội. Con đã cướp công mang nặng đẻ đau của mẹ. Tội này, con biết, ngày xưa, người ta cầm roi đánh lên mộ để trừng phạt đồ bất hiếu. Mẹ ơi!

Nhưng không bây giờ thì cũng chỉ vài tháng nữa thôi, con cũng lại cướp công mẹ. Con bị bệnh suy tuỷ, mẹ ạ. Bệnh ấy chết dần chết mòn và tốn kém, còn làm khổ mẹ gấp nhiều lần. Con biết mình là một người đẹp. Con cũng biết rằng mẹ tự hào vì con. Và con không muốn chết mòn mỏi, tiều tụy, đáng thương hại.

Mẹ ơi! Mẹ đã ngờ con. Mẹ ngờ đúng đấy, mẹ ạ.

Ba năm trời con đi xin việc. Sinh “bất phùng thời”, con lê chân đi gõ cửa khắp nơi bằng lòng trinh bạch và nắm tay rỗng không. Người ta trả lời: “Hết chỗ! Chính chúng tôi đây cũng chưa biết rằng sẽ ra sao!”.

Có người ghé tai con: “Phải có vấn đề đầu tiên”. Cô đi tay không như thế, một đời cũng không xin được việc.

Tiền ư? Tiền đâu! Mẹ con mình chỉ rau cháo thôi cũng chật vật lắm rồi. Mẹ thì ốm đau luôn.

Và thế là, cuối cùng, con tìm được một cách: bán máu. Máu đó thuộc về con. Còn cuộc đời này chẳng có gì là của con nữa, ngoài mẹ ra.

Bán máu cũng không đơn giản, mẹ ơi! Nhiều người muốn bán máu lắm. Đó là những kẻ lười biếng khỏe mạnh và những kẻ tuyệt vọng khỏe mạnh. Muốn bán máu suôn sẻ, phải qua đầu nậu máu. Mẹ không biết đâu.

Và con có tiền. Để mua vài bộ quần áo kha khá. Trích lại một ít để bồi dưỡng lại sức, chờ đến lần bán máu sau.

Nhưng mẹ ơi. Tiền bán máu của con vẫn còn quá ít so với hầu bao căng ních của thiên hạ. Con rút máu trong huyết quản mình nên thấy đau hơn so với những người rút ruột của người khác. Không phải ruột mình nên họ không đau. Con thì cứ tiếp tục bán máu mình. Đến kỳ hạn lại bán. Đã đến lúc cơ thể con quen sinh ra máu để bán. Đến kỳ hạn không bán không xong.

Mẹ ơi! Con biết những dòng đã viết và đang viết tiếp đây làm đau lòng mẹ. Nhưng mẹ ơi. Thế hệ của chúng con khác thế hệ e dè của mẹ. Chúng con đi đến tận cùng nên nhiều khi tàn nhẫn. Trước khi chết, con phải cất được lời sám hối, cho lòng thanh thản.

Mẹ ơi! Quà cáp cũng chẳng ăn thua. Người ta nói rằng con là một món hơn mọi quà cáp và nhìn vào ngực con. Con đi, ngày hôm nay khấp khởi hy vọng để rồi ngày mai thất vọng như một quả bóng xẹp. Vận rủi cứ đeo đuổi con mãi.

Nhiều lần người ta mặc cả thẳng với con. Lúc đầu con căm phẫn. Con thét vào mặt một trong những kẻ đó “Đồ vô lại”. Hắn ta nhăn ra cười. Khuôn mặt ấy thực ra khá đẹp, sung mãn. Hắn đứng đầu một cơ quan khá giả.

Nhưng sau đó, trong tuyệt vọng con nghĩ lại. Và, mẹ có nhớ cái đêm con về rất muộn và mẹ cằn nhằn mãi không? Con phải len lén đi vào giường để mẹ khỏi nhận ra cái dáng đi hơi oằn người của con gái mẹ: con đau.

Đêm đó con không khóc. Con ngước lên bàn thờ bố và tự hỏi: linh hồn người giờ phiêu diêu nơi đâu mà không phù hộ cho con, như người ta thường nói. Cũng ngước nhìn cánh quạt trần quay tít, nghĩ đến một người thắt cổ. Nhưng một viễn cảnh khác cũng mơn man con đôi chút: vài hôm sau, con sẽ có một công việc cho ra công việc, sẽ mặc áo dài trắng đến công sở như mình chưa hề thất tiết, sẽ đàng hoàng nuôi mẹ, vân vân và vân vân.

Nhưng mấy ngày sau, con quay lại. Hắn tiếp con lạnh băng: “Cơ quan không thể nhận ai. Chính tôi cũng đang bị đe dọa phải về đây”. Nhìn nét mặt hắn, con biết không phải thế. Hắn sợ nhận vào cơ quan một khối căm phẫn lúc nào cũng sẵn sàng nổ bùng như một quả bom.

Và đã đến lúc, máu con không dùng được vào việc gì nữa: bán nhiều lần quá con mắc bệnh suy tuỷ. Thế là hết.

Mẹ ơi! Con có dành dụm được một số tiền phòng khi mẹ ốm. Mẹ mở cái hộp trang điểm của con trong va li mẹ nhé. Hộp đó, mẹ đã tặng con trong lần sinh nhật thứ hai mươi ba.

Ngàn lần con xin mẹ tha thứ. Mẹ nhớ chôn con trong chiếc áo dài màu trắng mẹ nhé. Con tin rằng trong chiếc áo đó, dù không còn trinh trắng, con cũng sẽ có được đôi cánh để bay lên Thiên đàng!

Vĩnh biệt mẹ. Vĩnh biệt Hà Nội không phải của con.

Con gái trăm tội của mẹ ôm hôn mẹ
1632

100 nụ hôn gửi vợ



Chồng đi công tác xa gửi thư về cho vợ:


"Em yêu quý của anh!

Anh đang đi công tác xa, vì vậy, anh không thể gửi cho em lương tháng này của anh. Anh gửi cho em 100 nụ hôn nồng thắm nhất.

Chồng yêu quý của em".

Vài ngày sau, anh chồng nhận được thư của vợ:

"Anh thương yêu của em!

Em đã nhận được 100 nụ hôn nồng thắm của anh. Cảm ơn anh đã gửi cho em. Em đã sử dụng chúng và gửi anh bảng kê chi tiết:

1.Ông giao sữa nhận 2 nụ hôn cho một tháng giao sữa.

2. Anh thu tiền điện chỉ đồng ý 7 nụ hôn.

3. Ông chủ nhà đến đây mỗi ngày để nhận 2 hoặc 3 nụ hôn trừ tiền nhà.

4. Riêng ông chủ siêu thị thì không chấp nhận chỉ có nụ hôn, vì vậy, em phải trả thêm các món khác.

5. Các chi phí linh tinh khác: 40 nụ hôn.

Anh đừng lo lắng nhiều cho em, em vẫn còn 35 nụ hôn chưa sử dụng. Hy vọng em sẽ thanh toán đủ từ nay đến cuối tháng.

Vợ yêu của anh".
1545

Jan 24, 2004

Để Đo Đã



Ba Sún, là một gã đàn ông ghen có tiếng lại nhè lấy phải cô vợ là một cô đào hát. Nên sau khi cưới vợ xong, anh liền bắt bà đầm giải nghệ.

Đến bữa nọ, có một hội từ thiện tổ chức đêm hát đặc biệt, muốn được đủ mặt các danh tài sân khấu để cho chương trình đêm đó hấp dẫn nhiều người. Vợ Ba Sún bấy lâu nay là một cô đào danh tiếng, nên hội này quyết tâm đến nài nỉ chàng cho phép nàng đến hát giúp hội.

Nể lòng Ba Sún phải nhận lời, song anh đặt điều kiện: "Khi lên sân khấu, anh kép phải đứng xa vợ anh từ một thước rưỡi trở lên".

Tới đêm hát, cố nhiên Ba Sún phải lẽo đẽo theo vợ vào hậu trường để canh chừng.

Vở tuồng trình diễn đến hồi "Cụp lạc". Kép đóng vai chồng liền cất tiếng ca: "Ái khanh ơi! Ái khanh hãy xích lại đây để trẫm phân giải..."

Ba Sún vừa nghe nói đến đây, cơn ghen nổi dậy đùng đùng, anh vội nhảy ra sân khấu đưa tay ngăn anh kép lại rồi nói lên:

Khoan, khoan, phải để tui "đo" đã!...

2820

Để Đo Đã



Ba Sún, là một gã đàn ông ghen có tiếng lại nhè lấy phải cô vợ là một cô đào hát. Nên sau khi cưới vợ xong, anh liền bắt bà đầm giải nghệ.

Đến bữa nọ, có một hội từ thiện tổ chức đêm hát đặc biệt, muốn được đủ mặt các danh tài sân khấu để cho chương trình đêm đó hấp dẫn nhiều người. Vợ Ba Sún bấy lâu nay là một cô đào danh tiếng, nên hội này quyết tâm đến nài nỉ chàng cho phép nàng đến hát giúp hội.

Nể lòng Ba Sún phải nhận lời, song anh đặt điều kiện: "Khi lên sân khấu, anh kép phải đứng xa vợ anh từ một thước rưỡi trở lên".

Tới đêm hát, cố nhiên Ba Sún phải lẽo đẽo theo vợ vào hậu trường để canh chừng.

Vở tuồng trình diễn đến hồi "Cụp lạc". Kép đóng vai chồng liền cất tiếng ca: "Ái khanh ơi! Ái khanh hãy xích lại đây để trẫm phân giải..."

Ba Sún vừa nghe nói đến đây, cơn ghen nổi dậy đùng đùng, anh vội nhảy ra sân khấu đưa tay ngăn anh kép lại rồi nói lên:

Khoan, khoan, phải để tui "đo" đã!...

2820

cái đầu lâu





Chiều hôm đó, tôi ngồi chơi với Ngô Đàm trong phòng sách của anh ta. Sau một hồi chuyện phiếm, bạn tôi lấy ra một cái hộp gỗ trắng đem khoe tôi:

- Tôi mới mua được cái này hay lắm.

- Cái gì?

- Rồi anh sẽ biết.

Nắp hộp mở, anh lấy ra một cái đầu lâu lớn, nương nhẹ đặt lên bàn, rồi nhìn tôi mỉm cười. Tôi hỏi:

- Anh mua vật này làm gì?

Đàm không trả lời ngay, lim dim mắt, gạt tàn thuốc lá và thong thả nói:

- Cái đầu lâu là biểu hiện sự chết, là một vật mà các nhà hiền triết hoặc tu hành bên Âu châu thường bày trước mặt, bên những chồng sách đầy bụi bám để suy nghiệm về những lẽ huyền bí của "đời sau". Đối với một nhà thông thái thì đó là một vật khảo cứu cũng như viên đá lạ, một chất hóa học hay một ống cấy vi trùng. Tôi không phải là nhà hiền triết, không phải là nhà tu hành hay nhà thông thái, nên cái đầu lâu đối với tôi là một thứ bài trí ghê gớm, một thứ đồ... "mỹ thuật" của người hiếu kỳ như tôi. Nhưng có lẽ trong những lúc đọc sách ở nơi tĩnh mịch này, trong những khi suy xét về những điều bí hiểm của sự chết, của đời người, thứ đồ "bài trí" kia sẽ là một vật kích thích cho trí tưởng tượng của tôi... Biết đâu bạn anh sẽ chẳng là một nhà tư tưởng trầm mặc như nhà hiền triết, nhà tu hành?

Câu nói văn hoa, nửa nghiêm trang, nửa đùa cợt của Đàm khiến tôi hơi ngạc nhiên, nhìn bạn.

Bỗng cửa phòng bật mở, một người thiếu niên mặc âu phục bước vào, chưa kịp nói gì đã trông thấy cái đầu lâu, rồi đứng đực ra đó. Đàm hỏi:

- Kìa, anh Chung, sao hôm nay trông kỳ khôi thế?

Lúc ấy, Chung mới ngoảnh lại sẽ gật đầu chào tôi, rồi lại trân trân nhìn cái đầu lâu trên bàn, mãi mới nói:

- ồ anh Đàm! Anh cũng có cái này ư?

- "Cũng có?" Thế ra tôi không thể có một cái đầu lâu được sao?

- ồ, thế anh không thấy gì lạ chứ? Anh không thấy gì ư?

Chung ngồi xuống, đưa tay vuốt tóc, mặt hãy còn vẻ lo lắng, nhìn hết tôi đến Đàm rồi đến cái đầu lâu. Anh nói:

- Sao lại có sự ngẫu nhiên lạ thường đến thế? Tôi đến đây cũng định thuật cho anh nghe về cái đầu lâu ở nhà tôi... thì lại gặp ngay chính vật này... Chính cái đầu lâu này. Tôi đã tưởng nó đang ở nhà tôi biến lại đây, nên tôi mới sửng sốt đến thế. Để tôi kể đầu đuôi câu chuyện các anh nghe.

Chung lấy chén nước uống cạn một hơi, lóng cóng châm điếu thuốc lá rồi nói tiếp:

"Trước kia tôi vẫn ở trên Hàng Bông như anh đã biết. Nhưng cách đây nửa tháng, anh Lịch là người học trường Mỹ thuật mới ra năm nay, tìm được một cái nhà ngói ở ngoại ô để làm phòng vẽ. Nhà ấy một tầng chia làm hai căn rộng. Lịch ở một căn còn một căn gọi anh Thao học năm thứ hai trường thuốc với tôi đến ở cho vui và chịu đỡ Lịch ít tiền thuê nhà.

Chỗ này ở xa thành phố, chung quanh toàn bãi cỏ, một mặt ngoảnh ra phía đường cái. ở chỗ yên tĩnh như thế để học hành, lại rẻ tiền nhà, mà có hai người bạn cùng nhã nhặn tử tế cả thì còn gì dễ chịu hơn. Tôi không bao giờ phàn nàn nếu trưa hôm kia anh Thao không có cái ý kiến kỳ quặc đem về nhà một cái đầu lâu.

Đầu lâu thì tôi không lạ gì. Hồi còn học trường Bưởi, tôi đã được trông thấy nhiều lần ở phòng thí nghiệm. Nhưng cái mà anh Thao lấy ở nhà thương về lại là của một tên tù mới chết, trông còn mới, trắng hơn cái này nhiều, mà xương chưa được khô lắm. Thao xem ra quý hóa cái vật quái gở ấy lắm. Tôi thì không. Tôi thoạt trông thấy nó bỗng ghê rợn cả người... Có lẽ vì tôi thoáng nghĩ đến cảnh hiu quạnh chung quanh nhà của chúng tôi, hay có lẽ tôi vừa mới đọc xong những truyện linh hồn hiển hiện anh cho mượn ngày trước... Cái đầu lâu đặt trên bàn học anh Thao kê gần cửa sổ lúc nào cũng như chăm chú nhìn tôi bằng hai con mắt đen và rỗng, mà hai hàm răng thì nhe ra một cách chế giễu độc địa. Tôi có cái cảm giác khó chịu hình như "nó" biết cả những điều tôi nghĩ thầm. Tôi sinh ác cảm với "nó" và chắc hẳn "nó" cũng không ưa gì tôi. Cái vật trơ trơ kia không ngờ lại làm tôi băn khoăn đến thế. Tôi lấy đủ các nhẽ để tự nhủ mình cũng không xong, mà nỗi lo ngại của tôi mỗi lúc một thêm nặng nề như đè nén mãi lòng mình.

Tối hôm ấy, thấy bứt rứt trong người, để Thao ngồi học một mình, tôi đi nằm trước. Anh Lịch ở phòng bên cạnh vào nói mấy câu chuyện rồi lại ra ngay. Tôi nằm đó chừng đến hơn một giờ đồng hồ mới ngủ đi được. Nhưng cả trong giấc ngủ, tôi vẫn bị cái đầu lâu kia ám ảnh hoài. Tôi nằm mơ toàn thấy những đầu lâu với xương người, hay những cái ghê sợ hơn thế. Một lần tôi hốt hoảng thức dậy thì ngọn đèn cây trên bàn học anh Thao đã tắt, trong nhà tối đen như bưng lấy mắt, bên ngoài cũng vậy, vì tôi cố tìm cái cửa sổ chấn song sắt cũng không trông thấy đâu. Bên cạnh tôi anh Thao chừng đã ngủ say, tiếng thở đều và thong thả. Thỉnh thoảng một tiếng ngáy ở buồng anh Lịch lại đưa sang. Mọi vật quanh nhà đều im lìm. Không một tiếng lá bay, không một hơi gió thoảng. Tôi muốn quên mà không thể quên cái đầu lâu kia được. Tôi thấy hình như nó có tri giác, nó "vẫn còn thức" và trong bóng tối, đang nhăn răng tráo mắt nhìn sự kinh khiếp của tôi.

Bỗng nhiên tôi thấy lạnh tái người đi. Từ phía bàn giấy anh Thao, tôi chợt nghe thấy những tiếng ken két như hai hàm răng nghiến vào nhau. Tiếng ấy nghe mỗi lúc một rõ dần, mà lâu đến gần một phút. Trước tôi còn muốn tin là tiếng anh Thao nghiến răng trong mơ. Nhưng Thao nằm bên cạnh tôi, mà tiếng kia thì rõ ràng ở bàn giấy đưa lại. Tiếng nghiến răng vẫn không dứt, nghe ra giận dữ và ghê gớm hơn lên... Tôi vội nắm lấy cánh tay anh Thao, hết sức lay. Thao thức dậy hỏi thì tiếng nghiến răng lại ngừng bặt. Tôi ghé tai Thao nói rất nhỏ:

- Này Thao ạ, tôi vừa thấy một việc lạ quá!

- ở đâu?

- ở cái đầu lâu.

- Có lẽ nào?

- Cứ để yên mà nghe.

Rồi chúng tôi không nói gì thêm, lắng tai nghe ngóng một lúc thì lại thấy như trước, tiếng nghiến răng cứ trước nhỏ, sau to dần. Thao liền đứng phắt lên, chạy lại bàn đánh diêm thắp đèn: cái đầu lâu vẫn nguyên chỗ cũ, nhưng lúc ấy ngoảnh mặt nhìn về phía giường tôi nằm.

Chúng tôi nhìn khắp nhà một lượt. Không có gì lạ. Cửa sang phòng anh Lịch vẫn đóng kín. Của sổ tuy không có cánh, nhưng có chấn song sắt, mà cái bàn giấy của Thao kê xa đó những năm sáu bước, áp vào bức tường đối diện với giường của chúng tôi.

Thao bảo tôi rằng những tiếng vừa rồi là tiếng chuột gặm, nhưng chính anh cũng biết nhà chúng tôi không có qua một con chuột nào. Và cái tiếng lúc nẫy nghe to, nghe rõ một cách khác thường lắm.

Thao thấy tôi lo ngại cũng không bình tĩnh được, nhưng anh cố tìm lời an ủi tôi.

Chúng tôi để đèn rất lâu chờ xem, song không thấy gì. Nhưng khi tắt đèn lên giường nằm chưa đầy nửa giờ, thì cái tiếng nghiến răng lúc nãy lại bắt đầu, mà lần này thêm dữ dội.

Lúc ấy, cây đèn để ngay cạnh giường ngủ. Tôi chập ba que diêm làm một bật lên thắp. Trông sang bàn giấy thì cái đầu lâu đang lắc lư như thằng phỗng nhựa của trẻ con chơi!

Ngô Đàm bỗng phì cười lên thì Chung có ý không bằng lòng.

"Quả thế, cái đầu lâu cứ nhăn nhở, lắc lư đến nửa phút. Mà chả có gì đáng cười hết. Chính anh Thao là người không sợ gì cả, lúc ấy cũng phải kinh ngạc mà nhìn tôi.

Suốt đêm ấy, chúng tôi không ngủ, cứ để đèn ngồi rình thì lại không thấy xảy ra việc gì nữa.

Sáng hôm sau (tức là hôm qua) chúng tôi nói chuyện ấy cho anh Lịch nghe thì anh cũng không tin. Sau thấy tôi nhất định nài anh Thao đem cái đầu lâu vứt đi, Lịch mới cho là chuyện có thực. Nhưng anh nói:

- Đã thế thì để đêm nay tôi cũng rình xem, rồi có thế nào vứt đi cũng không muộn.

Thì đêm qua cũng lại giống đêm trước. Cứ tắt đèn được một lúc lại thấy cái đầu lâu nghiến răng ken két mà thắp đèn lên lại thôi.

Tôi nhân đọc các sách anh cho mượn và gần đây lại được đọc một đoạn dật sử về hồi đại cách mệnh Pháp, thấy kể chuyện những thủ cấp sau ba, bốn giờ vẫn còn sống được, nên tôi càng cho việc cái đầu lâu kia nghiến răng là một việc phi thường. Bây giờ thì tôi tò mò hơn là khiếp sợ. Tôi bảo Thao cứ để yên cái đầu đấy và đến rủ anh ngủ ở nhà chúng tôi một tối xem. Tôi vẫn biết anh hay để ý đến những thứ chuyện kỳ dị này lắm".

*
* *

Ngô Đàm vui lòng nhận lời. Tôi cũng ngỏ ý muốn đi với anh ta một thể và cùng hẹn đến tối sẽ có mặt ở nhà anh Chung.

Lúc Chung ra khỏi, Đàm xoa tay mỉm cười một mình. Tôi hỏi ý anh về chuyện vừa rồi ra sao, thì Đàm chỉ nhún vai, nói:

- Tôi sợ không gặp được cái ly kỳ như anh Chung nói, không khéo lại chỉ là một câu chuyện buồn cười thôi. Nhưng dẫu sao, ta cứ đi xem, không biết đâu mà nói trước được.

Bẩy giờ rưỡi hôm ấy chúng tôi đến nhà thì các anh Thao, Chung và Lịch đang ăn cơm ở phòng vẽ của Lịch. Đàm đứng xem mấy bức vẽ than của Lịch được chừng năm phút thì các anh ăn xong. Chúng tôi sang cả phòng bên kia nói chuyện.

Trước hết, Đàm đi lại bên bàn cầm cái đầu lâu ngắm nghía mãi. Mặt anh có vẻ nghiêm trang như nhà thông thái đang khảo cứu, nhưng đôi mắt tươi cười một cách hóm hỉnh. Bỗng anh quay lại hỏi Lịch:

- Anh có thấy gì lạ ở cái đầu lâu này không?

- Không.

- Giá lúc anh cầm nó lên xem, anh chú ý chút nữa, thì thấy bốn chiếc răng trong cùng hà gần một nửa.

Lịch ngạc nhiên hỏi:

- Nhưng sao anh lại biết tôi đã cầm lên xem?

- Có gì là lạ. Anh cầm lên xem cẩn thận lắm, nhưng lúc chực bỏ cái quai hàm dưới ra để xem bộ răng thì trượt tay suýt đánh rơi xuống bàn. Có phải không?

- Phải. Nhưng sao anh biết?

- Tôi thường đọc sách của Conan Doyle, nên cũng tập được một đôi chút tỉ mỉ. Những vết đen này là bởi than vẽ ở ngón tay anh ra... Chỉ cần để ý một chút cũng thấy được. Anh đang vẽ ở phòng ngoài chắc chợt nghĩ đến cái đầu lâu, nên vào xem thử chứ gì?

Rồi Đàm đi khắp gian nhà, cúi nhìn các chân tường một cách cẩn thận như người đi tìm một vật quý đánh rơi. Anh lại nhờ Lịch cầm đèn ở phòng bên sang, còn tự anh cũng cầm cây đèn bên cạnh cái đầu lâu, và bảo dẫn đi xem chung quanh nhà.

Bên ngoài tối như mực. Trên trời mây ám không có một ánh sao nào. Ngoài một hàng dóc rào mau, xa xa thấy một đám sáng chiếu lên: đó là thành phố Hà Nội. Sau một cuộc tìm xét rất kỹ càng, nhưng rất vô ích, Đàm đạo mạo như một nhà trinh thám, bước vào trong nhà rồi xoa hai tay vào với nhau. Thốt nhiên, như sực nghĩ ra điều gì, anh nói:

- Tôi khờ quá, không đem cái đèn bấm ở nhà tôi lại.

Thao nói:

- Hay để tôi lên phố mượn?

- Anh chắc có mượn được không. Thôi để tôi về nhà lấy vậy. Phiền thực, nhưng thế chắc chắn hơn.

Lúc Đàm trở lại thì đã gần mười một giờ: anh đi nửa đường thì xe đạp nổ bánh.

Chúng tôi để sẵn diêm với đèn gần tầm tay. Cái đèn bấm Đàm trao cho Chung, còn anh ta thì ngồi ở một cái ghế thấp bên cạnh cửa sang phòng anh Lịch. Trước khi tắt đèn, Đàm dặn chúng tôi không ai được làm gì, nếu không có lời anh ấy bảo.

Đèn tắt. Bóng tối dầy đặc trong nhà. Tôi đưa tay lên tận mắt cũng không trông thấy. Thao với Lịch nằm sát vách, còn Chung và tôi thì ngồi ở mép giường. Không ai nói qua một lời. Tôi nghe hơi thở của Chung thì biết anh ta hồi hộp lắm.

Cái lo ngại dần dần ám đến. Mà sự yên lặng ở gian phòng có nhiều người này lại càng có vẻ khác thường. Chúng tôi cùng hết sức lắng tai, tiếng đồng hồ đeo ở tay anh Lịch nghe rõ mồn một. Tôi đếm tiếng tích tắc để biết thời giờ, nhưng mãi cũng sinh chán, và trong lòng lúc ấy thấy nôn nao một cách lạ. Tâm linh hình như bị kích thích và hình như báo cho tôi biết trước có một điều ghê gớm sắp xẩy ra...

Có lẽ chúng tôi ngồi đó đã ngót một giờ, có lẽ lâu hơn nữa; mà tịnh không thấy một tiếng động nào hết. Hai anh Thao và Lịch chừng như đã ngủ, tôi đưa tay định xem họ còn thức không thì bỗng Chung nắm chặt lấy cánh tay tôi, nói khẽ quá đến nỗi tôi phải đoán ra chứ không nghe rõ:

"Im! Nghe!"

Tôi chú ý nghe thì quả nhiên thấy có tiếng ken két nghiến răng thực. Lúc ấy tôi mới hiểu cái khiếp sợ của Chung. Lúc ấy tôi mới thấy rõ ràng cái ghê rợn của người gặp ma quái. Tay Chung vẫn nắm chặt lấy cánh tay tôi, nhưng hơi run run. Còn tôi thì cứ muốn quát to lên, quát rất lớn để phá tan cái yên lặng ghê gớm lúc đó.

Thấy hơi nóng ở sau gáy, tôi biết hai anh Thao và Lịch đã ngồi dậy. Tôi tráo mắt nhìn bóng tối đen đặc và mỗi lúc tưởng thấy hình thù dị thường hiện lên.

Tiếng nghiến răng càng lâu càng rõ thêm. Thỉnh thoảng ngừng lại một giây rồi lại nghiến nữa. Đàm ngồi trên chiếc ghế gần đó có lẽ cũng sinh nát đảm: chúng tôi không trông thấy anh, mà đợi mãi cũng không thấy anh bảo sao.

Hốt nhiên, từ phía đầu lâu, một tiếng quái gở gào lên trong những tiếng cười nghe sởn tóc gáy. Mọi người đều vùng dậy, tôi không đợi anh Đàm nữa, vớ lấy diêm đánh, mà Chung cũng bật đèn bấm lên.

Cái đầu lâu lắc lư như điên cuồng, và ngay cạnh đấy, một vật đen ngòm đang giẫy giụa. Mắt chúng tôi khi đã đỡ chói thì nhận ra đó là một con mèo đen bị giữ trong tay Đàm.

Đám lúc ấy, tay thì giữ mèo trên bàn, nhưng người thì ở dưới gầm bàn. Anh cả cười lách chui ra, vừa gặp lúc chúng tôi ồ cả lại. Con mèo giương mắt kinh hãi nhìn chúng tôi. Một con mèo to, đen, mà gầy, lông mọc xờ xạc không đều và không mượt.

"Đấy (lời Đàm nói) cái quái dị mấy hôm chỉ là ở con vật đói khốn nạn này mà ra cả. Các anh nên nhớ rằng cái đầu lâu vô tri giác kia còn mới, mới luộc xong, vẫn còn hơi thịt... Từ lúc anh Chung mới kể chuyện, tôi đã ngờ thế... Đến lúc xem lại cái đầu lâu với cái cửa sổ không có cánh này, thì tôi đã hơi chắc. Mà bây giờ thì đã nắm được, hì! Đã nắm được "điều huyền bí" ở trong tay".

Sự lo sợ của chúng tôi bấy giờ lại đổi ra sự kinh ngạc. Vì có ngờ đâu câu chuyện kỳ quái ấy chỉ gây nên bởi một con mèo.

1836

Jan 23, 2004

Khóc Titanic



Gặp gỡ chi nhau một chút thôi
Để trót yêu nhau đến suốt đời,
Mối tình đầu căng tràn tim chật
Nghiệt ngã thay, trời làm chia phôị..

Nhớ anh quá, nụ cười hồn nhiên,
Vai áo cũ chẳng vướng ưu phiền,
Giấc mộng hải hồ xoãi rộng cánh
Đẹp như những Hoàng Hôn... không tên...

Nhớ anh quá, ấm nồng vòng tay,
Nụ hôn đầu bởi anh chỉ bày,
Tình anh như đại dương sóng vỗ
Hồn em, thuyền nhỏ bềnh bồng say ...

Anh đã cho em biết ước mơ,
Cho em biết khôn trong dại khờ,
Cho em biết yêu bằng sinh mạng,
Biết mạnh dạn sống giữa đời dơ ...

Em muốn bỏ hết, để theo anh,
Đến những nơi anh vẽ trong tranh,
Em muốn thả chân trần dạo phố,
Sẽ sống bằng đam mê chân thành...

Nhưng nhìn kìa anh, nước tràn dâng...
Người ta bỏ chạy, anh tần ngần...
"Em đi đi, anh đi sau nhé..."
Yêu anh, em không thể rời chân

Anh giận, anh buồn, anh yêu em...
Ôm em giữa thác người cuồng điên,
Anh, tha cho em, xin đừng ép!
Xin được chết cùng trong đêm đen...

Hôn em lần cuối, thuyền đang chìm,
Lưng anh che sóng bão lênh đênh,
Thở gần cho em được sưởi ấm,
Em ngủ...hồn anh đi một mình ...

Em yêu anh! người tình của em,
Đón em anh nhé, đêm từng đêm,
Xa, gần, thời gian, và cái chết...
"I believe my heart will go on..."

(Cảm tác phim "Titanic" - tặng Người tình trăm năm ..)

1494

Diệu kế



Một quan võ có tính sợ vợ. Một hôm, đang cầm cự với giặc ở biên thùy, bỗng nghe tin mật báo là phu nhân đang ở sau lưng xông tới để hỏi tội quan về việc quan đem nàng hầu đi theo, quan bèn triệu tập ban tham mưu lại vấn kế.


Kẻ đưa kế này, người bày mưu nọ, tướng quân đều thấy không ổn. Bỗng một viên quân sư, vốn dòng râu quặp, tiến lại tâu rằng:


- Trước mặt, địch quân như gió bão, sau lưng phu nhân như nước lũ. Song lọt vào tay giặc không nguy bằng lọt vào tay phu nhân. Chỉ có nước tướng quân hàng giặc, để thoát khỏi tay phu nhân là hay hơn cả.


Ông tướng vỗ đùi khen:


- Diệu kế! Tuyệt diệu kế!

847

Jan 21, 2004

Giọt Lệ Cho Tình Người





Tôi nhớ có lần tôi xin cha cho tôi được đi Cali cùng các anh tôi. Năm đó tôi mười ba tuổi. Cha bảo tôi còn bé lắm, không đi theo các anh được. Dù không hiểu tại sao, những tôi biết lần đó tôi buồn lắm. Hôm các anh lên đường, tôi ngồi trước cửa nhà trông theo cho đến khi chiếc xe nhỏ dần và mất hút. Và tôi đã khóc. Tôi vẫn còn ngồi đó cho đến khi tôi nghe tiếng chân của cha đừng lại sau lưng. Ngó lên, tôi thấy người đang mỉm cười với tôi. Ngồi xuống bên tôi, cha hỏi:
- Con buồn lắm, phải không ?
Tôi đưa tay gạt nước mắt và gật đầu. Cha đưa cho tôi chiếc khăn tay và nói:
- Ba biết con muốn đi với các anh con, nhưng con còn nhỏ quá. Vả lại, nếu con đi thì ai ở nhà làm bạn cùng ba mẹ ?
Thấy tôi vẫn lặng yên, cha nói tiếp:
- Con buồn, ba hiểu. Nhưng có bao giờ con hiểu tại sao con khóc không ? Con còn nhớ những lần đọc thơ các cô chú gửi từ Việt Nam không ?
Tôi gật đầu. Cha nói tiếp:
- Con đã đọc thơ của các cô chú, chắc con cũng biết bên nhà bà nội, bà ngoại và các cô chú khổ cực ra sao rồi. Con biết các cô chú và gia đình thiếu hụt ra sao. Con thương nội, thương ngoại. Thế mà sau khi đọc thơ con đã không khóc. Thì tại sao con lại khóc khi không được cùng đi Cali với hai anh ? Con hiểu ba muốn nói gì không ?
Tôi vẫn lặng yên, nhưng tôi không khóc nữa. Cha đứng dậy. Người đưa tay ra. Tôi cũng đứng dậy nắm lấy tay cha và theo người bước vào nhà. Từ hôm đó tôi đã suy nghĩ thật nhiều về những gì cha tôi đã nói mặc dù tôi vẫn chưa cảm nhận được trọn vẹn. Và tôi tự hứa với lòng rằng mình sẽ không bao giờ khóc một cách vô lý nữa...

oOo

Đêm nay là đêm Giáng Sinh.

Tôi nhìn từng đứa trẻ hân hoan bước lên nhận quà từ ông già Noel mỗi khi nghe tên mình được gọi. Các em là những đứa trẻ được đưa đến trại tị nạn đặc biệt này. Đặc biệt vì nó được dành cho các trẻ em mồ côi thân nhân trên đường vượt biên, nhất là các em bé bị tật nguyền. Ở những đôi mắt của các em, tôi thấy lại tuổi thơ của mình. Tôi đọc thấy nét vui mừng thật hồn nhiên, thật ngây thơ của các em với những món quà nhỏ bé mà chúng tôi đã mua bằng số tiền thật gói ghém của bạn bè thân thuộc gửi qua cho. Những món quà không đáng bao nhiêu tiền nhưng đối với các em thật là vô giá. Nhìn các em khoe quà với nhau và nghe tiếng các em cười, ai ngờ rằng ở những đôi mắt đó tôi đã đọc được sự nghi ngờ, mất mát. Ở những đôi môi đó, tôi đã nghe các em kể lại những gì các em đã chứng kiến trong kinh sợ, hãi hùng. Tôi đã nghe để ý thức mình thật may mắn được lớn lên trong sự bao bọc của tình thương cha mẹ, anh em. Tôi muốn chia xẻ tình thương đó với các em đêm nay. Tôi nhìn các em cười đùa bên nhau mà nghe một niềm vui dâng lên trong lòng mình. Ít nhất trong cuộc sống đầy mất mát hôm nay, các em đã có được một vài giờ phút vui tươi, những kỷ niệm đẹp để làm hành trang cho ngày mai bất định. Dù tương lai các em có ra sao đi nữa, ít ra trong ký ức, các em đã một lần biết được sự ấm áp của tình người, biết được vẫn có những tình thương dành riêng cho các em trong thế giới này - những tình thương chân chính, thật tình chứ không phải vì tội nghiệp hay thương hại.

Tôi ngồi nghe các em hát những bài nhạc Giáng Sinh theo sự hướng dẫn của các soeur. Tôi đang bế một em bé trong tay mình. Bé đang ngủ say sau khi vui đùa với bạn bè. Trên mặt bé còn phảng phất nụ cười hồn nhiên. Bé trở mình và đan vòng tay nhỏ thật chặt sau cổ tôi. Trong cơn mơ, em gọi mẹ. Tôi nghẹn ngào ôm em chặt hơn. Đưa mắt nhìn chung quanh, tôi cố ghi nhớ từng nét mặt, từng nụ cười của các em, nhưng tất cả đều nhạt nhòa trong đôi mắt tôi chợt ướt. Và tôi hiểu được những gì mà cha tôi đã nói với tôi gần mười năm về trước.

Đêm nay tôi không muốn kềm hãm sự xúc động của tâm hồn mình, của con tim mình. Đêm nay tôi muốn sống thật trọn vẹn với cảm nhận, với tình thương, với những vòng tay ôm thật nhỏ bé nhưng thật nhiệm mầu của tuổi thơ. Và nếu tôi có mắt cay, lệ nóng, những giọt lệ đêm nay xin được dành cho các em, cho tuổi thơ Việt Nam lớn lên trong bơ vơ, trong lưu đày, cho tương lai bấp bênh của các em ngày mai trước mặt, cho những tháng ngày xa xứ ly hương. Những giọt lệ đêm nay, xin được một lần dành cho tình người trong cuộc sống lạc loài hôm nay.

1267

Nếu là đàn ông



Một anh chàng lúc nào cũng đội chiếc mũ lưỡi trai trên đầu, vừa tắm xong, đang đi vào phòng thay đồ của câu lạc bộ thể hình, thì trông thấy một người lạ mặt khoác bộ đồ của anh ta đi ra ngoài.

Không một tấm vải che thân, chỉ có mỗi chiếc mũ đội trên đầu, chàng trai liền đuổi theo tên trộm. Tới một khúc quanh thì đụng phải hai cô gái, họ nhìn anh ta rồi phá lên cười.

- Nếu các cô là phụ nữ - Anh chàng vội lấy mũ che..., bực mình nói - thì các cô sẽ không cười một người trong hoàn cảnh như tôi.

- Còn nếu anh là một người đàn ông lịch sự - Một cô gái nói - anh nên giở mũ ra chào chúng tôi!!!

1028

Mảnh Vỡ Ký Ức



Hắn sững người lại trước bậc cửa. Choáng váng. Cái cảm giác hệt như lúc lãnh đủ cả một cú đấm vào mặt. Và sau đấy cơ hồ như đang rơi xuống vực sâu hun hút. Hắn không nhớ rõ hắn đã ở trong trạng thái phi trọng lượng ấy bao nhiêu lâu cho đến khi có một bàn tay đập lên vai:
- Vào nhà đi chứ!
Hắn “à” lên một tiếng rất to, dúi vào tay thằng bạn món quà được bọc trang trọng bằng giấy hoa sặc sỡ “Này của cậu” còn ánh mắt thì chăm chăm hướng về một phía. Phải! Hắn đã nhận ra cô ngay từ cái nhìn đầu tiên. Cô không thay đổi là bao so với hai năm trước đây; vẫn dáng vẻ nhỏ bé, mềm mại và dịu hiền như một cọng cỏ. Bất giác hắn nghe lòng chùng xuống. Dư âm ngọt ngào còn đọng lại đầu môi. Phương Thảo! Ký ức của anh.
Bỗng nhiên cô cảm thấy lúng túng. Những ngón tay bối rối đan chặt vào với nhau. Đúng ra cô không đến đây. Không cần thiết phải làm phép thử với chính mình. Căn phòng ngột ngạt quá, hình như hơi đông người thì phải, lại ồn ào nữa. Chủ nhân bận rộn mời khách, bận rộn nhận những lời chúc mừng sinh nhật bóng bẩy. Cô muốn đứng lên, ngay lập tức rời khỏi nơi này. Đôi chân mềm nhũn dưới gầm bàn không nghe lời cô nữa. Mơ hồ trôi xung quanh những màu xanh, đỏ, tím, vàng, mùi nước hoa, mùi son phấn. Cô đưa nước lên uống, đau đớn hiểu rằng cô đã đánh mất sự bình yên giả tạo mà cô có được trong hai năm qua. Sự lãng quên về một con người chẳng qua chỉ là ảo giác để cô tự thỏa hiệp với chính mình. Hắn vẫn luôn tồn tại vẹn nguyên, nhức nhối trong tâm tưởng của cô.
Hắn xoay xoay ly rượu trong tay. Cô ở xa quá, chìm lấp giữa đám bạn bè. Hắn không thể nhìn cô rõ ràng hơn. Hắn thèm được đến bên cô, được chạm tay vào mái tóc xõa dài ngang lưng. Khó nhọc lắm hắn mới kìm nén được bản thân. Cần phải tỉnh táo, hắn tự nhắc nhở mình. Đây không phải là giấc mơ. Giá như trong mơ, hắn sẽ lao đến bên cô, không ngần ngại giữ cô trong vòng tay rắn chắc “Phương Thảo, anh yêu em” mặc kệ mọi phép tắc, mọi lời xì xào bàn tán.
Cô quay sang, vồn vã trả lời câu hỏi vu vơ của người ngồi cạnh. Hốt hoảng nhận ra giọng nói mình run rẩy. “Sao mặt Thảo tái mét? Ốm à?”. Cô ngơ ngác lắc đầu, khổ sở vì không làm chủ được chính mình. Trái tim trong lồng ngực đập gấp gáp, buốt nhói. Cô lại thấy mình yếu đuối và dại khờ như hai năm trước đây. Vậy mà cô cứ tưởng rằng mình đã trưởng thành, rằng sẽ thản nhiên nhìn về quá khứ với một nụ cười bao dung. Cô cắn chặt môi, mình không thể khóc, chẳng phải cô đã khóc quá nhiều cho một sự đổ vỡ không hề xứng đáng đấy thôi. Mà nước mắt thì nào có giải quyết được vấn đề gì, chỉ làm cho con người ta thêm mụ mẫm.
Hắn lại cầm lấy ly rượu, dốc vào cổ họng cái thứ cay cay như một thói quen. Hắn chuếnh choáng trong đôi mắt nâu, mái tóc đên mềm mại và nụ cười có chiếc răng khểnh. Đã có một thời chúng là của hắn, đã có một thời cô ở bên hắn. Trí nhớ đưa hắn về với những tháng ngày xa xưa. Giảng đường đại học, thời sinh viên sôi nổi nghèo túng và mối tình xe đạp đơn sơ… ánh mắt hắn dõi tìm cô trong đám đông. Hôm nay cô mặc chiếc áo dài màu trắng, hờ hững chiếc khăn quàng trên bờ vai. Cô mỏng manh quá, cứ y như là không hề có thật. Hắn phải giữ cô lại, che chở cô trong vòng tay của hắn; nếu không cô sẽ biến mất. Hắn thở dài, mặc cảm đã ngăn hắn đến bên cô. Sự tự ái còm cõi vô lý của thằng đàn ông trong hắn đã đóng đinh chân hắn xuống nền nhà. Hắn nhếch mép, chua chát. Ngày xưa, vì sự nghèo hèn hắn không giữ được cô. Còn bây giờ thì khác. Hắn đã có tiền và có danh tiếng. Hắn muốn thấy cô ân hận. Cô sẽ phải nuối tiếc vì quyết định sai lầm của mình. Hắn sẽ không hạ mình. Hắn đâu còn là thằng sinh viên vô danh tiểu tốt quanh năm chui lủi trong khu ký túc chật chội đầy rác rưởi. Hắn muốn cô phải ân hận.
Cô khép hờ mắt, cảm nhận rất rõ sự gần gũi của hắn. Những sợi dây linh cảm trong cô rung lên. Đã lâu lắm rồi cô có thói quen bình thản trước những người bạn khác giới. Đối với cô họ đều tốt và nhiệt tình như nhau. Vậy mà bây giờ? Hắn là mối tình đầu của cô, là thần tượng của cô, là nơi để cô chia sẻ những giận hờn, buồi vui nho nhỏ. Nhưng thật thảm thương cho tình yêu của cô; hạnh phúc ào qua, nỗi đau ở lại. Sau gần một năm chật vật vác tấm bằng cử nhân văn chương khắp các phố phường Hà Nội tìm việc làm, cuộc sống đã dạy cô thế nào là thực tế. Cô bằng lòng chia tay với những tác phẩm văn học nghệ thuật, lao vào các cua học ngoại ngữ, tin học. Cô không còn cách lựa chọn nào khác. Cô không thể sống bám vào đồng lương hưu còi cọc của bố mẹ, không thể cứ tiếp tục ngửa tay xin mẹ tiền ăn sáng. Bố mẹ đã cực nhọc nuôi cô ăn học suốt hai chục năm trời. Ngày cô được chính thức nhận vào công ty xuất nhập khẩu thì cũng là ngày cuối cùng hắn gặp cô. Hắn không hiểu gì hơn về nghề thư ký ngoài việc pha cà phê và mua vui cho ông chủ. Giải thích cũng là vô ích. Tình yêu chỉ còn lại con số không tròn trịa. Hắn cao thượng bỏ rơi cô trong sự độc đoán khắc nghiệt. Cô độc, cô lặng lẽ tiếp tục cuộc hành trình. Bây giờ mỗi lần nghĩ lại cô vẫn rùng mình, ngày ấy không hiểu bằng cách nào cô đã vượt qua nổi?
- Dạo này cuộc sống của em thế nào?
- Cũng như mọi người, còn anh?
Lấy hết can đảm cô nhìn sâu vào mắt hắn. Hắn có vẻ chỉn chu, đĩnh đạc hơn nhiều so với chàng sinh viên cao lêu khêu của cô.
- Em vẫn ở nơi cũ - Giọng hắn thoáng giễu cợt.
- Vâng – Cô đưa tay vuốt tóc. Thế này mà lại sự gặp gỡ của đôi tình nhân sau hai năm xa cách? Vẫn ánh mắt thân quen, vẫn khuôn mặt xưa cũ mà cô đã yêu thương, mà cô đã tôn thờ. Những ngón chân tê cứng ngọ ngoạy trong đôi giầy cao gót, có lẽ mình sẽ ngã quỵ mất. Cô đã quá mệt mỏi. Cô muốn về nhà, ngã nhào vào lòng mẹ “Thôi em về trước” và ngẩng cao đầu bằng tất cả lòng kiêu hãnh còn rớt lại. Có một thứ linh thiêng lắm đã vỡ vụn trong cô.
Hắn đứng lại phía sau những bước chân của cô. Hắn muốn quỳ xuống trước mặt cô ngay lúc này, ngay tại đây “Phương Thảo hãy tha lỗi cho anh. Em đừng đi”. Cô vẫn bước đi trong sự thản nhiên. Hắn bải hoải, rã rời; tưởng như sức lực đang rời bỏ hắn. “Phương Thảo, em hãy ở lại đây. Anh muốn nói với em rằng thời gian không thể làm thay đổi tình yêu trong anh”. Mái tóc cô bồng bềnh tung bay. Hắn tuyệt vọng đổ người xuống ghế. “Thảo ơi!”.
Cô đạp xe, đều đều từng vòng quay, những con đường chật chội, những ngả phố thân quen. Quả thật là quá tàn nhẫn khi nhận ra rằng hai năm qua cô đã phung phí tuổi thanh xuân để ôm ấp một hy vọng hão huyền. Hắn không bao giờ có thể vượt qua chính mình để đến với tình yêu. Cô nhấn mạnh trên pêđan, lơ mơ nghĩ đến những mối quan hệ nhạt nhòa, những khuôn mặt na ná như nhau. Có lẽ sẽ yêu một người trong số họ. Mẹ sẽ đỡ lo lắng cho cô, mẹ sẽ không còn phải cằn nhằn “Con gái đó thì…”. Nút thời gian đã điểm cho sự chờ đợi của cô. Ngày quen hắn cô mới 18, giờ đã 25. Cô không thể cứ mãi đứng trên vỉa hè, hờ hững nhìn tuổi trẻ của mình đi qua để mong một điều không bao giờ đến.
Những bước chân đưa hắn đến ngôi nhà có giàn hoa lan tiêu quen thuộc. Hắn không thể dừng lại được nữa. Hai năm, hắn đã trốn chạy vào trong công việc. Hắn mà dửng dưng ư? Lạnh lùng ư? Không đâu, hắn yêu cô điên dại nhưng sự tự ti đã bắt hắn phải câm họng. Phương Thảo, em sẽ chấp nhận chứ một người bây giờ đứng trước em? Là anh, chính là anh!
- À! Cậu đấy ư, sao lâu lắm không tới nhà chơi, mà cậu không biết gì sao, con Thảo nó vào Nam rồi. Nghe nói nó làm đại diện gì đó cho chi nhánh công ty ở trong Sài Gòn.
Hắn nặng nhọc lê những bước chân rã rời, nghĩ về tính hợp thời, sự đúng lúc của tình yêu. Tình yêu không cần đức tính nào hết. Phương Thảo, có lẽ nào em không hiểu? Hắn so vai, cảm nhận đến tận cùng nỗi đau của sự mất mát. Thế là hết, hết tất cả rồi. Hắn trôi trong màn sương trăng trắng giữa đôi bờ hư thực. Đầu tê buốt. Rồi hắn đứng lại giữa phố, cảm thấy mình kiệt sức, bất lực. Con đường dài hun hút dưới chân. Gió rít lên từng đợt nghe lành lạnh. Mùa đông. Lá khô rụng tơi bời.
Cô lặng lẽ nép mình trong khoảng tối của ban công, nhìn hút theo dáng đi lầm lũi của hắn. Đã qua thật rồi những ước mơ xưa cũ, muốn đưa tay níu kéo cũng chỉ còn những mảnh vụn của ký ức mà thôi. Mẹ âu yếm đặt tay lên vai cô “Vào nhà đi con, khuya lắm rồi”. “Ngày mai khi con thức dậy thì trời lại sáng phải không mẹ?”. Mẹ xoa đầu cô mỉm cười. Cô òa khóc, cảm thấy mình nhỏ bé, bình yên trong lòng mẹ. “Ngủ đi con mai sáu giờ con đã phải sang sân bay rồi. Vào trong ấy một thân một mình…”. Rồi thời gian sẽ xóa mờ tất cả. Cái còn lại cuối cùng chỉ là những mảnh vỡ của ký ức. Những mảnh vỡ mà vô tình khi chạm phải vẫn làm ta buốt nhói.
703

Chiếc Lá Hình Giọt Lệ



Suốt thời niên thiếu , tôi nghiện hương vị tết phả ra từ căn bếp chị Thời . Hương vị ấy ăn sâu bám mãi trong lòng tôi, dai dẳng, da diết mỗi độ xuân về .
Sau tiết đại hàn, khi mưa chỉ còn lất phất, lâm thâm và rét đã đằm đi, dịu lại , cây mai vàng trảy lá sớm của chú Tâm lác đác vài nụ chúm chím, chị Thời bắt tay chuẩn bị tết . Từ bên ni hàng rào chè tàu ngăn hai nhà, tôi thấy chị tất bật đi về với những giỏ xách nặng trĩu. Mẹ nhìn qua lẩm bẩm : " Cái con giỏi thiệt! Tao mà thằng Tâm..." - Mẹ bỏ lửng câu nói nhìn chú Tâm ngồi thẫn thờ ngắm nắng, lắc đầu .
"Mai nắng to không anh Tâm ? " - chị Thời nhìn chú, hỏi qua rào. Chú Tâm nhìn trời ngâm nga: " Trời mưa thì mặc
trời mưa . Tôi phơi dưa món...trời chừa tôi ra" . Chị tủm tỉm cười bắt tay làm dưa món . Nhìn chị tỉ mỉ tỉa dưa mà không nỡ ăn. Ngọn lá , cây thông, hoa đào, trái lựu bằng đu đủ đẹp như ngọc ; những con thú bằng cà rốt, su hào xinh như đồ chơi . Có một năm chú Tâm dự báo thời tiết không đúng, chị phơi dưa vào ngày không được nắng. Dưa thiu, chị ỉu xìu, còn chú Tâm quạt lửa than cho chị ngồi hong đến nửa đêm. Cái thẩu dưa món không trắng ấy chị gọi là "dưa - nắng - ốm !".
Cái tết đối với tôi không chỉ ba ngày. Nó dài ra theo những ngày làm mứt và ăn mứt nếm của chị. Đi học về là tôi chạy bổ sang nhà chị. Bao giờ cũng thấy chị ngồi trong bếp gọt me , gọt quất, gọt gừng, rim mứt... tóc rối ren , người sực nức mùi mứt ngào ngạt. Học xong, tôi lại qua ngồi canh mứt với chị, đợi chị cho ăn mứt vét. Đối với tôi, không có thứ mứt nào trên đời ngon lạ ngon lùng như thế. Tinh túy cả thau mứt dường như lắng lại trong những vụn đường, vụn mứt dướì đáy thau . Vụn dừa béo ngậy. Vụn gừng nồng nàn. Vụn khoai bùi đậm mê người. Vụn sen ngon đến bối rối... Có khi đợi không nổi, tôi ngủ gục trên vai chị. Cả trong giấc ngủ tôi vẫn cảm nhận được sự ấm áp, thơm tho không bờ bến vây bọc lấy mình trong đêm cuối đông.
Chú út Tâm của tôi mắc bệnh thất tình từ khi chị Hà người yêu chú, đột ngột đi lấy chồng. Chú hay lẩm bẩm đọc thơ hoặc ngồi im như bụt. Nhưng chớ dại chọc chú nói . Chú sẽ tuôn ra như nước chảy miên man câu chuyện tình đầy ắp ký ức chú đếm lần thứ một ngàn lẻ một. Chỉ có một người lắng nghe lần thứ một ngàn lẻ một chuyện tình của chú mà không trêu chọc, đó là chị Thời.
Nhà chi Thời có ba cô con gái. Chị là con đầu, không đẹp nhưng lại có mái tóc còn đẹp còn hơn tóc ngưòì mẫu quảng cáo dầu gội đầu. Tôi thích nhìn chị mặc áo lụa, túm hờ hai lọn tóc mái bằng chiếc nơ nhung đen đằng sau. Nghe nói hồi đi học có nhiều ngườì "chết đuối " trên suối tóc chị nhưng không hiểu sao chị vẫn chưa có chồng. Mái tóc ấy luôn gội bằng bồ kết , hong khô bằng gió trời, ngan ngát mùi hương bưởi, hương nhu, óng ả, mềm mại, dìu dịu bay bay đến say lòng. Tôi hay nhìn chị hong tóc qua bờ rào , cả Chú Tâm cũng nhìn , nhưng khi tôi hỏi chú có đẹp không thì chú lai lạc đề về một mái tóc khác . Rồi không hiểu vì cớ gì chỉ cắt phăng mái tóc dài đẹp nhất xứ Huế . Tôi tiếc ngẩn ngơ , nhặt chiếc nơ nhung đen chị quẳng ép vào cuốn từ điển . Chẳng biết để làm gì Tết năm ấy tôi không còn được ngủ gục trên mớ tóc dài ngan ngát hương mứt của chị nữa . Năm ấy vụn mứt đượm mùi khét đắng.
Mẹ rủ chị Thời lên chùa Linh Mụ cúng giải lời thề cho chú Tâm vì bệnh chú mỗi ngày một nặng. Chú cứ lang thang dọc đường Lê Lợi để đón chị Hà tan trường dù chị Hà đã theo chồng tận đẩu đầu đâu . Những cặp tình nhân ở Huế không mấy ai chọn chùa Linh Mụ làm chứng cho sự thề nguyền vì sợ nữ thần áo đỏ của chùa nổi cơn ghen giáng
xuống bất hạnh. Thế mà chú và chị Hà lên chùa học thi , dại dột thề nguyền chi nơi đó...
Rồi không phải nữ thần giải lời thề mà chính chị Hà về lôi chú ra khỏi cơn mê hoang tưởng về một mỗi tình vĩnh cửu . Tôi không nhận ra chị vì chị như một quí bà, béo ra , đầy trang sức và son phấn . Chị thương hại nhìn chú Tâm gầy gò, xơ xác, lầm bầm đọc những câu thơ dành cho chị và chợt rùng mình vì không gắn kết số phận với một người như thế. Chú Tâm dường như tỉnh lại bởi cái rùng mình của người chú đã yêu điên dại cả tuổi thanh xuân . Chiều ấy, những bài thơ tình chép bằng mực tím lả tả thả bay trong gió . Tôi tiếc chạy theo lượm đem cho chị Thời. Chị ngồi đọc, chậm rãi như uống từng giọt trong bóng hoàng hôn.
Hai cô em song sinh của chị Thời , thua chị mười tuổi , học cùng lớp với tôi hoàn toàn trái ngược với chị như nước và lửa. Hai đứa giống nhau như đúc, đẹp đến phát sợ, nổi tiếng từ ngày còn mặc áo đầm đi học mẫu giáo qua các kỳ thi bé khỏe, bé đẹp, hoa hậu nhí... Một đứa mặc đầm vàng , một đứa đầm xanh để dễ phân biệt. Hai sắc màu ấy trở thảnh tên thường gọi của chúng - con Vàng , con Xanh . Con Vàng dễ ghét lại ngồi gần tôi . Hễ tôi chạm vào cái áo đầm xòe to như cái hoa hướng dương của hắn thế nào cũng bị hắn véo. Có Cái gì khoe , hắn cướp ngay .Nắm đấm chưa chạm vào người , hắn đã bù lu bù loa nằm vạ. Con Xanh hiền hơn, dẫu vẫn khuôn mặt búp bê giống hệt con Vàng. Tôi và hắn hay chơi trò nấu ăn, trò vợ chồng . Cơm nấu trong cái nồi đất nhỏ xíu, chưa
kịp xới ra những cái chén bằng lá mít đã bị con vàng ném đá bể nồi. Con diều cắt dán cả tuần chưa kịp thỏa khao khát trời xanh đã bị hắn xé toang rồi lấy chân giẫm lên. Tôi nắm áo bắt đền, hắn nắm tóc tôi tru tréo. Tôi gọi chú Tâm. Hắn gọi chị Thời. Kết cục mỗi đứa bị đét vào mông một roi mới yên chuyện.

o0o

Tôi càng lớn, chị Thời càng làm mứt tết ít đi. Bánh hộp , kẹo hộp mứt công nghiệp ê hề ra đó, vừa đẹp vừa rẻ, chỉ cần một giờ ra chợ là có ngay cái tết nên chẳng mấy ai bỏ cả chục ngày dài để làm như chi ngày ấy. Có làm cũng chẳng mấy ai ăn. Mốt mứt đã tàn lụi. Món mặn và đồ nhắm lên ngôi. Đi nhà nào cũng thấy giò chả, nem , tré, thịt nguội, đồ nhắm dưa cay. Tôi đi học xa về, sà vào bếp chị , ông Táo về trời mấy hôm rồi mà bếp "vẫn lạnh tanh " , chỉ mấy thẩu đồ chua trên kệ , chị bảo nhà không cho làm. Bạn con Vàng, con Xanh thì nhấm nháp kẹo Sô cô la , hạt điều. Bạn bố thì thưởng thức đồ nhắm nguội mua sẵn. Mứt ế phải đem cho bọn con nít nghèo trong xóm. Không có cái bếp sực nức mùi mứt của chị Thời , hương vị tết đối với tôi bỗng nhạt hẳn. Tôi bỏ đi chợ tết với bạn gái. Cô ấy không biết làm mứt và cũng không cần biết , chỉ mặc thật đẹp ra phố , dạo qua hàng mứt bánh nhón nếm và chén mỗi thứ một ít. Thế mà hồi nhỏ tôi bảo với chị Thời lớn lên em chỉ lấy cô nào làm mứt ngon như chị . Tết năm nay về nh
à tôi lại thấy bếp chị rộn ràng. Những trái me dầm đẹp như ngọc xúm xít nhau trong thẩu .
Những trái quất rim vàng óng gối đầu lên nhau. Rồi mứt hạt sen đài các, mứt khoai dân dã, mứt khế như cô bé lọ lem mà tôi mê mẩn cũng có mặt. Trên lò than âm ỉ nóng lại là thau mứt dẻo rối lòng rồi dạ bởi sự hoạ quyện màu sắc , hương vị cay chua ngọt đắng như đời... Người chị lại sực nức mùi mứt, ấm nồng hơi lửa , má đỏ hồng, tóc rối ren... Chị giải thích năm nay có khách xa về ăn tết. Con Xanh lấy chồng ở nước ngoài về thăm nhà sẽ đem theo một ông Việt kiều về giới thiệu cho con Vàng. Vả lại có em và anh Tâm về . Chị nhìn tôi rồi nhìn ra cửa, ánh mắt đợi mong. Tỉnh giấc mộng tình, chú Tâm cầm cái bằng tốt nghiệp trường sư phạm tình nguyện về nơi cuối đất làm thầy giáo ở đất rừng U Minh . Chú hẹn năm nay về ăn tết.
Con xanh trở về đúng lúc chị Thời vừa hoàn thành món bánh bó mứt . Tôi đứng nhìn chị trộn các loại mứt quất, gừng, cam, bí... đã cắt mỏng vào chảo đường bột đánh nhuyễn trên bếp sau đó bưng cả chảo trút lên cái mâm rải sẵn bột nếp khô , lấy tay nắn thành đòn dài . Con Xanh lao vào bếp, hôn tới tấp lên đôi má dính bột nếp của chị Thời , rên lên : "Em nhớ nhất cái bếp của chị ! ". Nó quay qua tôi hôn đánh chụt vào trán "ông chồng thời thơ ấu " rồi ngắt đại một miếng bánh trên mâm cho vào miệng nhai ngấu nghiến như kẻ đói khát hương nhà. Nó vẫn như ngày nào, đẹp rực rỡ và không để cho người khác yên.
Con Vàng thất vọng vì ông Việt kiều con Xanh dẫn về đã già nhưng con xanh bảo chỉ hơn chồng nó năm tuổi . Nhiều lắm là như bài hát " Năm anh hai mươi, em mới sinh ra đời. Ngày anh bốn mười, em vừa tròn đôi mươi..." .
Đó là một kẻ tha hương bị lưu đày trong nỗi nhớ quay quắt trở lại quê nhà thì đúng hơn. Con Vàng không hợp gu với ông Việt kiều đẫm hương đồng nội này. Những bộ áo váy cực kỳ thời trang phô thân thể son trẻ của nó không tác dụng . Vẻ đẹp từng quyến rũ bao hội đồng chấm thi thời trang, sắc đẹp từ bé đến giờ không lọt qua cửa sổ tâm hồn của người đàn ông đang là đối tượng săn đuổi của nó . Ông ta thích lang thang một mình theo những lối mòn của ký ức để tìm lại thời gian đã mất hơn là đi nhảy nhót với nó . Ông ta mê mải nhặt những từ cố lỗ sĩ , quê bỏ xừ của các mụ nhà quê, các gánh bún bò, cơm hến hơn là ngôn ngữ thời thượng của nó. Một lần nghe chị Thời mắng yêu tôi " ăn như thúng lủng khu " ông hớn hở nhặt ngay như nhặt được cục vàng, cám ơn chị rối rít làm chị ngỡ ngàng . Ông bảo hồi nhỏ ông bị mạ ông mắng như rứa khi ăn một lần ba tô cơm hến. Nghe lại nhớ quá! Nhà chị Thời mời đi ăn cơm vua ở khách sạn Hương Giang , ông lại xin ăn một bữa cơm dân tại gia . Chị Thời phụ trách trong bóng tối bữa cơm ấy để con Vàng được là tác giả ngoài ánh sáng. Cá bống thệ kho tiêu kiểu Huế cứng ngắc, cong vòng, canh rau dền nấu tôm, chột nưa kho, thịt phay chấm tôm chua kèm đã chuối chát, vả , khế, rau thơm trình bày đẹp như một tác phẩm nghệ thuật và chè khoai tía tráng miệng . Bữa cơm nhà bình thường ấy đem lại kết quả mỹ mãn. Ông Việt kiều ăn như mở toang cảm giác đón nhận hương vị, ăn chầm chậm như ngậm mà nghe mùi vị nhung nhớ trào về rồi thở hắt ra lời khen rất Huế : "Răng mà ngon dễ sợ ! " ông nhấp đắm say từng ngụm nước chè tươi thơm nức mùi gừng và bảo hai mươi năm rồi ông mới lại được ăn một bữa cơm đượm khí vị quê nhà như thế. Mẹ con Vàng được dịp khoe hắn nấu nướng giỏi, coi bộ chịu chơi vậy chứ nếu cần cũng đảm đang lắm. Còn con Vàng bảo chuyện đó đối với hắn dễ dàng như ngồi sơn móng tay.
Hai mươi tám tết, chú Tâm vẫn chưa về. Tôi phải thay chú canh nồi bánh tét . Nhà chị Thời cũng nấu. Hai bếp lửa chụm đầu nhau bên rào. Cây mai nở rộ, toàn thân như tỏa ánh vàng trong bóng đêm, phả một mùi hương nhớ. Chị Thời kể cho tôi hồi bé chị hay trèo lên cây mai mở to mắt không chớp để rình coi mai nở. Thế nhưng chẳng bao giờ
Chị chộp được khoảnh khắc ấy vì chú Tâm ác lắm cứ nắm áo kéo chị xuống. Có lần chị kéo bị té gãy chân phải bó bột, còn chú chuộc lỗi bằng cách cõng chị đi chơi cả tháng...Chị phụ mẹ làm mứt bán tết từ thuở mười ba. Khi mẹ đẻ con Xanh, con Vàng chị làm một mình, tay sứt sẹo, nứt ra vì gọt me, gọt quất...Chú Tâm thấy tội hay qua gọt giùm. Chú gọt me giỏi vì thế... chị ngồi bó gối, giấu ánh mắt trong ngọn lửa bập bùng , gương mặt buồn và kiêu hãnh có phần héo hon bởi năm tháng , mái tóc để dài lại gói trong chiếc kẹp cứng ngắc.
Tôi lục tung đống sách cũ tìm chiếc nơ nhung đen bị gián gặm lỗ chỗ đưa cho chị . Chị cài lên tóc, cười mà mắt như có nước.
Chú Tâm về vào chiều 30 tết . Nghe tiếng reo mừng chú bên kia rào, chị Thời luống cuống suýt đổ cả nồi chè đậu xanh đánh nấu cúng giao thừa. Mặt chị tái đi nhưng đôi mắt ngời ngợi một niềm vui không tả nỗi, xôn xao chảy tràn trên khuôn mặt vốn trầm tĩnh của chị. Môi chị run run nửa cười nửa mếu. Dưới thứ ánh sáng kỳ diệu của tình yêu mãnh liệt mà câm nín ấy trông chị đẹp lạ lùng. Tôi và chị chạy ào ra cửa bếp. Chị nhìn sững chú Tâm, còn tôi nhìn sững một bóng người đứng dưới cội hoàng mai. Đó là bóng một cô gái. Trái tim tôi bỗng thắt lại bởi một linh cảm vừa ào tới . Tôi quay lại nhìn chị Thời như cố khắc ghi thoáng hạnh phúc mong manh rờ rỡ trên mặt chị trước khi nó lịm tắt.

o0o

Mứt của chị Thời năm nay không ế. Chị bỏ bùa trong những món mứt khiến ông Việt kiều quanh quẩn mãi bên nhà con Vàng nhấm nháp mứt với nước trà. Hắn khoe cá sắp cắn câu vì ổng tưởng hắn làm . Ông khen món ăn nhà nó đậm hương vị quê hương , có mùi văn hóa , ăn ngậm mà nghe . Kiểu này lấy ổng , tao Phải đem theo bà Lạc Thời ! " - con Vàng cười . "Rồi ổng biết mi không nấu được nước sôi thì mần răng ? " . " Dễ ợt. Qua đó không hợp thì llẹ ly dị . Khối người rứa. Chết ai mô ! ". Tôi ngắm đôi môi tô son tím lịm mốt Hàn Quốc của nó đang dấu ra và không hiểu tại sao nó là em ruột chị Thời .
Ông Việt kiều chính thức ngỏ lời với nhà chị Thời, nhưng không phải xin cưới con Vàng mà là chị Thời . Đúng là một quả bom nổ ! Mẹ chị ngồi sững không biết nói thế nào . Con nào cũng là con . Con Vàng há hốc miệng rồi nanh nọc: "Tân thời không ưa , lại ưa lạc thời . Dắt nhau về thế kỷ 19 mà sống, đây đi lấy chồng Hồng Kông ". Nó nguýt
ông Việt kiều cổ lỗ sĩ một cái tưởng như cắt ông ta làm mấy mảnh rồi rú xe ra khỏi cổng , chầm dứt những ngày đóng vai yểu điệu thục nữ , công dung ngôn hạnh .
Tôi không ngạc nhiên. Tôi không tin một người sâu nặng với kỷ niệm và quá khứ như ông Việt kiều lại chọn một tạo vật xinh đẹp phù phiếm như con Vàng thay vì một người lặng hơn nước, thấp hơn cỏ nhưng sức sống tâm hồn vẫn trào dâng ngay cả khi ngồi im lặng...
Chị Thời không nhận lời cầu hôn lại được xem là quả bom nổ thứ hai trong vòng một ngày. Không đẹp, lớn tuổi , coi như thuộc loại ế thế mà chị lại từ chối không luyến tiếc cả chú Tâm cũng khuyên vào , chị ngồi im, lặng lẽ ngó qua bên kia hàng chè tàu, nơi trước kia chú Tâm thường thờ thẫn đi lui tới lẩm bẩm mấy câu thơ:

" Tình thơ dại ai ngờ sâu nặng thế.
Năm tháng đi mà tình yêu vẫn ở
Mai cho dù tóc trắng với ngàn lau "

Nắng hoàng mai vừa tắt, chú Tâm đã bàn chuyện hôn nhân của chú . Cô kia cũng dạy học, mồ côi, neo đơn nên cưới hỏi một lần cho tiện, sau đó dắt nhau vào lập nghiệp ở quê người. Chú bảo trong đó dân tình ấm áp, đơn giản , đễ sống lắm . Chú đã tìm lại niềm bình an. Mấy mâm cỗ cưới chú trông cậy vào đôi tay khéo léo đảm đang của chị dâu (tức là mẹ tôi) và cô bạn thân từ thuở thơ ấu . Chị Thời nhận lời và bắt tay vào việc chuẩn bị . Tôi hay xót xa nhìn trộm chị nhưng chỉ gặp một chị Thời lặng lẽ, khép kín không thể thấm qua. Ngày cưới càng kề, chị càng bận rộn như thể đám cưới chị . ánh đèn trong bếp vẫn đỏ cho đến nữa đêm . Chị thức làm bánh ga tô , bánh phu thê... Thấy chị ngồi tỉ mỉ dưa chua , tôi bỗng cáu:
- Kệ họ ! Đi ngủ cho khỏe!
- Em cưới vợ, chị còn thức hơn thế nữa.
- Em không khiến. Dọn nhà hàng. Đã rứa... còn hành người ta!
- Làm việc luôn tay... khỏi nghĩ trong đầu...
Chị cười ngu ngơ rồi lại cắm cúi tỉa dưa . Chẳng biết làm gì , tôi xúm vào giúp chị cho mau xong việc. Chị vẫn tỉ mỉ như ngày nào làm dưa món. Tôi chợt thấy trên tay chị rơi xuống những chiếc lá mất cuống , thiếu răng cưa, thuôn thuôn " hình giọt lệ " , những giọt lệ đu đủ đẹp như ngọc , những giọt lệ cà rốt hồng tươi như máu. Tôi nhận ra chị Thời đang khóc.
247

Jan 20, 2004

Trái đất tròn quá



Tóc vàng về đến nhà vui vẻ:
- Anh yêu này, trái đất tròn thật đấy! Tình cờ em vừa gặp người vợ thứ ba của anh và người chồng thứ hai của em đang hưởng tuần trăng mật ở biệt thự mà người vợ thứ hai của anh cùng với người chồng đầu tiên của em bán cho họ...
1731

Lòng Ngưỡng Mộ Phật Pháp của Vua A Dục



Hoa thơm nhờ nhụy
Người có giá trị bởi đạo đức.

Vua A Dục trước là người rất độc ác, từ khi theo đạo Phật đổi thành người rất nhân từ. Hồi mới theo đạo, vì lòng cảm mộ quá dồi dào nên mỗi khi ngự ngoài đường hễ gặp vị Tỳ kheo nào đi ngang qua, liền xuống kiệu khấu đầu lạy.

Có một vị đại thần tên là Da Tát lấy thế làm quá đáng bèn can ngăn vua rằng: "Các Tỳ kheo kia chẳng qua là những người các cấp đi hành khất ngoài đường, không đáng tôn trọng lắm". Vua yên lặng không trả lời.

Cách vài ngày sau, vua truyền cho các quan văn võ, mỗi ông phải đem bán một đầu súc vật, và cho biết giá bán các đầu ấy như thế nào. Ông Da Tát phải bán một đầu người. Các đầu súc vật thời bán được với giá tiền sai khác hơn kém nhau, duy có đầu người của ông Da Tát bán thời không ai mua cả. Vua hỏi  cớ sao, ông Da Tát trả lời: Vì đầu người là vật hèn hạ không có giá trị gì, Vua lại hỏi: "Chỉ có một đầu này là hèn hạ hay tất cả đầu người đều hèn hạ?" Ông Da Tát đáp: "Tất cả đầu người đều hèn hạ". Vua bèn hỏi: "Vậy đầu Trẫm đây cũng hèn hạ sao?" Ông Da Tát sợ hãi không dám nói, sau Vua cũng thú thật đầu Vua cũng hèn hạ.

Vua bèn giảng cho ông Da Tát nghe rằng: Phải! Người muốn can ta đừng lạy các vị Sa môn là nhà ngươi có ý kiêu căng tự đắc. Nhưng cái đầu của Trẫm này là một vật hèn hạ không ai thèm mua, vì cúi xuống mà được thêm công đức, thêm giá trị lên, thì phổng có hại gì? Nhà ngươi muốn chỉ trích các thầy Sa môn là người các cấp không sang trọng nhưng nhà ngươi không rõ uy đức của các Thầy. Khi nào có đi ăn tiệc, ăn đám cưới thời mới nên hỏi đến giai cấp người ta, chớ đi tu học phân biệt gia cấp làm gì. Như người sang trọng danh giá bị tội nặng thời ai cũng nói "Người này là kẻ có tội" và ai cũng đem lòng khinh bỉ. Trái lại con người hèn hạ mà tu nhân tích đức thời ai cũng kính trọng ai cũng cúi đầu.

Vua nói đến đây, bèn chỉ hẳn vào mặt ông Da Tát mà nói lớn rằng: Nhà ngươi há lại không biết câu này của Ðức Phật Thích Ca hay sao? Ngài dạy "Người có trí thời dầu vật không có giá trị cũng làm nên giá trị". Ta muốn theo Phật, ngươi lại can gián ta, ấy là bất trung. Ðến khi ta nằm xuống đất như cây mía kia thì dầu muốn lạy, muốn đứng dậy, muốn cung kính cũng không sao được nữa, thời làm thế nào được công đức. Vậy ngươi để yên ta lạy các vị Sa môn để kiếm chút phước đức. Nếu có người dám tự nói "Ta là người đáng tôn trọng hơn cả", thời người ấy là người u mê nhất đời vậy. Nếu lấy huệ nhãn của Ðức Phật mà xem xét thân thế, thời biết thân thể ông vua và thân mọi người giống nhau, cũng là da, thịt, xương, khác nhau chỉ có cái phù hoa trang sức bề ngoài. Nhưng cốt yếu ở đời là lòng đạo đức thời trong thân thể người hèn hạ nhất ở đời cũng có được, chính cái ấy con người trí giả gặp đâu cũng phải cung kính phải vái lạy vậy.


Hết
493

Jan 19, 2004

Yêu kiểu sao Hỏa



Một anh chàng đẹp trai, lịch lãm, trông rõ không phải người địa phương, đi trên xe buýt và ngồi cạnh một cô. Thỉnh thoảng anh ta lại sờ vào vai cô nàng rồi đưa lên mũi ngửi, vẻ mặt rất "phê". Cô nàng lấy làm thích thú, hỏi:

- Anh từ đâu tới?

- Từ sao Hỏa.

- Tuyệt vời! Em rất thích người ngoài hành tinh. Thế anh có thích em không?

- Có.

Hai người đưa nhau về khách sạn, thuê phòng.

- Anh yêu em đi - cô gái giục.

- Thì trên xe buýt anh đã "yêu" em suốt đấy thôi - "Người sao Hỏa" trả lời và lại tiếp tục... sờ vai, đưa lên mũi ngửi.2628

Yêu kiểu sao Hỏa



Một anh chàng đẹp trai, lịch lãm, trông rõ không phải người địa phương, đi trên xe buýt và ngồi cạnh một cô. Thỉnh thoảng anh ta lại sờ vào vai cô nàng rồi đưa lên mũi ngửi, vẻ mặt rất "phê". Cô nàng lấy làm thích thú, hỏi:

- Anh từ đâu tới?

- Từ sao Hỏa.

- Tuyệt vời! Em rất thích người ngoài hành tinh. Thế anh có thích em không?

- Có.

Hai người đưa nhau về khách sạn, thuê phòng.

- Anh yêu em đi - cô gái giục.

- Thì trên xe buýt anh đã "yêu" em suốt đấy thôi - "Người sao Hỏa" trả lời và lại tiếp tục... sờ vai, đưa lên mũi ngửi.2628

Rủi ro càng lớn càng hấp dẫn



Một đại lý bảo hiểm đang sôi nổi thuyết phục khách hàng:
- Thưa ngài, nếu bị mất ngón tay cái, ngài sẽ được đền bù 10% số tiền bảo hiểm, tức là khoảng 100 triệu. Còn nếu mất đi một cánh tay, ngài sẽ được hưởng ngay 500 triệu...
- Mức đền bù cao nhất là bao nhiêu?
- Vâng, nếu ngài bị gãy xương sống thì tuyệt! Khi đó, ngài sẽ giàu to.

2067

Jan 17, 2004

Bến Thần Tiên



Xin em nói với thời gian
Ghé thuyền chở hộ ta sang bến Thần.
Lên bờ vừa mới đặt chân
Nước non đâu bỗng trong ngần gần xa.
Quanh mình cũng chỉ có ta
Sao nghe nhân loại hòa ca với mình
Không hoa, cũng chẳng lá cành,
Mà sao em đã tạo thành sắc duyên

Tạo hình gió thoảng, trăng lên
Hoa bên bờ suối, mây trên đá gành.
Một mình em sáng tạo anh
Theo em, anh sáng tạo thành đôi ta.

Thời gian rót xuống dần dà
Một mình êm dịu bao la đất trời
Trải bao đau khổ trong đời
Mới dành cho - phút được ngồi - bên em.
882

Nàng Ưu Đà Di



Ðược tin Hoàng tử cùng vợ đi săn, dân thành Ca Tỳ La Vệ lo sửa soạn những cây cảnh trước nhà, họ xây những chậu hoa nào có màu tươi đẹp nhất quay mặt ra phía ngoài đường để đón chào vị Thái tử.


Người ta chờ đợi nhìn khuôn mặt hiền từ với đôi lông mày dài và mềm lượn trên đôi mắt xanh như dòng nước biếc của sông Hằng, dáng điệu dõng dạc và thân hình nở nang của vị thiếu niên lúc nào cũng dẫn đầu một bọn lính kỵ vai đeo binh khí sáng chói, hùng hổ trên những con ngựa mập mạp. Ngày nào Thái tử dạo chơi thì đêm đó những tiếng đàn của các thiếu nữ trong thành vang lên, vừa quấn quit, vừa não nùng, khiến cho những hoa xung quanh vườn hình như say nhạc mà quên mất hương của mình bay tận đâu đâu và những kẻ láng giềng cũng ngẩn ngơ bỏ dở việc làm ngồi thừ như pho tượng.


Người ta uổng công chờ đợi chiều hôm ấy. Các hoa đẹp chỉ khoe sắc với khách qua đường. Ở phía cửa thành Thái tử đã bỏ dỡ cuộc đi săn. Thái tử Thích Ca thấy cảnh trái ngược giữa thân thể mạnh khỏe của mình như một cái cây đang lớn, với một hình vóc xấu xí của ông già kia như que củi khô: râu tóc bạc phơ bờm ra như lông lá của một con vật, thân ông cong quắp, tay với sát đất như chực bò.


- Có như vậy được chăng? Một người tráng kiện như ta bây giờ một ngày kia cũng thế?


Thái tử tự bảo rồi quay ngựa trở về.


Tối hôm ấy ánh trăng vằng vặc trên lâu đài nhà vua. Hoa kỳ cỏ lạ trong hoa viên sáng lên như ngọc. Vua Tịnh Phạn đã được thị vệ cho hay, Thái tử bỏ dở cuộc dạo chơi vì gặp một cụ già. Vua bèn mở ngay cuộc khiêu vũ dưới muôn ngọn đèn hoa để làm khuây Thái tử. Nhưng Thái tử Thích Ca vẫn không quên được ông già và màu râu tóc bạc hình như lại hiện về trên các khuôn cây ở hoa viên dưới ánh trăng bàng bạc.


Vua lo sợ săn sóc đến Thái tử như vậy, vì chỉ có một mình Thái tử là người kế vị. Thái tử là một thiếu niên anh tuấn mới 19 tuổi người đã thông thuộc cả các nghề. Nào thiên văn, địa lý, nghị luận, thi phú, văn chương, âm nhạc, hội hoạ, bói toán, phù chú, võ nghệ, trong nghề nào Thái tử cũng là người xuất chúng. Không những vì thế mà vua yêu quí, vua yêu quí Thái tử vì Thái tử là kết quả của cuộc nhân duyên đằm thắm giữa vua và hoàng hậu Ma Ha Ma Da. Thái tử là một mối tình thiên liêng của Hoàng hậu để lại cho vua ở thế giới này.


19 năm về trước, một đêm nằm mộng, Hoàng hậu thấy mình lạc vào khu rừng hoang vu. Một con voi trắng sáu ngà đến ve vuốt bà mãi. Một hôm biết  mình thụ thai, Hoàng hậu mới đem chuyện ấy nói cho vua nghe. Vua đoán là một điềm mộng tốt và rất vui mừng vì vua đã 50 tuổi rồi và Hoàng hậu cũng xấp xỉ tuổi vua, nếu may ra, Hoàng hậu sanh được Hoàng nam, vua sẽ có người kế vị.


Theo tục Ấn Ðộ phải về nhà cha mẹ mà đẻ. Một ngày ở vườn Lâm Tỳ Ni nước Câu Ly quê hương của Hoàng hậu Ma Ha Ha Da, chim kêu không ngớt tiếng, mặt trời lên cao chói sáng hơn cả mọi ngày. Ðêm ấy các khóm hoa đều tỏa hương thơm ngào ngạt. Hoàng hậu Ma Da ra dạo ở vườn hoa của vua Thiện Giác (anh bà), thơ thẩn nhìn trăng bà nguyện cầu: "Hởi những đấng thiêng liêng hãy phù hộ con con tôi sau này trong sáng như mặt trăng kia, trí tuệ của nó sẽ rộng rãi bao trùm cả thế giới như ánh sáng mặt trăng".


Sao dần dần thưa, trên bầu trời đen thẳm. Rạng đông bừng sáng một phía vườn. Hoàng hậu bỗng thấy đau bụng, bà tựa vào một cây Vô Ưu.


Mặt trời vừa lên tỏa ánh sáng vàng ửng khắp vườn Lâm Tỳ Ni, một trẻ lọt lòng xinh đẹp và toàn vẹn hơn cả những châu ngọc ở cõi trần. Trẻ ấy là Thái tử Thích Ca.


Từ hôm Thái tử bỏ dở cuộc đi chơi về, nét trầm ngâm vẫn thoáng trên gương mặt sáng lạng tinh anh... Muốn giả sầu cho Thái tử, ngày nào vua cũng đặt ra những cuộc chơi trong cung điện. Các bọn ca nhi vũ nữ cùng các đào hát thầy đàn tha hồ được dịp trổ tài. Vua lại còn ra "Chỉ" xem ai có vật lạ nghề hay đem vào cung để làm vui Thái tử đều được hưởng.


Người ta đem đến những thứ hoa quỳnh to bằng cái đĩa lớn, những hoa lài cánh ta bằng cái hồng, những hoa sen vàng nở lá bốn mùa, những cây chuối trăm buồng, những giống quái vật ở núi ở biển, những san hô, ngọc cùng các thứ chạm trổ khéo léo. Trong các thứ ấy có con ngựa làm cho Thái Tử chú ý đến. Con ngựa vừa đẹp vừa khôn ngoan. Mình mẩy đều đặn, bốn chân thon thon, nó đứng bên cạnh những con ngựa to lớn nhất trong cung, thì những con này cũng thành thấp bé, những hình hài của nó làm sao sánh nổi với màu sắc của nó, tròng đen trong mắt nó có một sắc đen lánh như hột huyền, móng chân của nó đi vào trong tối thì sáng lên như sừng tê giác, lông nó mướt và trắng như tuyết trên núi Hy Mã Lạp Sơn, bờm của nó óng ánh như tơ vàng mềm mại và ở quanh cổ nó có nhung vân màu ngũ sắc dợn lên như một cầu vồng. Chưa hết đâu, người ta lại khéo đeo hai chân trước nó hai cái lục lạc âm dương, lúc ngựa chạy tiếng nhạc hoà lên một điệu xao xuyến và huyền bí như tiếng suối chảy trong đêm khuya, giọng chim riú rít trong rừng xa. Có lẽ từ hôm được con ngựa ấy, Thái tử cũng khuây được nỗi buồn. Nhưng đêm đến, vua còn sợ không có gì để giải trí cho Thái tử, nên bày ra không ngớt những cuộc vui. Ðêm hôm ấy cũng như mọi hôm, trong cung đều có múa hát trà tiệc, dưới ánh những cây nến có ngọn lửa to như bó đuốc, các vàng bạc ngà ngọc khảm trên các cây cột, trên trần nhà, trên các áo mão của người trong tiệc đều phản chiếu lên muôn ngàn màu sắc lạ. Hương trầm ở bốn phía tỏa ra ngào ngạt và rượu trong những cốc thủy tinh đủ màu như muôn hoa ở một vườn xuân, các vũ nữ đều thi tài múa hát, thân hình uyển chuyển theo âm nhạc như những gợn sóng, mặt mày tươi như những hao sen một buổi sớm mùa hạ. Ðiệu múa rất tự nhiên. Chân tay họ như làm bằng một thứ sáp, thứ bột gì rất dẻo tha hồ để cho một bàn tay vô hình uốn nắn. Một người chưa thấy cảnh ấy, nếu lạc vào đây e tưởng mình đã lên tiên. Nhưng những cảnh đẹp ấy đối với cặp mắt Thái tử quen lắm rồi. Ðêm ấy người ta mời một người con gái vừa tài vừa sắc đến giúp cuộc vui.


Các vũ nữ vừa kéo vào, một tiểu thơ quần áo trắng bước đến, nét mặt của nàng một cách ngây thơ và hồn nhiên. Trên tay nàng cầm một cây đàn chín dây, nàng cúi chào rồi quỳ xuống giữa chiếc thảm xanh như một đóa hoa mọc giữa một vùng lá biếc.


Người ta không rõ nàng đàn bản gì. Toàn xứ Ca Tỳ La Vệ chưa ai được nghe. Người nghe bản đàn ấy dầu có một mối sầu khó giải trong lòng cũng có thể nguôi được, dầu có tánh giận dữ đến đâu cũng thấy trở lại ôn hòa. Một bản đàn khiến cho người ta thấy sống ở cõi trần này là một cõi êm ái. Cứ mỗi lần nàng nghỉ tay, người nghe lại không biết từ đâu có tiếng chim rất trong nổi lên để tiếp theo. Nàng đã khéo luyện tập được một con chim khôn ngoan và bắt nó đậu trên cây đàn. Người ta tưởng con chim ấy hòa một bộ phận của một cây đàn, không ai ngờ những tiếng chim bay ra lại là của con vật xinh xinh kia. Ðàn xong, nàng cất tiếng hát. Chao ôi! tiếng hát lại trong bằng mấy tiếng đàn, khi lên khi xuống như hẹn hò trước với điều ao ước riêng của từng người. Trước khuôn mặt ngây thơ của người hát và giọng ngân trong trẻo, lòng ghen tuông của các cung tần không có thể có nữa.


Nàng dứt tiếng hát, Thái tử thấy khoan khoái, các người trong tiệc như ngây như dại, từ nãy đến giờ nín hơn để nghe, bây giờ mới dám thở ra. Thái tử quay lại mỉm cười, một người thị vệ đã nhanh nhẩu tâu: "Tâu Thái tử! Nàng Ưu Ðà Di, dòng dõi Bà La Môn".


Như có mặt trời trên mình ngựa, Thái tử vui vẻ hầu như xóa được nỗi buồn xưa. Thị vệ được vui lây nên có người dám vui đùa như những lúc Thái tử không có gì phiền não. Thái tử đối với người hầu tử tế như anh em. Một người thị vệ thưa Thái tử.


- Thái tử có nhớ cái nhà trồng rất nhiều hoa ở phía nam hoàng thành?


- Nhà ấy có gì lạ, ngươi sẽ bảo ta nghe!


- Bẩm Thái tử! Ở đó có những tiếng nhạc, mà không có ai xứ này được nghe, họa may có một mình tôi.


Thái tử mỉm cười nhớ lại cái đêm nghe đàn trong cung.


- Hay hơn tiếng nhạc của Ưu Ðà Di chăng? Thế thì ngươi hãy dẫn ta đi đến đó.


- Bẩm Thái tử chính là Ưu Ðà Di.


- Sao ngươi bảo chưa ai được nghe?


- Bẩm Thái tử một đêm rất khuya, một đêm mà kinh thành Ca Tỳ La Vệ đều say trong giấc ngủ, hôm ấy tôi được nghỉ, phóng ngựa về thăm nhà. Lúc qua đấy tình cờ nghe được tiếng đàn thanh thót ở ngôi nhà kia đưa ra. Tôi dừng ngựa ngơ ngẩn quên mất việc về thăm nhà. Bẩm Thái tử, tôi đã nghe một khúc hát kỳ lạ hơn khúc hát ở trong cung hôm trước.


- Thế thì ta rẻ lối này.


Thái tử Thích Ca vừa nói vừa rẽ ngựa sang tay trái, các thị vệ đều mỉm cười sung sướng bước theo người.


Vó ngựa rầm rộ trên đường sỏi, gió thổi cái bờm óng ánh tơ vàng của con ngựa đi qua lớp áo nhung trắng cài khuy đỏ của Thái tử. Cái khăn trắng lớn trùm ngang trán để lộ ngọc bào, một nốt thịt nổi cao giữa hai hàng lông mày và phủ ngoài mớ tóc đen như mun, sợi tóc nào cũng uốn tròn về phía hữu.


Dưới màu trời xanh thẳm, ở trước mặt Thái tử xa xa một thành phố hiện lên trong quang đãng. Thái tử, trong một phút, đã nghĩ đến những nóc nhà kia là của thần dân dưới quyền vua cha. Mà trong đám nhà ấy, lại có ngôi nhà của người con gái tài hoa. Thái tử lại hình dung người đánh đàn hôm trước.


Vừa lúc ấy có những tiếng rên khừ khừ bên đường lọt vào tai Thái tử. Thái tử quay lại hỏi thị vệ:


- Hình như có người rên, các ngươi hãy lắng tai nghe có phải chăng?


Các thị vệ lắng tai nghe rồi đồng thanh trả lời:


- Bẩm Thái tử quả có.


Tiếng rên rõ lắm ở trong một bụi cây bên đường. Bên bụi cây, một người đen đủi gầy đét, đầu đã rụng tóc, da đầu lòi ra như sọ dừa, khắp thân mình đều lỡ lói ghê sợ, cả thân hình bệnh nhân xông lên một mùi rất hôi hám khiến cho người xem không dám đến gần. Tên ấy là một tên hủi thuộc về phái Bà Li A, là một phái hạ cấp ở Ấn Ðộ bị khách qua đường đá vùi xuống đấy như một con vật, vì không ai muốn gần một người bệnh ở một giai cấp mà người ta cho là hèn mạt. Nghe tiếng có người đến gần, nó gần đưa hai tay cụt bàn như hai cái càng lên trời và đôi mắt nó gần như mất hết tròng đen cũng cố mở để nhìn lên cao. Như tuồng nó không còn tin rằng những người đồng loại của nó còn thương xót nó. Trước cảnh ấy Thái tử buột miệng than:


- Còn cách gì chữa được nữa chăng?


Một người theo hầu tiếp trả lời:


- Bẩm như đến bệnh hủi ghê gớm kia thì không còn phương thuốc gì chữa được.


Thái tử Thích Ca cởi áo mình - cái áo nhung trắng có cúc đỏ và chỉ vàng thêu ở trước ngực đắp cho kẻ kia rồi cùng thị vệ quay về.


Trên đường về, đôi mắt Thái tử Thích Ca trở nên buồn bã, lúc nào trên gương mặt cũng tỏ dáng đăm chiêu suy nghĩ. Vua tìm hết cách để làm cho Thái tử vui mà cũng không có hiệu quả gì. Tình cờ một hôm vua sực nhớ đến người con gái đánh đàn. Vua ngẫm nghĩ, có lẽ Thái tử buồn bực vì cảnh cung cấm có vẻ tiều tụy, cung tần mỹ nữ không biết trang điểm, không có tài ăn nói để giải buồn Thái tử, họa may còn có con bé này; hôm trước ta nghe những khúc hát của nó cũng phải mê mẩn tâm thần, thấy mình quên hết những phiền muộn ở đời. Ừ mà phải, nó là dòng dõi Bà La Môn, tài gì mà không có sức học uyên thâm, giới hạnh nghiêm chỉnh. Ta sẽ nhờ nó xem sao.


Nghĩ như vậy bèn sai người mời Ưu Ðà Di vào cung, nàng khiêm tốn tâu rằng:


- Tâu Hoàng thượng, ân đức Hoàng thượng hầu khắp cả thần dân trong nước, ai ai lại không truyền tụng, tôi như hạt bụi dưới ánh mặt trời, như bọt nước trong bể cả. Bấy lâu chỉ biết tận hưởng những ân huệ cao siêu của Ngài, bây giờ Ngài ủy thác cho công việc theo hầu Thái tử tôi rất lấy làm vui, nhưng cũng lấy làm sợ.


- Nàng Ưu Ðà Di, tài đức của nàng sắc đẹp của nàng ở đây ai lại không biết, hãy nhân dịp này để tỏ lòng trung thành của nàng. 


Hôm ấy vua đến khuyên Thái tử:


"Ðã biết bao lần ta phải nhắc lại rằng ta chỉ còn một mình con ở trên đời này là ta quý mà thôi. Ðã biết bao lần con làm ta phải âu sầu nhớ đến mẹ con chăng? Ôi? nếu con biết những sự mong mỏi của mẹ con lúc tuổi tác cao mà vẫn chưa thai nghén, nếu con biết những lúc mẹ con cùng ta sung sướng với giấc mộng kỳ lạ của mẹ con. Ôi! Nếu con biết những nỗi hân hoan của mẹ con lúc mang con trong lòng cầu nguyện cho con sau này được hơn người. Cứ mỗi lần con không vui ta bùi ngùi tưởng nhớ đến mẹ con và tiếc rằng không còn mẹ con ở đây để dỗ dành con hộ ta".


- Thưa cha, con đã là đứa con bất hiếu, con xin từ nay yên vui để cha bằng lòng, để linh hồn mẹ con được nhẹ nhàng trên chín từng trời thẳm. Mẹ con bây giờ còn làm sao gặp được con nữa, mà con cũng vậy, hình ảnh mẹ con còn có tìm đâu được ở trần giới này.


Như biết được Thái tử Thích Ca sắp rơi vào bẫy của mình, vua vẫn ôn tồn không lộ vẽ sung sướng của mình.


- Lời con nói nhắc ta nhớ đến một việc mà ta quên hẳn đi.


- Thưa cha nhớ lại việc gì?


- Còn một người sống ở thành này rất giống mẹ con ngày xưa.


- Thưa cha người ấy là ai con muốn tìm cho gặp.


Phải, ý nghĩ của con rất hay, vì tội nghiệp cho con, con vừa ra đời được bảy hôm thì mẹ con vội từ giả vườn Lâm Tỳ Ni, người con muốn chẳng ai xa lạ, chính là nàng Ưu Ðà Di, người đánh đàn hôm trước.


Tối đó ở hoa viên, Ưu Ðà Di ngồi trên một ghế da trước mặt vua và Thái tử. Trăng Ấn Ðộ tỏa một thứ ánh sáng huyền ảo trên thành quách, những cây trắc cao vút như muốn níu theo điệu nhạc do chính dây tơ dưới mười ngón tay tài tử đưa ra bên cạnh, những khóm lài đầy trĩu những hoa có hương ngào ngạt khiến cho những người hầu đứng bên dẫu có chất phát cho mấy cũng trở nên mơ mộng như nhà thi sĩ.


Hôm sau vua ban cho cha mẹ Ưu Ðà Di vàng ngọc châu báu để rước nàng vào cung. Tuy được trọng thưởng ông bà cụ không khỏi buồn vì xa con.


- "Vàng ngọc châu báu có quý đâu bằng tình mẹ con. Xa con mẹ lấy làm đau lắm. Con hãy còn nhỏ, rồi đây ai săn sóc con. Tuy vậy lệnh nhà vua không ai dám trái. Mẹ cầu nguyện cho vua và Thái tử sẽ yêu mến con như thầy mẹ đối với con vậy".


Ưu Ðà Di an ủi mẹ:


- "Con đã lớn rồi mẹ ạ! Lẽ đâu con phải bắt mẹ lo lắng cho con. Hoàng tử người rất hiền lành, như mẹ đã thấy những khi Ngài dạo trước cửa nhà ta. Con sẽ cố làm cho Ngài vui, thế nào Ngài cũng chiều con như mẹ vậy". Ông cụ ít bịn rịn hơn, khuyên con:


- "Con đã 15 tuổi rồi đó, gắng mà giữ gìn tâm tính. Con phải luôn luôn khiêm tốn nết na như những ngày sống gần thầy mẹ vậy, vì chức vị của cải dễ làm hư tâm tánh con người lắm đó. Thôi con cứ vui đi, thầy mẹ cũng mừng cho con".


Ưu Ðà Di cúi đầu vâng lời cha mẹ, rồi nàng chạy tìm em, một cậu bé đang loay hoay dán một con diều nhỏ.


- Em ở lại vui vẻ nhỉ! Ðừng làm phiền cha mẹ, rồi lúc nào chị sẽ đem quà bánh về cho em. Em sẽ thay chị cho các con vật mình nuôi ăn uống. Luôn luôn săn sóc chứ đừng đánh đập nó.


Nói đoạn nàng kéo tay em ra vườn để thăm lại những cảnh vật thân yêu. Cây khế mà dưới gốc nàng đã bao lần ngồi hát, ngồi đàn cho cả nhà nghe.


- Nàng đi còn có ai mà hát dưới đêm trăng nữa? 


Cây huệ than:


- Ai vuốt ve tôi? Tôi nở hoa cho ai?


Hoa hồng nũng nịu:


- Tôi lấy tóc ai mà bíu nữa?


Ưu Ðà Di trả lời:


- Các bạn ơi, thầy mẹ tôi và em tôi lại săn sóc hơn tôi nữa kia.


Ðàn ngỗng lúc bấy giờ ở dưới nước lại kéo lên:


- Rồi đây ai chìa tay cho chúng tôi mổ?


- Em tôi sẽ đưa bàn tay xinh xắn hơn tôi cho các ngươi.


Nước trong hồ cũng phụng chịu:


- Chiều chiều ai soi bóng trong lòng tôi nữa?


- Còn có em tôi soi bóng trong lòng của ngươi, em tôi còn ngoan ngoãn hơn tôi, đẹp đẽ hơn tôi.


Bồ câu và các thứ chim trong vườn cũng bay đến.


- Nàng đi thật đấy à? Vắng nàng chúng tôi hót cho ai nghe đây và ai hát cùng chúng tôi?


- Có thầy mẹ tôi và em tôi nghe những điệu thánh thót của các ngươi, giọng em tôi còn tốt hơn giọng tôi, sẽ hòa cùng các người.


Con chó lúc bấy giờ cũng chạy quấn quít bên chân nàng:


- Nàng đi, ai vuốt ve tôi và dắt tôi đi dạo?


- Em tôi vẽ vui đùa với ngươi.


Lúc ấy con chim nhỏ của nàng nuôi ở đâu cũng bay đến:


- Tôi nhất định theo nàng.


- Em sẽ theo ta và đậu trên cây đàn của ta.


Lúc cha mẹ và em đưa ra đến cửa, nàng như nhớ việc gì, quay lại bảo em:


- Em có nhớ những nhà tu hành ngày ngày đến xin ăn trước cửa, em sẽ kính cẩn em các thức ăn ra biếu lấy em ạ.


Ở cửa xe ngựa đã sẵn sàng để đón lấy nàng vào cung điện. Những người theo hầu nghiêng mình chào đón.


Về cung, Ưu Ðà Di tìm hết cách để làm cho Thái tử vui. Trước vẻ hồn nhiên của người con gái ấy, Thái tử không thể buồn được nữa. Ngày nào Thái tử cũng cùng với nàng cưỡi ngựa đi dạo trong khu vườn rộng thênh thang. Bên cạnh những đóa hoa tươi sắc, những lá biếc xum xuê biết hót bằng tiếng chim. Vợ Thái tử là bà Da Du Ðà La rất yêu mến nàng vì nhờ nàng bày vẻ những điệu hát những bài đàn cho con bà. Ưu Ðà Di lấy những lời rất dịu dàng để khuyên bảo như chị với em. Ðối với những người hầu hạ lúc nào nàng cũng tỏ ra là một người vừa nhũn nhặn vừa khoan dung. Nàng lại đem lòng yêu mến tất cả những người xung quanh nàng. Nàng lại biết tự tay đi hái những lá thuốc để chữa bệnh cho những người ở bên nàng trong cơn nguy hiểm.


Nhưng ở đời hễ được nhiều người mến chuộng thì lại tăng phần căm tức ghen tuông của những đứa tiểu nhân. Cũng may ở trong cung chỉ có một người ngầm ghét Ưu Ðà Di mà thôi, người đó là một cung tần tên là Sai A.


Một bữa Ưu Ðà Di vào phòng mình thấy quần áo treo trên móc đều bị con gì nhấm thủng cả, mà căn phòng cao ráo ấy làm gì có dán hay chuột. Hôm khác nàng thấy cây đàn tự nhiên đứt mất mấy dây, nàng phải nhọc công một buổi để buộc dây cho đúng điệu. Có hôm nàng săn sóc chậu hoa quý định đem bày ở phòng sách của Thái tử. Buổi sáng hoa ở chậu vừa nụ xinh tươi, thế mà chiều đến nàng phải khóc, vì không thấy hoa ở trên cành nữa. Ưu Ðà Di đoán có ai ngầm hại mình, nhưng nghĩ mãi cũng chẳng biết là ai, vì trong cung mọi người đối với nàng đều tử tế cả. Nhưng trong khi nàng không biết ai ngầm hại mình, Sai A lại càng nghĩ ngợi những mưu kế ghê tởm để ngầm hại. Nhưng hắn không ngờ làm một việc dữ chưa chắc hại nổi ai mà mình lại bị điều dữ đến cho mình.


Một tối hắn biết thế nào Ưu Ðà Di cũng ngủ rất say vì nàng phải đàn khuya, hắn khuyên một đứa tớ rất trung thành của hắn lén vào phòng của Ưu Ðà Di theo lời dặn của hắn.


Ưu Ðà Di thiêm thiếp ngủ trên chiếc nệm trắng tinh, đôi tay nho nhỏ của nàng trong giấc ngủ vẫn không rời cây đàn chín dây. Con chim xinh xinh đang đậu ở đầu giường. Cái dáng điệu ngủ đáng yêu và vô tội ấy, ai nỡ đứng trước mà nghĩ đến những chuyện giết hại được.


Lúc ấy con hầu của người cung tần vừa đến bên người lính canh ở trước phòng của Ưu Ðà Di. Nó toan lấy thuốc mê ra bỏ theo lời dặn của Sai A nhưng nó lại ngầm nghĩ: anh này say ngủ như chết, có bỏ cũng phí, để lát nữa ta bỏ cho cô bé này cho nhiều, càng nhiều càng mê lâu ta càng dễ hành động.


Nó mỉm cười, mất cả lo lắng từ trước, bước sang người anh lính hầu ngủ lăn trên đất. Nó mở cửa lẻn vào phòng Ưu Ðà Di, con chim thấy động kếu ríu rít và đến mổ tay người con gái đang ngủ. Nhưng vì nhọc Ưu Ðà Di say mê như không biết gì. Con hầu của Sai A tức khắc rút một ít thuốc rẩy trên mắt nàng và đưa tay xua đuổi con chim. Chim sợ sệt bay lên ở một góc phòng, nhưng nó vẫn kêu ríu rít. Con thị tỳ lại rút trong túi ra một cái hộp con. Nhưng tay nó dừng phắt lại. Trước khuôn mặt hiền từ đang nằm ngủ say, nó cảm thấy như đứng trước một vật gì trong sạch, rất quý báu, nó muốn ôm chầm lấy để thu tất cả mọi tội lỗi. Nó quay đi không nỡ làm hại con người đang ngủ ấy nữa. Ngực nàng Ưu Ðà Di nhẹ nhẹ lên xuống hình như nàng ngủ một giấc vô cùng êm ái. Nhưng con thị tỳ quay lại sực nhớ phần thưởng của Sai A hứa cho nó. Ðồng tiền bao giờ cũng có một sức mạnh xúi giục người ta dễ làm bậy. Phần vì ham tiền thưởng, phần vì sợ nếu không được việc sẽ bị chủ hành hạ, con thị tỳ mắm miệng quay vào. Nó quả quyết rút cái hộp ra. Nếu nó lanh tay một tý thì người con gái hiền hậu kia không còn ở trên đời này nữa, nhưng tay nó run lật bật, một con rít trong hộp đáng lẽ rơi trên mình Ưu Ðà Di, lại cứ bíu lấy hộp rồi bò thẳng lên tay nó, nó khiếp sợ quá thét lên, lúc ấy tên lính hầu vừa tỉnh giấc và con hầu của Ưu Ðà Di ở phòng bên cạnh nghe tiếng rú chạy vào. Con nữ tỳ của Sai A không tài nào thoát khỏi. Trong lúc kinh khủng nó thú cả tội lỗi. Không mấy chốc nó bị điệu cổ vào nhà giam xét hỏi và những viên lương y đã đến giải thuốc mê cho Ưu Ðà Di. Cơ mưu của Sai A bị tiết lộ. Vua tức giận lắm định đem giết kẻ làm việc ác đức ấy đi cùng với tên thị tỳ đã giúp việc cho hắn. Ưu Ðà Di được tin ấy động lòng thương hại xin cho những kẻ kia được nhẹ tội. Cảm lòng nhân đức của nàng tuy phải tù tội, nhưng tránh được cái chết, lấy làm ăn năn tội ác của mình, từ ấy thề sẽ chữa lại tâm tánh. Còn những kẻ ở trong cung càng yêu mến người con gái nhân đức kia.


Hết cái nạn ấy, Ưu Ðà Di được sống vui vẻ bên cạnh Thái tử. Thường hai người cùng đánh cờ, cùng đọc sách, cùng hòa đàn. Thật là đôi thiếu niên sung sướng trong đời này vậy. Tuy thế có những việc xảy đến mà không bao giờ người ta ngờ có được, hôm ấy đoàn ngựa của nhà vua lại ung dung kéo ra cửa thành phía đông. Mặt trời quang đãng trên con đường phẳng, đoàn ngựa chạy dưới bóng hai hàng cây kè kè lá xòe ra như những cái quạt lớn. Qua những cây ấy, Thái tử nhìn thấy những người cày ruộng mình trần trùi trụi cùng với những con trâu hì hục cày bừa trên những thửa ruộng lầy lội. Một luồn gió mát thổi qua, Thái tử bất giác nghĩ đến cái khoái trá trên mình ngựa dưới bóng cây râm mát và cái cảnh lam lũ của những người làm ruộng kia dưới ánh nắng mặt trời gay gắt. Cảnh tượng ấy, Thái tử đã gặp từ năm còn nhỏ trong một cuộc dạo chơi với vua cha. Thì ra lòng thương xót của người không theo thời gian mà thay đổi. Cảnh tượng ấy vừa qua, đi được một lát, đoàn ngựa gặp phải một vật gì lù lù nằm choáng cả lối đi. Một tên thị vệ tâu:


- Bẩm Thái tử cho tôi đến trước xem vật gì nằm choáng ngang đường. Nói đoạn, hắn phi ngựa chạy đến trước. Lúc Thái tử cùng bọn hầu đến gần thì thấy người thị vệ đã xuống ngựa hất cái vật kia qua một bên đường, vật ấy cứng đờ như một khúc gỗ.


- Bẩm Thái tử, thây một kẻ chết, nó vừa nó vừa vọt lên ngựa định theo Thái tử nối tiếp cuộc đi chơi, nhưng Thái tử gò cương lại nhìn cái xác chết mà ruồi nhặng đương tha hồ đục khoét. Thái tử thấy lòng se lại ngồi nghĩ đến đời sống của con người thật là khổ: suốt đời chỉ thấy lo lắng bâng khuâng, bệnh hoạn, già nua, chết chóc. Nghĩ vậy, Thái tử không thiết đến cuộc đi chơi nữa. Những thị vệ trông thấy Thái tử trở lại buồn rầu, lo quá. Chúng bèn bàn nhau đưa Thái tử về hoa viên rồi mời Ưu Ðà Di ra khuyên dỗ Thái tử. Ưu Ðà Di vội vã ra vườn. Nàng thiết tha như một nàng tiên trong cảnh bồng lai. Tuy vậy, Thái tử vẫn điềm nhiên ngồi trầm tư bên một gốc cây. Ưu Ðà Di lại gần nỉ non.


- Thưa Thái tử, có phải hôm nay Thái tử buồn vì như lời thị vệ nói Ngài đã gặp những cảnh thương tâm chăng? Nếu vậy sao Ngài không nhân trời tối này đi dạo cho khuây khỏa lại cứ ngồi giữ kín mối sầu làm gì vậy? Hay là tại lỗi tôi không kịp theo hầu Thái tử chăng?


Thái tử vẫn điềm nhiên không đáp:


- Thưa Thái tử, Ngài không nhớ một hôm trong vườn hoa, Ngài đã bảo tôi là em gái Ngài, tôi có nét mặt giống Hoàng hậu không đủ làm cho Ngài vui sao?


Thái tử nhìn thấy đôi mắt long lanh sáng của người con gái quỳ trước mặt, ra lệnh cho nàng đứng dậy:


- Tôi không muốn nàng biết nỗi buồn của tôi, bởi nàng cũng như đóa hoa vô tư kia.


- Thưa Thái tử, những đóa hoa kia cũng biết buồn rồi đó, hôm nay tôi thấy hoa nào cũng ủ rũ cả, như thế không thật sao?


- Hoa nào lại có thể giữa màu sắc được bền lâu.


- Thưa Thái tử đời cũng vậy, ai lại không đau ốm, bệnh tật và chết.


- Nhưng cái chết của cây cỏ không máu mủ thịt xương, còn con người, con vật đến lúc bệnh hoạn có khi làm cho không ai có thể đứng gần bên được. Vì vậy tôi biết người sinh ra thì khổ nên tôi muốn tìm cách để trừ cái khổ ấy đi. Tôi đã hết cách tiêu khiển. Có cái gì tôi muốn mà không được. Thế mà cách để được yên vui tôi, làm sao tôi yên vui được lúc tôi nghĩ đến không làm sao tìm được bên cạnh đời no ấm xa hoa của tôi, biết bao nhiêu người khổ sở lăn lóc ốm đau, già nua bệnh hoạn.


Ưu Ðà Di không biết phân giải thế nào bèn đến quỳ tâu bên Thái tử nét mặt rầu rầu. Lúc ấy nhận thấy vì mình mà những người xung quanh phải khổ lây, Thái tử gượng cười đứng dậy cùng Ưu Ðà Di đi dạo quanh vườn. Những người hầu từ nảy đến giờ lo ngay ngáy, sợ nếu Thái tử còn buồn thì sẽ bị vua cha quở mắng, lúc bấy giờ cũng tươi lên. Chim chóc từ bốn phía vườn cũng bay lại hòa thành khúc nhạc rất vui. Những hoa huệ bổng vươn mình lên trắng xóa khắp vườn làm cho những hoa bướm khác tăng phần rực rỡ.


Tuy cố gượng vui nhưng nét mặt trầm tư của Thái tử, nhiều lúc vẫn lộ ra không giấu được. Vua lại tìm hết cách để làm cho Thái tử khuây. Ðàn hát xướng ca không ngớt. Tuy vậy hình như không có kết quả gì mấy. Một hôm vua cha bảo Ưu Ðà Di: Từ nay con hãy chiều chiều hầu Thái tử ra vườn hoa cửa Bắc mà ta vừa mới lập xong. Con sẽ mỗi ngày thay một thứ áo xinh đẹp để cùng với những thiên nhiên ở đấy làm vui cho Thái tử, vì ta chắc không ai có thể bằng con trong việc này. Những đình tạ hoa nước trong vườn kia không phải chỉ riêng cho Thái tử, đó là phần thưởng ta tặng cho con đó để chung vui cùng Thái tử.


Chiều ấy song trên mình ngựa Thái tử Thích Ca và Ưu Ðà Di đi trước một đoàn thị vệ áo hầu rực rỡ. Ưu Ðà Di chỉ những màu sắc tươi đẹp ở một bụi cây, trên mặt nước, hay ở một khoảng trời lần lượt hiện ra hai bên đường. Thái tử Thích Ca luôn luôn mỉm cười nhưng trong đôi mắt vẫn phảng phất một mối buồn không dứt được.


Vườn hoa cửa Bắc của vua Tịnh Phạn là một vườn hoa đẹp nhất xứ Ấn Ðộ. Trong vườn có cả các thứ cây quí hoa lạ ở các nơi đem đến. Những giống chim giống thú đỗ ở các miền xa, những đường lối sạch sẽ như mặt bàn trải thảm, những nệm cỏ xanh tươi, những hồ nước trong leo lẻo in bóng, những đình tạ nạm vàng mạn ngọc chói lên ánh sáng rực rỡ.


Vào vườn không thể lấy mắt mà đếm những màu sắc của hoa thú trong ấy. Ðến bên cạnh hồ da thịt mát rượi, hương lên nồng nàn. Người ta tưởng các thứ nước hoa Ấn Ðộ đều là lấy ở đó ra. Nói tóm lại, như chắt lọc ở khu vườn này tất cả cái tinh túy của vũ trụ thần tiên.


Tuy vậy, Thái tử cũng nhìn qua loa cảnh vật rồi tìm một góc cây ngồi nghĩ và bảo người hầu đem Ưu Ðà Di đi dạo các nơi. Mọi người đang dụ dự Thái tử quả quyết:


- Các ngươi hãy vâng lời cho ta vui. Ưu Ðà Di nàng hãy đi dạo chơi vì chỗ này mát mẻ nên tôi ngồi đây một lát, tý nữa tôi sẽ theo.


Thái tử ngồi một mình bên gốc cây suy nghĩ. Bao nhiêu những cảnh xưa lại hiện về trong óc. Những phút sung sướng, những lúc đau buồn, những cảnh hào nhoáng xa hoa, những kẻ tật bệnh đói rét, những thảm trạng của đời người lần lượt diễn ra trong trí của vị Hoàng tử. Ðang lúc ấy, một người đầu không tóc mình khoác một manh áo xấu xí, tay chống gậy đi đến. Nhưng dáng điệu thì uy nghi, đôi mắt thì lóng lánh như có luồng điện. Thái tử thấy trong điệu bộ lạ lùng của người này có vẻ huyền bí, khác hẳn với những người thường ngày đã gặp trong cung. Thái tử hỏi:


- Ông ở đâu lại? 


- Tôi ở khu rừng ở xứ này.


- Ông làm gì ở đây?


- Bẩm, tôi làm kẻ tu hành theo tìm học đạo.


- Tu hành là người thế nào?


- Là một kẻ chuyên suy nghĩ đến những lý lẽ của mọi sự, mọi vật, để tìm tòi những phương pháp phá hết các sự phiền muộn đang buộc con người với đời không thiệt, được đó mất đó, để về sau hết kiếp này khỏi chịu kiếp khác.


Nói xong ông thầy dùng phép thần thông bay bỗng lên không lẫn với màu sắc huyền ảo của hoàng hôn.


Thái tử mừng reo lên:


- Hay lắm! Hay lắm! Ta quyết tu thế nào cho được cho như vậy mới nghe.


Ưu Ðà Di và kẻ hầu đã quay về. Tuy dưới ánh nắng hoàng hôn mà ai nấy cũng đều lấy làm lạ rằng Thái tử Thích Ca trở nên vui vẻ.


Ðêm ấy Thái tử tâu với vua cha cho theo tu hành như ông thầy tu kia. Vua giật mình khuyên can.


- Ai gieo vào cho con cái tư tưởng điên rồ ấy? Con không phải là nhà vua trên muôn ngàn dân ở xứ này sao? Bây giờ con lại làm một ông thầy tu cực khổ, rách rưới, thì ta nhục nhã biết bao nhiêu; dòng dõi vua chúa không phải đến đây là hết?


- Thưa cha, công đức của cha mẹ như trời như bể. Con sống ở giữa châu báu ngọc ngà, giữa những sự nưng niu, chiều chuộng, không còn thiếu gì nữa. Tuy vậy bấy lâu nay con vẫn bị những phiền muộn mà không được vui gì, không vàng ngọc gì làm khuây khỏa được. Nay tình cờ con gặp được một vị tu hành nghe có mấy lời của người mà lòng con như cất được gánh nặng từ bấy lâu nay đèn nén. Vậy xin vua cha cho con được xuất gia, đó là một cách yên vui hoàn toàn vậy.


- Ta đã hết sức chiều Thái tử, nhưng đến việc này ta không thể nghe theo. Con là con nhà vua, con sẽ là nhà vua, ta chỉ biết có thế, con đừng xin nài gì nữa.


Từ đấy vua truyền lệnh cho những người hầu canh giữ trong cung rất nghiêm ngặt. Thái tử đi đâu là người theo, tuy vậy nghĩ đến chuyện xuất gia, Thái tử vẫn luôn luôn vui vẻ.


Ðêm nào cũng vậy, ở các cửa thành vẫn có lệnh canh nghiêm nhặt, lại có lính đi tuần tiểu. Thái tử Thích Ca vẫn ngày đêm lo nghĩ về kế xuất gia.


Một đêm Thái tử đợi cho trong cung cấm không còn một tiếng động, nhẹ nhàng nhỏm dậy khoác áo, dắt vào mình một thanh kiếm ngắn. Qua mấy cánh cửa sổ để mở, trời đêm chỉ còn nhấp nhánh sao mờ, Thái tử vươn mình từ trên cửa sổ tầng thứ ba nhảy xuống vườn hoa.


Thỉnh thoảng lính hầu lại vác cung đi qua lại. Thái tử Thích Ca vừa rơi xuống đất, thì nhún mình nhảy vào một nhóm lài để tránh những quân lính canh. Vừa lúc ấy một bóng đen ở bên cũng nhảy xổ theo. Thái tử Thích Ca nhanh nhẹn khóa hai tay người ấy.


- Bẩm Thái tử, tôi đây ạ.


Nghe giọng nói Thái tử Thích Ca nhận được tiếng của Xa Nặc, người hầu trung thành của mình.


- Ngươi làm ta giật mình tưởng quân gác, thế đã xong chưa?


- Bẩm lũ kia uống rượu tẩm thuốc mê ngủ lăn ra cả. Tôi định vào đây để mời Thái tử đi ngay. Tôi nhắm cái cửa sổ Ngài vừa nhảy qua, nhưng quân canh lúc ấy chưa đi khuất.


- Thôi chúng ta nhanh chân chứ, ngựa đâu?


- Bẩm dưới cây dừa nước đằng kia.


Hai người len qua các nhóm cây rồi lên ngựa. Trong đêm chân con ngựa của Hoàng tử sáng lên như bốn ngọn đèn xanh. Tuy vậy lính canh không ai biết cả. Anh nào cũng đang đánh một giấc ngủ ngon. Không mấy chốc hai con ngựa đã nện móng trên con đường vắng vẻ ngoài thành Ca Tỳ La Vệ. Phố xá lâu đài im lặng đang êm giấc trong đêm khuya, dưới trăng sao mờ mờ, dần dần bị bỏ lại biến xa trong đêm mù, rồi tan mất, Thái tử vừa đến một khu rừng rậm:


- Xa Nặc trung thành ơi, thôi anh hãy về, mang con ngựa về tặng Ưu Ðà Di vì ta không muốn một ai theo ta vào trong rừng rú.


Xa Nặc toan kêu nài, Thái tử bèn ra hiệu nên vâng lời về ngay.


Xa Nặc buồn rầu dẫn con ngựa về. Lúc quay lại bóng Thái tử vừa khuất trong rừng rậm.


Trời vừa tảng sáng, Ưu Ðà Di nghe có tiếng gọi nho nhỏ nhưng cấp bách ngoài cửa. Ưu Ðà Di vừa mở cửa. Xa Nặc đã hớt hải thưa:


- Bẩm cô nương, Hoàng tử tặng cô con ngựa quý, tôi đã buộc nó ở bên ngoài, thôi xin chào cô nương tôi đi chịu tội đây.


Ưu Ðà Di sửng sốt níu áo Xa Nặc hỏi chuyện đầu đuôi. Xa Nặc đem câu chuyện thuật lại, Ưu Ðà Di khóc sướt mướt, Xa Nặc an ủi:


- Thưa cô đây là ý muốn của Thái tử, lẽ nào cô nương không muốn Thái tử vui hay sao?


Tuy vậy nàng vẫn không thể đè nén lòng mình, bỏ mặc Xa Nặc ngồi đấy, ra ngoài lấy ngựa của Xa Nặc phóng như bay ra ngoài hoàng thành trước những lũ quân ngơ ngác. Xa Nặc ngồi lại một mình lắc đầu buồn bã. Ngoài sân chim rũ lông đầy cả lối đi.


Ba ngày lưu lạc trong rừng rậm, người nhọc bụng đói mà vẫn không tìm được Thái tử. Ưu Ðà Di đã ngã gục bên ngựa, một tối thứ ba, đến lúc mở mắt dậy nàng thấy trong mình nhẹ nhõm khác thường. Một người mình trần trùi trụi không râu không tóc, nhưng với những đường nhăn trên mặt trên mình có vẻ đã nhiều tuổi lắm. Ưu Ðà Di bủn rủn cả người, nàng liếc thấy con ngựa của mình đang đứng bên một gốc cây định chạy lại lấy ngựa để trốn. Người kia gọi giật lại:


- Nàng Ưu Ðà Di.


Nghe gọi đúng tên mình, nàng quay lại kinh ngạc nhưng cũng cố can đảm xem thử người nào lại biết mình.


- Cô không nhớ tôi sao?


- Thưa cụ tôi không được rõ.


- Nàng không nhớ nàng đã cho tôi cơm ở nhà nàng hay sao? Nàng chóng quên thế?


Tưởng rằng ma quỷ hiện lên ám ảnh mình vì nàng không nhớ người ấy là ai. Tuy vậy nàng vẫn giữ lễ phép trả lời.


- Phải, tôi biết cô đang bận tìm Thái tử phải không?


Nghe người đoán đúng ý nghĩ mình, nàng vội kên lên:


- Cụ ơi, Hoàng tử ở đâu cụ bảo giùm tôi. Thái tử đi lốIinào hở cụ?


- Thái tử đã đi xa rồi cô ạ. Cô hãy ngồi yên đây rồi tôi sẽ giúp cô.


Ưu Ðà Di vâng lời nghe theo.


- Không giấu gì cô, tôi là một kẻ tu hành lâu năm ở chốn rừng này học được ít phép mầu nhiệm, đã đoán biết những việc đã qua và sắp xảy đến. Ðêm qua nhìn một ngôi sao tôi biết rằng Thái tử sẽ xuất gia, tôi rất vui mừng, vì thế nào Hoàng tử sau này cũng sẽ là một vị đại cứu thế. 


- Thưa cụ, thế tôi có gặp được Hoàng tử không?


- Nàng hãy yên tâm, Hoàng tử đã vào rừng sâu khó lòng mà gặp được, nhưng nàng hãy vui đi, vì thế nào Ngài cũng thành Phật mà tế độ chúng sanh.


- Phật là thế nào? Bẩm cụ có uy quyền, có sung sướng hơn Hoàng tử không?


- Chính chúng tôi cũng cố tu để một ngày kia được thấy ánh sáng của Phật đây. Phật là đức đại từ đại bi thông thuộc hết những lý lẽ cao siêu, những nguyên nhân huyền bí để chỉ vẽ chúng ta tránh xa con đường tội lỗi khổ sở, các ông hoàng làm sao sánh kịp.


- Thế liệu Hoàng tử có thành Phật được không? Ngài có về với chúng ta không?


- Thế nào Ngài cũng thành Phật, một đức Phật xưa nay chưa từng có ở thế giới này. Thôi tôi chỉ nói chừng ấy cho cô vui, cô nên nghe tôi về ngay nhà vì chính là lúc cô nên về theo sự suy đoán của tôi, cô hãy cưỡi ngựa chạy về nhà đi, tôi sẽ đưa cô ra khỏi rừng này, đây mấy viên thuốc cô hãy cầm lấy để cứu người. Bây giờ cô hãy ngậm một viên đi. Vừa ngậm xong tức thì nàng thấy trong người vui tươi tự kiếm được lời để tự an ủi mình:


- Hoàng tử rồi sẽ thành Phật, người sẽ về với chúng ta.


Ðến cổng nhà, nghe có tiếng khóc mới chạy vào thì thấy mẹ và em đang ngồi bên giường của cha. Ông cụ đang thoi thóp trên giường bệnh. Nàng cầm một viên thuốc bỏ vào miệng cha, tức thì ông cụ mở mắt chống tay ngồi dậy tỉnh táo như thường, nàng bèn lấy hai viên thuốc khác đưa cho mẹ và em tức thì ai nấy đều trở nên vui vẻ.


Bà mẹ ôm lấy em vào lòng:


- Tôi lại gặp được con tôi vui tươi hơn trước, thật là phước quá. Nhưng làm sao con lại về được đây?


Ưu Ðà Di đem mọi chuyện kể lại cho cha mẹ nghe.


Hai cụ đều tỏ vẻ sung sướng. Vừa lúc ấy, những cây cỏ ngoài vườn cũng đều reo lên, cây khế nói:


- Nàng đã về, nàng sẽ vui vẻ ca hát với chúng ta, ở bên gốc của ta.


Cây huệ:


- Ðêm nay tôi sẽ nở hoa trắng mướt cho nàng vuốt ve.


Cây hồng:


- Tôi sẽ bíu lấy tóc nàng, nàng ơi!


Con ngỗng:


- Nàng sẽ chìa tay xinh đẹp của nàng cho tôi mổ lúa.


Mặt hồ:


- Chiều chiều, nàng lại ra đây rửa chân, tôi lại được ôm bóng nàng.


Chim bồ câu và chim chích:


- Nàng lại cùng chúng ta hát đây.


Con chó:


- Nàng ve vuốt tôi đi, ve vuốt tôi đi.


Con chim từ ngày nàng rời cung điện vẫn bay theo nàng:


- Tôi sẽ luôn luôn đậu trên cây đàn của nàng.


Ưu Ðà Di tưởng những ngày mình sống trong cung điện bên cạnh vị Hoàng tử chỉ là một giấc mộng xinh đẹp để điểm trang cho đời sống của mình, từ đây nàng mới thật sống vui vẻ bên cạnh những cảnh vật lúc nào cũng âu yếm mình.


Hết
512