Trang
Nov 28, 2004
Nỗi Nhớ Chơi Vơ...
Em yêu,
Hôm nay trời thật lạnh, lớp sương mù bị nhiệt độ quá thấp đóng thành băng phủ kín phố phường cây cỏ. Cảnh vật biến thành màu trắng, màu của thê lương, gợi nên nỗi nhớ ngút ngàn. Những chiếc cành khẳng khiu trơ lá, tự dưng biến thành những nhánh lưu ly trong vắt, đung đưa trong gió lạnh như cợt nhả nỗi nhớ trong anh. Em ơi, anh phải thú nhận rằng anh nhớ em, nhớ đến quay quắt, nhớ tiếng cười vang vọng trong nắng sớm hôm nào, nhớ ánh mắt ấm áp xuân thì, nhớ đôi tay nuột nà, nhớ bàn tay vương vương màu duyên nghiệp, nhớ mái tóc buông dài như suối lụa mùa xuân.
Em, em đang làm gì? Có nghĩ đến anh chăng? Có cùng anh chia sẻ giấc mơ trong mùa xuân tới?
Chúng ta quen nhau như tiếng sét giữa trời, yêu nhau như đoá hồng khai nhụy trong nắng mai viên mãn - trọn vẹn và tình yêu lên ngôi như cây trái quê mình: Tự nhiên thơm tho và ngọt ngào chi lạ.
Anh đang ngồi trong văn phòng, những con số nhảy múa lung tung, song trong những con số ấy có một thứ tự nhất định. Trật tự của tháng Tư hay tháng Sáu hay mùa Thu năm tới!? Anh sẽ đến bên em, mang lễ vật tình yêu bằng bánh cốm xanh, hồng đỏ, lá sen biếc, trầu tiêm, cau tươi để đón em về. Anh sẽ vì em dừng lại bước lãng du và vì em làm con thuyền vào bến.
Anh nguyện mãi làm ngọn hải đăng chỉ lối cho em trong giông tố. Sẽ mở rộng vòng tay để ôm em vào lòng, cho em một mái ấm gia đình và nơi nương tựa tâm hồn mãi mãi.
Anh muốn hỏi khách sạn Sheraton... để đặt tiệc cưới, em có vui không?
Yêu em mãi mãi, trái tim nhỏ của tôi.
(Nhật ký viết cho em....) 2414
Nov 27, 2004
Dừng xe không cần vật cản mới khó
Đang trong cuộc sát hạch lấy bằng lái, nữ thí sinh đâm thẳng chiếc xe vào một gốc cây. Phủi những mảnh kính vỡ trên người xuống, thanh tra giao thông thản nhiên bảo cô gái:
- Bây giờ đến phần thi tiếp theo, cô hãy dừng xe mà không cần đến vật cản phía trước!
Vợ lảo đảo bước vào nhà, rên rỉ:
- Anh ơi, thật khủng khiếp. Một chiếc xe tải đồ sộ đã đâm thẳng vào xe của em, làm nó bẹp rúm ró rồi!
- Ôi! Không sao, em còn lành lặn là tốt. Thế em có kịp dạy cho hắn một bài học về tốc độ không?
- Không kịp... Hắn để xe ở đấy và chuồn đi từ trước khi xe đâm nhau cơ.
Một chàng trai khoe với bạn:
- Mình mới mua một chiếc mô tô ba trăm phân khối và dự tính đi một chuyến khắp thế giới xem sao. Cậu có đi với tớ không?
- Tớ không đi đâu.
- Sao lại không? Thú vị lắm chứ.
- Vì tớ còn ngại, không biết xem thế giới này hay thế giới bên kia.1960
Em đâu có nói
Cô giáo chỉ một cậu học trò ngồi cuối lớp:
- Em hãy cho tôi biết làm thế nào để chứng minh được quả đất hình tròn?
- Thưa cô... - Cậu bé tái mặt ấp úng - Con có bao giờ nói nó hình tròn đâu ạ!
Tèo: - Thưa thầy, nửa ngang hay nửa dọc ạ?
- Nghĩa là sao?
- Thưa thầy: Nửa ngang của 8 là số 0, còn nửa dọc là số 3 ạ.
Thầy : Jacques, nếu thầy lấy toàn bộ bốn lần một phần tư thì còn mấy?
Jacques im lặng.
Thầy: Thầy giúp em nhé. Thầy cắt quả táo làm bốn phần, thầy lấy cả bốn phần đi thì còn mấy?
Jacques vui vẻ:
- Dạ! Còn cái hột ạ!
Dì Ghẻ
Ba mẹ Dạ Thảo chia tay nhau sau mấy lần lục đục, gấu ó nhau. Ngày đó nó mới mười tuổi. Mẹ nó lấy Việt kiều, còn nó ở với ba. Mà trước giờ nó cũng chỉ gần ba. Ba luôn quan tâm tới tất cả những niềm vui, nỗi buồn của nó. Trong nhà chỉ còn lại hai cha con, nên chi ba Dạ Thảo chiều nó lắm. Ba luôn làm tất cả những gì có thể cho nó, để nó không thua kém bạn bè. Năm học 12 ba mua cho nó chiếc Chaly để đi học. Nó cũng không đòi hỏi gì hơn. Nó thương ba nhiều, rất nhiều. Có một điều, ba Dạ Thảo không thể là một người mẹ. Nhưng mà nó không quan tâm đến điều đó, nó không cần. Nó chỉ cần ba, và cần một mình ba thôi. Có một lần, khi nó đi học thêm về, có một tên con trai cứ lẽo đẽo theo sau. Dạ Thảo về kể cho ba nghe. Ông cười và nói:
- Con gái lớn có người để ý là chuyện bình thường. Nhưng con phải lo học; lúc này không nên nghĩ đến chuyện đó, chừng đậu đại học rồi hẳng hay.
Sau Tết năm 12, việc học cứ xoắn lấy nó. Sáng đi học ở trường, chiều đi học phụ đạo, chuẩn bị cho ba kỳ thi sắp tới: học kỳ II, tốt nghiệp và đại học. Nó phải làm cả công việc ở nhà, đi chợ và nấu ăn... nữa. Sáng, Dạ Thảo phải dậy thiệt sớm để dọn dẹp nhà cửa, chuẩn bị đồ ăn sáng cho hai cha con, rồi sau đó ba đi làm, nó đi học. Ba nhiều lần muốn giúp nó nhưng vì công việc ở công ty quá bề bộn, về nhà nhiều lúc chỉ phụ nó bê được nồi cơm đặt lên bàn.
Và rồi một buổi chiều đi học thêm về, vừa dắt xe vô nhà, Dạ Thảo nghe tiếng ba nó đang nói chuyện với một giọng đàn bà trong phòng khách. Nó bước tới cửa đứng yên nghe. Lúc này là giọng của ba nó:
- Anh rất thương nó, nhưng chẳng thể làm gì nhiều để giúp nó. Công việc thì nhiều, mà nó sắp thi cử tới nơi. Vả lại... nó cũng cần tình cảm của người mẹ nữa, Nghiêm ạ!
Rồi giọng người đàn bà trầm trầm:
- Còn phải hỏi ý kiến Dạ Thảo nữa chứ anh!
Thì ra họ đang nói về nó. Họ đang thương hại nó. Nó sợ hãi, lúng túng đứng như trời trồng. Rồi nó quay lại chạy về phòng, nhưng hấp tấp thế nào, cánh cửa phòng khách đánh sập một tiếng “rầm”. Cả hai người nhìn ra. Ba nó bước tới mở cửa:
- Thảo về rồi hả con? Vô đây, vô đây ba có chuyện muốn nói.
Rồi ba cầm tay dắt nó vô như dắt một đứa con nít lên năm tuổi. Dạ Thảo nhìn nhanh qua người đàn bà đang ngồi đối diện với ba nó. Nó lí nhí:
- Cháu chào cô!
Rồi cúi xuống để tránh cái mỉm cười và ánh mắt dò xét của bà ta. Nó ghét. Ba nó lại lên tiếng để phá tan cái không khí yên lặng đến lạnh lùng ấy:
- Ðây là cô Nghiêm. Con có thể gọi bằng dì. Dì Nghiêm sẽ đến ở với ba con mình. Nếu con cần gì, dì sẽ giúp con. Dì sẽ thay thế mẹ của con. Nó chuyện với dì đi, Dạ Thảo!
Dạ Thảo đứng sửng nhìn con người mà từ phút này nó sẽ gọi, sẽ phải gọi bằng dì. Nó cứ đứng nhìn như thế, rồi như sực tỉnh, nó gằn giọng:
- Chào dì!
Rồi nó quay đi, lầm lũi về phòng mình, đóng cửa lại. Nó khóc vùi. Có lẽ nó tủi thân. “Dì, dì ư? Nó phải gọi một người đàn bà có cái tên dữ dằn ấy là dì sao? Nó chẳng bao giờ mặc cảm vì thiếu mẹ. Ở trường nó là một nữ sinh ngoan, học khá. Còn với bạn bè nó luôn giúp đỡ hết mình. Ai cũng quí mến nó. Và nó còn có ba. Chừng đó đã đủ. Nó chưa bao giờ muốn người thứ ba xen vào cuộc sống êm đềm của ba và nó.
Ðêm đó, nó thức nghe nhạc và nghĩ về mọi thứ. Có lẽ ba không còn thương nó nữa? Nó buồn, và lại khóc. Nó khóc thiệt lâu, thiệt nhiều, rồi nó ngủ thiếp đi lúc nào chẳng biết.
Sáng hôm sau nó dậy trể hơn mọi ngày. Ba nó đã dậy từ lúc nào. Ông đang ngồi nhâm nhi ly cà phê buổi sáng. Trên bàn đã đặt sẳn hai tôi phở còn bốc khói. Ông đang nghĩ gì nên không để ý thấy nó đi xuống. Rửa mặt xong, Dạ Thảo thay quần áo rồi dắt xe ra cửa:
- Thưa ba con đi học!
Ba quay lại, vẫn giọng điềm tĩnh:
- Ba mua phở rồi, ăn rồi hẳn đi, Thảo!
- Còn phần của người ấy đâu ba? – Nó hỏi, giọng lạnh lùng. Nhưng ba nó vẫn từ từ nói, như không hề biết nó đang nghĩ gì:
- Cô Nghiêm về từ chiều hôm qua rồi. Thôi, vô ăn đi con!
Lúc này nó mới thấy đói. Mà cũng phải thôi, chiều qua tới giờ nó đã ăn gì đâu? Tối hôm qua nó quên mất việc nấu cơm. Không biết ba ăn gì? Chắc cái dì Nghiêm ấy đã làm buổi tối cho ba. Nghĩ vậy nó cũng không hỏi thêm. Nó ngồi xuống ăn một mạch hết tô phở. Rồi nó tới trường.
Tiết học cuối cùng cũng đến lúc kết thúc. Buổi học hôm nay sao dài quá. Nó dắt xe ra cổng, lặng lẽ đi, không cười đùa như mọi ngày nữa. Nhỏ Ngọc Chinh, bạn thân nhất của nó hỏi:
- Hôm nay mày sao vậy Thảo? Bịnh hả?
- Chẳng sao hết. Tao muốn đi một mình.
Rồi nó lên xe nổ máy chạy đi. Về tới nhà, cửa vẫn khóa. Ba đi làm chưa về. Nó nghĩ vậy và mở cửa vô. Thay quần áo xong, nó chuẩn bị nấu cơm. Nó thấy là lạ. Nhà cửa sáng nay nó chưa kịp dọn, sao bây giờ lại gọn gàng thế. Lại có cả một mâm cơm ngon lành để sẳn trên bàn. Sao hôm nay ba về sớm vậy kìa? Nó thắc mắc. Ba đi đâu? Chắc bận việc đi rồi. Nó mở lồng bàn ra và ánh mắt dừng lại ở một mảnh giấy gấp tư. Nó mở ra và đọc. Những dòng chữ nhập nhòe trước mắt nó, như muốn trêu chọc nó:
“Dạ Thảo!
Cô rất hiểu tình cảm lúc này của cháu, một cô bé đầy nghị lực. Cô rất tôn trọng tính ích kỷ trong tình cảm của cháu đấy. Cô muốn giúp cháu một cái gì dù vô cùng nhỏ. Cô sẽ không làm phiền cháu nữa. Cô ở chỉ một mình, có kèm địa chỉ đây. Nếu muốn, cháu hãy đến tìm cô nhé! Chào cháu.
Cô Nghiêm”.
Dạ Thảo đứng yên một lúc lâu, như đang nghĩ một điều gì. Mà nó có nghĩ được gì đâu. Ðầu óc nó quay cuồng, rối tung lên những dự định, ý kiến chồng chất. Nó bỏ lên nhà.
Mùa thi đến, nó vùi đầu vào sách vở chuẩn bị thi học kỳ II, rồi tốt nghiệp. Những buổi đi học về, cơm canh đã làm sẳn, nhà cửa đã gọn gàng nhưng không còn mảnh giấy nào nữa. Nó chẳng nói gì với ba. Ba nó biết, nhưng cũng từ sau đó ba nó không nói gì với nó về chuyện ấy nữa. Nhiều lần trong bữa ăn, nó lén nhìn ba nó, để cố đoán xem ông đang nghĩ gì, nhưng vẻ mặt ông vẫn bình thản như không có chuyện gì để nghĩ, để lo. Lúc này nó thương ba quá. Hay là... nhưng nó lại lắc đầu, và ý nghĩ trong nó cũng lấp lững chỉ có thế.
Vậy mà đã qua hai tháng, lúc này là cuối tháng sáu, nó đã thi xong tốt nghiệp, đậu loại khá. Còn một kỳ thi nữa, một bước ngoặc của cuộc đời nó. Nếu được vào đại học, nó sẽ về Sài Gòn, ba sẽ ở một mình. Chiều nay mưa, và nó đã khóc. Lúc này nó cảm thấy cần tình thương yêu của một người mẹ, mà trước đây nó tưởng là không cần thiết. Ba sẽ già, sẽ yếu, nó còn cuộc sống riêng tư, lúc đó ai sẽ săn sóc cho ba? Nó chợt nghĩ đến người đàn bà tên Nghiêm ấy. Ba đi làm rồi. Nó quyết định mặc áo mưa và dắt xe ra đường.
Dạ Thảo tìm theo địa chỉ ấy, đến một căn nhà nhỏ khá khang trang nhưng yên tĩnh. Nó rụt rè bấm chuông và hồi hộp chờ đợi. Tiếng dép lẹp xẹp rõ dần, rõ dần và ngưng lại. Cánh cửa mở ra. Cô Nghiêm đứng sửng nhìn nó. Nó nhìn cô, mỉm cười...684
Nov 25, 2004
Như Lục Bình Trôi
Tôi nhìn hai đưá bé mặt mũi lấm lem , mái tóc cháy nắng đang ngồi dưới gốc cây trước cổng nhà tôi , thằng anh đang vụng về vá áo , còn con bé lơ đãng nhìn lên những ngọn cây . Không hiểu chúng nó nghỉ gì mà tôi thấy trong đôi mắt của chúng dường như có điều gì đó lạc loài , ngơ ngác !
Con bé nhìn chán , quay qua thằng anh rồi buột miệng :
- Anh hai .. em đói ..
Giọng non nớt dại khờ ... Thằng anh lúng túng nhìn quanh :
- Uhmm ... Chờ lát nửa anh dắt em đi qua chợ xin cái gì ăn đở nha ... Hết bánh mì rồi em à ...
Tôi chợt nghe bàng hoàng xót xa . Trời , con ai mới tí tuổi đầu đã sống cảnh lang thang ??
Con bé phụng phịu , đôi măt bắt đầu ươn ướt ... Tôi bước đến gần chúng để nhìn rỏ hơn hai gương mặt trẻ thơ mà nếu không có những vết lấm lem hẳn là dể thương lắm .
- Nầy .. cháu !
Hai đứa bé ngẩng đầu lên nhìn tôi , ánh măt hoang mang lo sợ .Thằng anh lắp bắp :
- Dạ ... Cô cho cháu ngồi đở ở đây để vá cái áo cho em cháu , áo em rách hết rồi ...
Nhìn vẻ sợ sệt của thằng bé tôi bổng thấy nao lòng , tôi trấn an chúng :
- Cháu cứ ngồi .. không sao ! Cô chỉ muốn hỏi là em nó đói cháu và em có muốn ăn chút gì hay không ?? Cha mẹ hai cháu đâu ma `để hai cháu như thế nầy ?
Con bé lo sợ , chạy lại ôm anh . Thằng anh nhìn tôi nước mắt ứa ra :
- Chúng cháu ở với ngoại .. Ngoại chết rồi ! Còn mẹ cháu thì nghe nói đã đi nước ngoài rồi ... Quê cháu ở Mỹ Tho ... Cha mẹ cháu xa nhau từ hồi mới sinh em cháu, Cha bỏ đi bặt tăm ... Cha và mẹkhông hợp nhau , mẹ thường nói thế với cháu . Từ ngày cha bỏ đi , mẹ phải làm lụng vât vả để nuôi cháu va `em ... Có nhiều đêm cháu nghe mẹ khóc ... Sau đó mẹ bán nhà bồng tụi cháu về Rạch Miễu nhờ ngoại nuôi , rồi mẹ đi đâu không rỏ ... Ngoại già rồi , ngày ngày phải đi mò ốc , hái rau má , rau cải trời đem ra chợ bám lấy tiền nuôi hai cháu . Cháu không có tiền để tiếp tục đến trường mặc dù cháu rất muốn đi học . Cháu chỉ biết nhìn lén bạn bè cùng trang lứa mỗi khi đi ngang trường . Cháu biết , ngoại làm gì có tiền cho cháu đi học chứ cô ! Cô biết không ? Ngày trước khi còn mẹ , mẹ hay bảo sau nầy lớn lên mẹ muốn cháu là người hữu dụng cho xã hội , mẹ bảo cháu phải ráng học ... nhưng bây giờ có ráng cũng không được đi học mà !
Cháu hàng ngày đi hái bông súng , vớt lục bình dưới đầm để phụ ngoại . Có nhiều khi bồng em lội ruộng cháu bỗng thấy buồn , buồn lắm khi nghỉ đến cháu và em không được như người khác có mẹ , có cha , có mái nhà ấm cúng để nương náu!
Tội cho em cháu nó có hiểu gì đâu , từ nhỏ nó đã quen cảnh côi cút rồi ...
Cháu nhớ cha , nhớ mẹ nhiều lắm cô ơi ! Có lần cháu thấy một người giống mẹ đi trên phố , cháu bồng em chạy theo gọi : Mẹ , mẹ ơi ! Người ấy ngoái lại nhìn cháu rồi trề môi la : " Gớm chết ! Cái lũ ăn mày ở đâu ra ? ... " Cháu đứng lại và đã khóc , mẹ không gọi cháu là ăn mày đâu cô à !
Cháu thật không hiểu tại sao cha và mẹ lại xa nhau để chúng cháu bơ vơ thế nầy ?? Cô biết không .. có nhiều đêm em khóc đoì mẹ , cháu phải thay mẹ hát ầu ơ dổ em ngủ , cháu hát thế nầy :
".... Ầu ơ ... Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắt lẻo , gập ghềnh khó đi ...
Khó đi mẹ dắt con đi ...
Con đi trường học .. mẹ đi trường đời
..... ầu ơ ..... "
Mỗi lần như thế cháu lại thấy ngoại lén chùi nước mắt , quay đi ! Cháu biết ngoại buồn cho thân phận mồ côi của hai cháu đó mà . Rồi những ngày lễ tết , cháu dắt em đi mò cua đuới ruộng trong khi lũ bạn hàng xóm được bận áo mới , được ba má cho những bao lì xì đỏ chói . Có lần , em cháu thích qúa chạy lại xin thì bị người ta mắng : Cái đồ con hoang ! Cháu giận qúa đã đánh em vì tội làm cho người ta mắng mình như thế. Sau đó thì cháu cũng khóc theo em . Buồn lắm cô ạ ! Tụi cháu đâu muốn phải ngày ngày lang thang đầu đường xó chợ thế đâu , tụi cháu thèm được kêu một tiếng cha thân thương . Thế nhưng mà Cha và mẹ không có bên cạnh chúng cháu, chỉ có ngọai thôi , vui hay buồn gì cũng chỉ biết thủ thỉ với ngoại !
Ngoại già lắm rồi mà vẩn phải cưu mang hai cháu . Em cháu hay hỏi : " ... tại sao mình chỉ có bà ? ... " Cháu không biết nói sao nửa , cháu cũng không hiểu tại sao cha và mẹ không hề nhớ đến hai cháu . Có nhiều khi ngồi dưới bến sông , gió hiu hiu .. Cháu thấy mình giống như những bông Lục Bình nghèo nàn ... Ngày ngày trôi lên , trôi xuống theo con nước . Có khi tấp đựợc vào bờ thì cũng bị người ta lấy sào đẩy dạt trở ra !!!!! Rồi ngoại đổ bệnh vì dầm mưa dãi nắng . Nhà đâu có gì để bán ra tiền mua thuốc cho ngoại đâu cô , Cháu chẳng biết làm gì hơn ngoài cái việc mót củi , hái rau dại đổi lấy một vài lon gạo nấu cháo cho ngoại . Tuổi già mòn mõi ... ngoại qua đời . Cháu và em phải đi lang thang từ dạo đó , nay gầm cầu , mai góc chợ xin ăn lần lữa cho đến khi lọt về thành phố nầy ..
Có dạo , có người thương tình đem hai cháu về nhà cho giúp việc . Nhưng sau đó bà ta vượt biên ,công an tịch thu nhà và hai cháu lại tiếp tục đi lang thang ! Cháu chỉ mong có đủ miếng cơm cho em cháu thôi cô à , nó còn nhỏ qúa mà ... Có lần nó bị sốt , nằm run rẩy dưới gầm cầu . Cháu chỉ biết ngồi chấp tay cầu nguyện cho em cháu hết bệnh . Gầm cầu gío lạnh thấu xương ... vậy mà em cháu chỉ có cái bao bố tời để đắp thôi ! Vậy đó ... mà nó cũng qua cơn bệnh. Cuộc đời hai cháu buồn lắm cô ơi .. Ba ngày nay rồi chúng cháu sống nhờ mấy mẫu bánh mì nhặt được trong lò bánh đó cô .. nhưng hôm nay cũng hết rồi !!! "
Ánh mắt hiu hắt buồn , giọng nói nghẹn ngào .. Nước mắt tôi ứa ra tự khi nào chẳng rỏ .. Tôi nhìn hai đứa bé gầy yếu , xanh xao mà nhớ đến mấy đưá con của mình đang sống trong nệm êm , chăn ấm , cơm canh thưà mứa . Trong khi hai dứa bé nầy chúng chỉ cần một chút thôi cũng đủ sống tạm qua ngày !
Cuộc sống có nhiều bề trái đau lòng đến độ không ngờ !
Có những con người sống trong hạnh phúc nên họ dường như xa lạ với những cảnh cơ khổ , bần hàn của đồng loại (!?)
Nhìn con bé run rẩy trong manh áo rách , những mũi vá vụng về của thằng anh đã không làm lành nổi , tôi lại nhớ đến những chiếc áo mà con tôi quăng bỏ không tiếc tay mỗi khi chúng không vưà ý ..Tôi xót xa cho hai đứa trẻ nầy , mới tí tuổi thôi mà đã lam lũ và dạn dầy mưa nắng . Mẹ chúng ở đâu , sao không nh`in thấy cảnh những đứa con của mình rứt ruột đẻ ra đang sống kiếp bèo bọt , rong rêu để mà đau lòng ?
Trái tim người mẹ của chị ở đâu ? Sao không nghe thấy được tiếng nức nở của hai con chim non trước giông tố cuộc đời ?
Còn người cha ? Bỏ đi bặt tăm không một lần nhớ đến chúng hay sao ? Đôi trẻ như những búp măng mới nhú lên đã lụi tàn trong gió rét . Tháng ngày bần hàn , cơ cực đã hiện rỏ trong ánh mắt và trên manh áo tả tơi của chúng .
Tôi nhìn chúng , muốn ôm chúng vào lòng để được hát ầu ơ , được dổ chúng vào giấc ngủ bình an không có tính toán . Được mang đến (cho dù chỉ là phút giây) một tấm lòng người mẹ Thế gian vốn hờ hững và vô tình . Mọi người quay cuồng theo đà của cuộc sống mà lãng quên tiếng kêu tuyệt vọng của những con người khốn cùng , đang run rẩy trong gió rét , đang cần một chút lửa sưởi ấm muà đông , và một chút cơm thưà đủ để no lòng ! Giống như thằng bé ví von : Chúng cũng như những bông hoa Lục Bình tím ngát , buồn thiu trên sông . Cứ trôi và trôi mãi mà không biết khi nào sẻ được mọc rể , đâm chồi trên mặt đất.
Chú bé hãy còn thơ dại , hãy còn ngơ ngác trước thực tế phũ phàng của cuộc đời . Tôi xót xa khi nghĩ đến những chặng đường mà chúng đà trãi qua và sẽ tiếp tục đi tới !
Những bậc làm cha mẹ , trước khi có quyết định chia tay nhau xin hãy cặn cùng suy nghĩ ! Đừng để những đứa trẻ vô tội phải gánh lấy cái hậu quả của sự đổ vỡ mà chính những người lớn chúng ta gây ra .
Tôi ôm con bé , nhè nhẹ ru nó , Con bé nhắm mắt lại ngủ ngon trong vòng tay tôi . Ngủ đi con ! Giấc ngủ bao giờ cũng thật ngon và nhiều mộng đẹp với tuổi thơ . Hãy ngủ đi con ! Cho dù mai đây cuộc sống có xô dạt đến bến bờ nào đi nữa thì cô cũng mong rằng giấc ngủ sẻ là nơi bình yên nhất để các con quên đi những nhọc nhằn , cay đắng của một kiếp người làm lục bình suốt đời lang thang !!!
Đông Lăng
Tác giả: Nguyễn Duy Cần
Đông Lăng
Khuất Lăng bị phế, đến Tư Mã Quý Chủ coi bói.
Quý Chủ hỏi: "Quân hầu bói việc gì?"
Đông Lăng nói: Nằm lâu muốn dậy, bị giam lâu thì muôn thong thả, buồn bực lâu rồi thì muôn ngáp hơi... Tôi nghe rằng: Sự chứa đựng lâu rồi thì phải tiết ra, sự bế tắc đến cùng cực rồi thì phải được thông đạt, sự nóng đến cùng cực rồi thì nổi gió, bị ứ đọng đến cùng cực rồi thì lại thông đông qua xuân đến, không gì co rồi mà không duỗi ra rồi thì trở lại, một đi, một về. Tôi còn có đều nghi, xin tiên sinh chỉ bảo.
Quý Chủ đáp: "Nếu vậy thì quân hầu đã biết cả rồi, vậy còn coi bói làm gì".
Đông Lăng nói: "Tôi chưa biết rõ lẽ ảo điệu ấy, xin tiên sinh dạy lại cho".
Quý chủ đáp: "Ôi! Đạo Trời thân với gì? Chỉ thân với Đức mà thôi. Quỷ thần linh nhờ đâu? Nhờ người mà linh. Cỏ thi là thứ cỏ khô, mai, mai rùa là thứ xương khô đều là vật vô tri. Quân sao không nghĩ đến ngày trước? Có ngày trước tất phải có ngày nay. Cho nên đây, bây giờ là tường xiêu gạch nát, thì biết đâu ngày trước đây là cao lâu tửu quán, bây giờ đây là bụi hoang cành gãy, thì ngáy trước biết đâu là hoa quỳnh cây ngọc, bây giờ đây là tầm giải dưới sương, ve kêu trong gió, thì ngày trước biết đâu đây là những khúc Phượng sênh Long dịch, bây giờ đây là ma trơi, đom đóm, thì ngày trước biết đâu đây là đèn vàng nến bạc, bây giờ đây là rau đắng rau má mùa xuân thì ngày trước, biết đâu đây là cao lương mỹ vị, bây giờ đây là lá phong hồng bông địch trắng, thì ngày trước biết đâu đây chẳng là gấm xứ Thục, lụa xứ Tề. Trước kia không có mà nay có, đâu phải dư, trước kia có mà nay không, đâu phải thiếu. Vậy nên, hết ngày tới đêm, hoa nở lại tàn, xuân qua thu đến, vật cũ rồi mới, dưới dòng nước chảy mạnh tất có vực sâu, dưới chân núi cao tất có hang thẳm. Quân hầu đã biết rõ lẽ ấy rồi, còn coi bói làm gì!"
Lời bàn:
Bài văn của Khuất Nguyên, nhiều người khen là thứ u mặc sâu sắc.
Lối u mặc của Khuất Nguyên là lối u mặc phần thể tách bạch thị phi, thua xa lối u mặc của Lưu Bá Ôn. Văn của họ Lưu phản phất có mùi vị siêu thoát của Hư Vô, rõ là giọng nói nhẹ nhàng thản nhiên của Dịch đạo. Đó là kẻ đã biết rõ là cùng thông, còn đi coi bói làm gì nữa!
Than ôi! Biết nói gì đây? Ai biết ta là trong sạch?", Khuất Nguyên đi coi bói là phải. Lời của Thiềm Doãn rất đúng: "Thần, có chỗ cũng không thông!". Cái thần minh của Khuất Nguyên bị tấm màng vô minh của nhị nguyên che lấp, quả không làm gì thông nổi. Thần thánh cũng không thông.567
Nov 23, 2004
Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến
Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến
Chỉ tiếc mùa thu vừa mới đi rồi
Còn sót lại trên bàn bông cúc tím
Bốn cành tàn, ba cánh sắp sửa rơi
Hò hẹn mãi cuối cùng em đã tới
Như cánh chim trong mắt của chân trời
Ta đã chán lời vu vơ, giả dối
Hót lên! dù đau xót một lần thôi.
Chần chừ mãi cuối cùng em cũng nói
Rằng bồ câu không chết trẻ bao giờ
Anh sợ hãi bây giờ anh mới nhớ
Em hay là cơn bão tự ngàn xa.
Quả tim anh như căn nhà bé nhỏ
Gió em vào - nếu chán - gió lại ra
Hò hẹn mãi cuối cùng em đứng đó
Dẫu mùa thu, hoa cúc cướp anh rồi...39
Nov 22, 2004
Có đáng nuôi hay không?
Nhà sắp có khách, bà vợ hách dịch hỏi ông chồng:
- Ông định mặc quần đùi để tiếp khách hay sao?
- Tôi muốn để mọi người đều biết, bà đã nuôi tôi thế nào!
- ông chồng hậm hực.
- Nếu vậy
- bà vợ nói
- ông hãy cởi nốt cả quần đùi ra, cho họ biết là ông có đáng để nuôi không?
2244
Hoa tháng Ba
Hai cha con người hát xẩm mới hơn bẩy giờ sáng đã đang
hát ở ngã ba Cửa Nam.
Hôm nay là ngày gì mà đông thế cha nhỉ ? Cậu con trai 13 tuổi đang dắt ông bố già bị mù lần đi từng bước chậm chạp bên các quầy bán hoa.
..." Ờ...ờ...,...ngày lễ... tháng ba!.... cách đây hơn mười năm , cũng ngày này cha đã dành dụm bao ngày... để mua tặng mẹ con một bông hoa
' SIM " bằng nhựa.Mẹ con hôm đó trông thật hạnh phúc !
Mẹ con , hai tay đỡ lấy nhành hoa dại từ tay cha! rồi hôn nhẹ lên vết sẹo nơi trán cha đây.
Mấy ngày sau mẹ con mất!.Khi ấy con mới được gần hai tuổi.
Tối...tối , về góc trọ tối tăm, không chút ánh sáng gì ! Cha ôm con chặt trong lòng.....cha đã khóc mẹ con nhiều lắm !!!.
..... Một sớm mai, khi thức dậy , cha không nhìn thấy gì nữa con ạ ! chỉ nghe tiếng con khóc...vì đói...rét ! mà cha không làm gì được hơn !" - Người cha giọng yếu ớt trả lời thằng bé.
Ông xẩm dặn con :" Ngày này , con nhớ đi lại từ từ... thôi !
đừng có va quệt vào các quý ông , quý bà !...cũng không được mở miệng... xin gì nghe con !!!.
Cha đàn, con cứ... hát đi ! thế thôi , rồi lại chờ đợi , lại đi !.Tối...về góc trọ -Ông bố yếu ớt nói, hai chân ông lần ..bước một- theo chiếc dây buộc ngang bụng cậu con trai...đang lảo đảo bên đường, giọng nó hát ...thật yếu ớt !.
Một nhóm thanh niên ăn mặc sang trọng bước xuống từ hai chiếc xe Meecedes đời mới của đức. Họ đi lại bên một hàng hoa gần đó.Mỗi chàng chọn một bông hoa phong lan dài, cong cong thật đẹp. Cô chủ hàng hoa đon đả đỡ lấy , nót phía dưới một tàu vạn tuế xanh sẫm ,thêm vài chiếc lá măng, một lớp giấy bóng trong suốt đõ lớp ngoài cùng - Trông như chiếc lá non khổng lồ dị dạng !!!.
Đứa con trai của người hát xẩm đọc bài thơ gì đó, ông xẩm mù đệm đàn:
"Sớm nay là tết
Của các nàng tiên!
Chú chẳng tiếc tiền!
Cho đôi mắt đẹp !!!!!!!".
Một chàng nói "Thằng này thế mà giỏi ! nhưng ta còn đang bận".Anh ta bước đến chỗ trả tiền: -" Hết bao nhiêu !???"-Giọng chàng thanh niên, mặc bộ comlê đen sần, chân đi giầy da đen, chiếc calavát đỏ trước ngực trông sặc sỡ làm sao ! in trên nền phông màu trắng của lớp áo trong ! tóc bóng mượt , vuốt ngược về phía sau.
"
...... Dạ...dạ...!, tất cả 7 bó hết 900 ngàn ạ !!!."- Cô chủ hàng đầu hơi cúi xuống trả lời.Chàng thanh niên rút 10 tờ loại 100 ngàn đồng , ném xuống chiếc bàn nhựa bên cạnh ! Những đồng tiền xếp thành vòng tròn...hệt như bông hoa bất tử !!!.-" Rõ điệu nghệ !...mấy ông này chơi bài tây sành lắm!" - Hình như mẹ cô gái hàng hoa, đứng phía trong - nói như chẳng cho ai...!.
Họ lặng lẽ lên xe... như lúc xuất hiên vậy ! -...Chiếc xe đi mà chẳng để lại chút khói đen!, khói trắng ! gì cả... phía sau! Mà có mùi thơm thơm , ngạt ngạt trong không khí.
- Cha ơi !, con chỉ thấy... như 2 con mèo đen nhẹ nhàng lao vút
về hướng bờ hồ - không nghe thấy gì cả...là sao cha ???!- thằng bé hỏi cha nó.
Từ trước tới giờ.... con!..con...mới thấy những chiếc xe như thế này ở thủ đô đấy cha ạ !.
Cậu con trai thả trùng sợi dây dẫn đường cho cha nó !, nó lại gần phía ông xẩm... đang khư khư ôm chiếc đàn ghi ta đã sờn tróc... hết màu véc ni , chỉ còn lại màu thâm lâu loang lổ của thớ gỗ , có vài vệt vân tròn - như sóng nước - trên mặt ao lặng gió...được đứa trẻ ném viên sỏi xuống ao vậy !.
Hai cha con người hát xẩm đến bên gốc cây phượng đầu phố Yết Kiêu.Ông xẩm bảo cậu con - dắt ông đứng gọn vào sát ven hàng rào sắt phía cổng trường mỹ thuật , cho ông nghỉ một quãng... rồi đi tiếp !... Đi đâu nữa?!.
Ông xẩm hỏi con :" Đã được chút hảo tâm gì chưa con?!!!"
-...Chưa...cha ạ !nhưng chắc tới chiều sẽ có !... cha ơi !
..... con đói quá rồi !
-Cả ngày hôm qua... tới giờ , con cùng cha mới ăn một chiếc bánh mỳ nhỏ thôi !".
Cậu bé thò tay kéo chiếc quần cộc... đã rách 2 lỗ ở mông đít... cho khỏi tụt !!!., một tay dắt ông xẩm lại ven hè , sát gốc cây phượng già bên hàng rào sắt đã hoen rỉ.
Thằng bé bảo ông xẩm mù !:" Cha này !lúc nãy các ông đi trên hai chiếc xe đẹp bóng , đen xì.. rồi mua 7 bó hoa - mà con thấy người nọ ! ném xuống bàn những 10 tờ bạc màu nâu... nâu... trắng, toàn những số 1 đứng trước hàng thôi !... thế là sao hở cha?!!!
-Ông xẩm nói :" ...Cha còn nghe rõ giọng cô bán hàng trả lời ông ấy... những 900 ngàn...7 bó hoa kia !Chắc ông ấy hảo tâm... tặng cô hàng bán hoa thêm 100 ngàn!-con nhỉ , với hảo tâm đó, ở chốn đây !, chắc cha con ta... cũng sống thêm được quá 2 tháng đó con !!!."
-Chị bán hàng rong , đi ngang qua ! , đã bỏ vào chiếc mũ trên tay thằng bé 500 đồng.
Nó cúi đầu " Con cảm ơn dì !". Ông xẩm sờ... sờ... bàn tay - gầy như thanh củi khô vào lòng chiếc mũ vải đã rách vài miếng của cậu con..
...Đường xá dạo này... lắm bụi quá!, chị hàng rong , dụi dụi mắt...vội vã bước đi !!!.
- Ông xẩm lẩm bẩm:" Thật không thể hiểu hết... vòng đời ! nhìn thực rõ cả mà không hiểu gì ?.
.....Chỉ có người nghèo mới thương những kẻ...cùng khổ thế này thôi !? ! ".
Hai cha con ông xẩm lại đi.................................................!
Bóng nắng chiều nhợt nhạt để lại trên đường Lý Thái Tổ... hai chiếc bóng...mờ...mờ ! đang năn về cuối phố !!!.
Gần tối ,hai cha con người hát xẩm mới lần về được cái xóm trọ rách nát - Góc chiếc nhà hoang , bên cạnh có mấy thùng rác công cộng... Đầy ắp những bông hoa rập , gãy - thâm héo ! một thứ nước màu đen đang chảy thành vệt nhỏ, từ đáy thùng rác ! một mùi... chua chua ,...hăng hắc... đã làm tôi chóng mặt !.
Thằng bé nói:"...Mới từ sớm , mà bao nhiêu tiền trong đó...đang thối rữa hết cha à ! , vài ngày nữa , nó sẽ thành đất mùn ven đường hết thôi !.Nó đang đau lắm !phải không cha ?.
-... Ông xẩm không nói gì , ông thở thật mệt nhọc ! - thằng bé cố kéo chiếc liếp để che cửa xó trọ.bố nó đang sờ soạng...chui vào trong ! - lũ chuột đùa nghịch từ sớm, tới giờ !... thấy động , mỗi con chạy một nơi. Nó thấy mùi quen ! Cha con ông xẩm đã trở về.
Ba thằng choai choai , cởi trần - trên mình chúng săm - vẽ nhiều hình quái dị , mặc quần soóc có hàng chục chiếc túi...to nhỏ lủng lẳng ! Chúng chắp tay ở sườn - đứng choãi chân , mồm ngậm thuốc lá , ngửa mặt nhìn trời !.
Một thằng đầu trụi như sư chùa Quán Sứ - " à hèm" một tiếng !. Thằng bé con ông xẩm rón rén...chui ra -đặt vào tay thằng đầu trọc 4 tờ bạc 500 đồng... run rẩy:"....Cả ngày hôm nay , cha con cháu... chỉ được 3000 đồng thôi ! ...các chú cho cha con cháu giữ lại một ngàn để sống !
Từ tối hôm qua tới giờ, cha con cháu chưa có gì trong bụng cả !!!".
Nó đút tiền vào túi , chửi đổng một câu -" Mẹ kiếp, súi cả ngày rồi ! Cái ngày này là khốn... nạn nhất trong năm !!!".
Ba thằng lững thững rẽ vào công viên Bách Thảo từ lúc nào - mà thằng bé đứng đó như bị thôi miên !.
Tiếng rao "Ai..mỳ...đơi ! Mỳ nóng ròn...đơi " làm nó sực tỉnh.
Nó vội vã .... Có... có !,.......... thật vô hồn !!!.
Nó lần lần tay vào bẹn quần... lấy ra 2 tờ 500 đồng , đưa cho người bán bánh mỳ. Anh ta lật chiếc bao tải rách, đậy phía trên chiếc sọt , thó tay vào...lấy ra 2 chiếc bánh mỳ to loại 1000 đồng một chiếc đưa cho thằng bé ! Nó...rụt tay lại ,lắp bắp "...cháu chỉ có...có một chiếc thôi !???.
- "Cầm lấy " , hôm nay tao...kiếm được , hên hơn hôm qua...
Thôi... cầm lấy...vào đi em !."
Thằng con ông xẩm , cầm trong tay 2 chiếc bánh còn đang nong nóng...Mắt nó sáng lên !!!
Người bán bánh mỳ, nhảy lên chiếc xe đạp cũ kỹ ! thả xuôi dốc Ngọc Hà. Tiếng " suỵt...suỵt " của chiếc phanh chân bằng lốp cao su gắn trên bánh trước chiếc xe đạp người bán bánh...Tôi thấy rờn rợn !.
......." Ai mỳ đơi !....mỳ nóng ròn.... đơi " - Xa xa vọng lại.
Tối đó ! Hai cha con người hát xẩm được một bữa no.
Chẳng biết đến bao giờ , cha con nó mới có đủ tiền - Để thằng bé thưc hiện cái ước mơ bấy lâu nay của nó : "... Cha con mình sẽ dành dụm tiền để mua một con mèo ! , cho lũ chuột ở đây - Có anh có em ! Cho vui nhà mỗi khi tết về - Cha nhé !".
Nguyễn Đức Hạ Huy.1663
Nov 21, 2004
Chân Thành
Anh đừng hỏi vì sao em không nói
Những buổi chiều gặp gỡ giữa thành đô
Lòng xót xa mà mắt vẫn hững hờ
Em yên lặng để khỏi thành tiếng khóc
Đừng nhắc nhở những ngày xưa đi học
Chuyện chúng mình hai kẻ mới yêu nhau
Để hôm nay em ươm áng thơ sầu
Mơ bóng cũ trở về thành hiện tại
Buổi sơ giao em vô cùng ngây dại
Quá vụng về nên sớm nếm chua cay
Kỷ niệm xưa còn vương ý thu gầy
Em ướp chuyện chúng mình thành dư ảnh
Trời không gió mà lòng nghe lành lạnh
Nét thơ ngây tàn héo thuở anh đi
Trót yêu nhau nhưng vẫn cứ kiêu kỳ
Làm sám hối vẫn không là lời nói
Mười sáu trôi qua ân tình muôn lối
Yêu rất nhiều xét lại vẫn là anh
Cợt yêu đương và thề chẳng trung thành
Em lãng mạn ươm tơ tình khắp nẻo
Đừng trách móc có thiên thần mách lẻo
Rằng yêu anh em vẫn muốn trả thù
Hờn dỗi đời bằng câu chuyện riêng tư
1489
Luật... nhà
Dưới đây là 15 luật... nhà được soạn thảo nhằm đảm bảo "công bằng" giữa vợ và chồng:
1. Luật trong nước: Nhất vợ, nhì chồng.
2. Luật báo chí: Vợ thoái mái tự do ngôn luận.
3. Luật ngân sách: Chồng không thể là người giữ chìa khoá... két ngay cả khi vợ vắng nhà vài ngày.
4. Luật hành chính: Nghiêm cấm mọi thủ đoạn chiếm đoạt quyền vợ.
5. Luật lao động: Người cho con bú, người rửa chén.
6. Luật thương mại: Mọi sự mua bán phải trình vợ duyệt.
7. Luật doanh nghiệp: Tất cả những hợp đồng đã ký kết với vợ phải thi hành triệt để.
8. Luật hình sự: Cấm hành sự khi vợ chưa nói ứ... ừ... ư.
9. Luật kinh tế: Nhà có thiếu gạo, nhưng vợ không thể không có thêm bộ quần áo mới trong 3 tháng.
10. Luật tài chính: Chỉ có vợ mới được phép xài tiền.
11. Luật gia đình: Nghiêm cấm mọi hành vi đánh lại vợ.
12. Luật giáo dục: Vợ kêu chồng phải "Dạ, thưa bà con đây".
13. Luật bản quyền: Tác giả của cái bầu là ông, còn sản xuất hay không là quyền của bà.
14. Luật cư trú: Nếu xảy ra chiến sự thì chồng phải là người "di cư".
15. Luật cung cầu: Chồng lúc nào cũng phải đảm bảo "cung" theo yêu "cầu" của vợ.
16. Luật thuế: Trước khi đi công tác xa, chồng phải đóng thuế đầy đủ cho vợ. Có như vậy các ông mới không "còn sức" đẻ loạng quạng với bồ nhí bên ngoài.
Khi nào có bổ sung thì vợ sẽ thông báo sau vì vợ là người làm luật ...
1442
Nov 20, 2004
Tưởng con vẫn đang bú
Một cô gái vừa xuống xe buýt đã làm cho tất cả mọi người chú ý vì cách ăn mặc quá là táo bạo: Một bên tà áo vén cao, để lộ nguyên cả "ngọn núi lửa" sắp phun trào. Không ai dám nói gì, cuối cùng một cảnh sát can đảm tiến đến nhắc cô gái:
- Thưa cô, cô rất đẹp và thời trang của cô không hề che dấu điều đó, nhưng cô quên mất một điều là... Nghe đến đây, cô gái nhìn vội xuống ngực mình và bỗng hét thất thanh:
- Thôi chết! Tôi quên thằng cu trên xe buýt rồi!
2323
Mối tình năm cũ
Mối tình năm cũ
Đoàn làm phim tài liệu về nhà báo liệt sĩ Nguyễn Thọ tạm trú ở trụ sở ấp văn hóa. Họ đã ở lại Mỹ Hưng thêm năm ngày, nhưng vẫn chưa mời được dì Thấm tham gia. Trần Hưng, tác giả kiêm đạo diễn phim, vốn là người kỹ tính, cầu toàn, anh bảo, làm phim Nguyễn Thọ mà không quay được chân dung người yêu ông, mối tình năm cũ của ông thì thà ở nhà chăn heo cho vợ còn sướng hơn. Nên cả đoàn phải nán chờ trong căn nhà bỏ phế bấy lâu, đất nền bị heo ủi lục cục lòn hòn, bìm bìm leo xanh rờn một bên rèm cửa. Mấy ông già trong xóm lại thấy cảnh tình nheo nhóc, thở dài, tụi bây ở lì vậy không biết có ăn thua gì hôn đây, thằng Mười - chồng con Thấm - tánh tình khó khăn, ngang ngược, hổng giống ai...
Nên chỉ con người này thản nhiên khi thấy đài truyền hình Xê Tê tới, thản nhiên biểu vợ từ chối. Ngoài ông Mười ra, ở đây, ai cũng muốn được vô phim để kể về một Nguyễn Thọ anh dũng, tài hoa, đứa con thương nhớ của vùng đất Mỹ Hưng này, cho nói chút xíu thôi cũng được. Với Nguyễn Thọ thì làm phim nhiều tập mới xứng, nhóc chuyện. Hai mươi sáu năm rồi, nhưng mỗi ông già bà già
đều nhớ thằng Thọ về lần nào cũng chui vô bếp lục cơm nguội ăn với mắm sống, có bộ đồ nhuộm pin đ
èn mặc chết bỏ luôn. Mấy ông bạn cùng tổ công tác vừa đọc truyện Mối tình nho nhỏ của Nguyễn Thọ vừa khóc, “Hỏng có nhà văn nào được như nó, viết truyện ngắn mà ai cũng mê, thuộc lòng như bài ca cải lương, đám cưới, đám giỗ, đám ma đều đem ra làm văn nghệ được hết”. Có ông khóc tồ tồ, “Cuống rún thằng Thọ còn chôn ở đất này mà tụi ác ôn không biết đã thủ tiêu xương cốt nó ở đâu?”. Trần Hưng rất hài lòng với những đoạn phim vừa thu được, nó nổi bật lên phần đời của người chiến sĩ này, giản dị mà cao quý, bình thường mà phi thường. Và chỉ thiếu một câu chuyện tình nữa thôi, một chân dung nữa thôi, bộ phim sẽ sâu sắc, xúc động lắm. Chỉ cần dì Thấm thôi.
Nhưng đã cầu cứu chính quyền, thằng Thảo từ bên ngoại dong về năn nỉ má nó, lớp trưởng bối ở xóm cũng lại bảo, “Thằng Mười mày cho con Thấm nó đi một lần nữa thôi. Chuyện làm phim phiếc này nọ coi vậy cũng là làm việc nước” nhưng ông Mười vẫn nín thinh, ngồi vấn thuốc, uống trà, nhìn xa xôi. Mấy ông già dội ra, chống gậy te te về, bụng chửi, cái thằng, coi mặt chữ điền bự vậy, cái miệng rộng vậy mà ích kỷ, hẹp hòi. Nó không cho con Thấm đi chắc tại ghen chớ gì. Thằng Thọ chết ngắc rồi mà còn ghen.
Bảy năm trước, lúc ông Mười đem hết thảy bốn chín cái thư của Nguyễn Thọ gửi dì Thấm đi đốt hết, cũng không ai cản được. Mấy ông viết sử của tỉnh kêu trời, đồng đội đồng chí của Nguyễn Thọ cũng kêu trời, phải chi còn, đem in vô tập những bức thư tình hay nhất (mặc dù chưa ai được xem Nguyễn Thọ viết ra làm sao). Nhưng thư đã thành tro rồi, ông Mười nói ông không cần biết chuyện giữ gìn bút tích của Nguyễn Thọ để làm tư liệu lịch sử, lưu lại cho thế hệ mai sau gì hết, ông thấy chướng mắt nên đốt, có bậy thì đem ông bỏ tù đi.
Nhưng có ai bị bỏ tù với lý do lãng xẹt như vậy đâu. Chỉ thằng Thảo, con của dì Thấm và Nguyễn Thọ, là buồn lòng, bỏ về ngoại ở. Dì Út Thía không chồng ôm đứa cháu nhỏ vô lòng, biểu mai mốt lớn rồi cháu hiểu. Có gì mà phải đợi lớn, hồi đó tới giờ, thằng Thảo có chọi chết gà nhà nào, có bẻ trộm trái ở vườn ai, bà con đều xuề xòa bỏ qua, nó là con Nguyễn Thọ mà, tội nghiệp... Họ còn bảo ở ngoài tỉnh nhiều đứa cậy ông cha mình có công còn làm chuyện bậy dữ hơn nữa kìa... Chỉ có ông Mười là răn đe, dạy dỗ, ghìm nó như ghìm con ngựa bất kham. Thằng Thảo trở nên đàng hoàng, tử tế, nhưng gặp bất cứ chuyện gì, trong lòng nó cũng có vết tì, tại mình hỏng phải là con ruột của ổng... lâu ngày, ý nghĩ ấy đầy như nước lên tròm trèm trên mặt đập. Và khi ông Mười ngồi dựa cái cà ràng đốt xấp thơ của ba Thọ, nước đã vỡ bờ, nó lầm lì xếp hai cái quần cụt với mấy cái áo bỏ xuống bến đón tàu. Dì Thấm không thể giữ nó lại. Ông Mười lặng lẽ ngồi đốt thuốc, ngó cái lưng tôm của thằng Thảo dưới bến, lòng trĩu như đeo đá. Ông thương nó bằng chang con ruột ông đó chớ. Bây giờ nó không hiểu, chừng nào nó lớn, yêu thương ai đó, nó sẽ biết mà. Thằng Thảo đi rồi, nhà thành ra nặng nề, dì Thấm, người hiểu ông Mười nhất cũng giận, không thèm nói chuyện, có gọi thì cũng trổng không.
Chuyện nguôi nguôi đi, nhà vẫn buồn, nhưng ông Mười không đau lòng như những bữa từ ngoài ruộng về, ông nhìn thấy vợ cầm xấp thư ở góc nhà, ngồi khóc lặng. Ông thương vợ, cứ nhớ hoài vầy thì đời được mấy ngày vui. Ông đem thư đi giấu trong kẹt bồ lúa, dì vẫn tìm ra, vẫn những bữa đi đâu xa về, dượng thấy đôi mắt vợ mình sưng húp. Buộc lòng ông đem thư đi đốt. Chỉ còn cách đó mới tìm lại nụ cười nhẹ nhõm đậu trên khuôn mặt nhẹ nhõm, vô tư lự như những ngày dì Thấm mới mười tám, hai mươi.
Cả đời, ông chỉ mong người trong nhà hiểu mình chứ trông gì người thiên hạ. Với cái tánh lầm lì, lạnh lùng, ít nói, có nói cũng chậm rãi, huỡn đãi, thật khó để bộc bạch mình trước người. Về Mỹ Hưng với dì Thấm từ sau giải phóng, ông chưa cãi cọ, mếch lòng ai, suốt ngày chăm chút cho mảnh ruộng miếng vườn, cho bốn đứa con vừa chung vừa riêng nhưng đất quê vợ mãi mãi không yêu ông như một đứa con ruột thịt. Vì ông lấy người yêu duy nhất của Nguyễn Thọ làm vợ (đáng lẽ phải để dành), rồi sau đó không cho vợ đi dự những cuộc họp mặt, hội thảo về Nguyễn Thọ (làm vậy không phải là quay lưng với quá khứ sao ?) và cũng vì cách ông dạy thằng Thảo (đáng lẽ con của Nguyễn Thọ phải được nâng niu, chiều chuộng). Mặt mày thì đen sì, không biết vui hay buồn, già đầu rồi chưa nói câu nào nghe ngọt ngào với vợ. Ông Mười nghe, buồn quá mà cười.
Ngay bữa đầu Hưng đến, vừa bảo làm phim về Nguyễn Thọ ông Mười đã chụp cái nón lá lên đầu, bảo phải đi cưa củi. Hưng nấn ná lại với dì Thấm, hỏi dì có ngại không khi kể một chút về Nguyễn Thọ, đoạn56
Nov 19, 2004
1/4 tác dụng
Một ông già ra hiệu bán thuốc mua Viagra. Ông già nói với dược sĩ: "Làm ơn bán cho tôi một viên Viagra, nhưng bẻ thành bốn phần đều nhau giúp tôi".
Cô dược sĩ ân cần giải thích:
- Tôi khuyên ông nên dùng đúng liều, chứ uống 1/4 thì chẳng có tác dụng gì đâu.
- Tôi uống Viagra không phải vì tác dụng quảng cáo của nó. Tôi chỉ muốn đi toilet không bị ướt mũi giày mà thôi
1225Nov 18, 2004
Khách hàng
- Một người bán hàng giày đã đưa bà khách thử đến 25 đôi giày để rồi cuối cùng bà ta lại chọn mua đôi giày đầu tiên. Lúc bà ta trả tiền và toan rời khỏi cửa hàng, ông bảo bà ta : - Cám ơn vì bà đã đến, ước mong sao tôi được tiếp khỏang một chục khách hàng như bà.
- Một nhân viên bán hàng khác nghe ông ta nói vậy liền hỏi khi bà khách đã rời khỏi cửa hàng : - Cậu bảo cậu mong ước được tiếp một chục khách hàng như bà ấy. Vì sao cậu lại cư xử tốt với một người khách khó chiều và hống hách như thế chứ ?
- Bởi vì thật sự là như thế - Người bán hàng bảo - Tớ đã tiếp hàng trăm khách hàng như bà ta rồi và tớ chỉ ưóc mong sao mình được tiếp khỏang một chục thôi.757
Ba Mươi Năm Ấy
Cái thành phố cao nguyên đất đỏ ấy, mùa mưa thì nhớp nháp bùn dẻo, mùa hè và những ngày mùa đông lạnh và khô thì "bụi hồng" quyện theo từng cơn gió, chẳng có gì hấp dẫn hay ít ra làm khuây khỏa nguôi ngoai nỗi nhớ nhà, nỗi buồn chán của những con người tứ hướng tập họp lại vì phận sự, vì sinh kế - những quân nhân, những công tư chức, già hay trẻ, những nữ chiêu đãi viên trong các quán rượu, v.v. Giá sinh hoạt thì đắt đỏ; mọi thứ cá, tôm, cua đều phải vận chuyển từ Sài Gòn, và phải bằng đường hàng không cơ mới đủ độ tươi. Phố xá thì nhỏ bé, tuy không đến nỗi "đi dăm phút đã về chốn cũ" như Vũ Hữu Ðịnh diễn tả, chỗ vui chơi giải trí và "đạp đổ" thì tìm đỏ mắt cũng không ra.
Ấy vậy mà từ cao độ của chiếc trực thăng sắp đáp, nhìn những mái nhà tôn, những mái ngói nâu rải rác bên dưới, tôi cảm thấy lòng lâng lâng với nỗi vui được về thành phố; dĩ nhiên không rộn rã như mỗi lần về Sài gòn. Từ rừng già Plei Me về, tôi có hai ngày, ngày mai và ngày kia, tại Bộ Chỉ Huy này để họp - và dĩ nhiên tôi ngầm hiểu mình có hai đêm để vội vã tìm vui, để truy hoan trả đũa! Nhà binh có nhiều thứ ngầm hiểu để hoàn thành nhiệm vụ: tôi được đào tạo thế - nhận specified task và phải tự tìm ra implied task. Tôi quá giang một xe nhà binh từ phi trường ra phố, xuống xe trước khách sạn quen thuộc mọi lần.
Tắm rửa xong, vừa tròng trở lại bộ quân phục, định bách bộ ra phố tìm thức ăn thì có tiếng gõ cửa phòng. Tôi mở cửa và không ngạc nhiên khi thấy trước mặt mình là người hạ sĩ quan trẻ, vui tính của phòng nhân viên tại Bộ Chỉ Huy mà ngày mai tôi sẽ vào họp. Có nghìn cách để anh ta biết tôi về Pleiku lúc nào và tá túc ở đâu. Ngay khi chiếc trực thăng vừa nhấc bổng lên thì một bản báo cáo ngắn về ngày giờ tôi rời căn cứ Plei Me đã bay theo làn sóng điện và đáp trên bàn giấy trong văn phòng anh ta trước khi chiếc máy bay chạm đất ở phi trường. Hoặc giả một người nào đó báo tin, như người tài xế vừa cho tôi quá giang chẳng hạn. Cái tập thể của những người vận quần áo trận này có đông đúc thật - chả thế mà thị trấn này, nơi đặt bản doanh của một quân đoàn, đã được mệnh danh là thành phố của lính - nhưng người ta thường biết rõ nhau cả. Anh ta gặp tôi để chuyển đạt hai điều. Ðiều thứ nhất là chuyển lời vị xếp của anh ta thăm hỏi tôi có cần xe cộ gì không. Ðiều thứ hai thật bất ngờ và là một sự kiện sẽ hằng sâu trong trí tôi nhiều năm sau. Số là anh ta có một "thằng em" - một từ ngữ dùng thật rộng rãi từ thời nào tôi không rõ, để chỉ một người thân, từ em ruột, em họ, đến người dưng nước lã mà người ta cảm thấy đủ thân thiết để gọi thế - rất ghiền khiêu vũ. Hắn ta ghé Pleiku nhiều lần và nghe nói nhiều về Hội Quán Phượng Hoàng, nên đêm nay hắn muốn được vào cho biết. Ðiều phiền toái là không ai bảo lãnh cho hắn vào cổng. Thế là tôi được anh chàng trung sĩ phòng nhân viên nọ gởi gắm người anh em của anh ta. Chuyện như thế có thể cũng bình thường thôi, nếu anh ta không làm tôi khựng lại bằng mấy lời kể lể thêm. "Nó làm lơ xe đò chạy đường Sài Gòn - Pleiku. Hầu như tháng nào cũng ghé đây. Quần áo dính dầu nhớt dơ bẩn. Em phải cho nó mượn áo quần và giày để đi chơi tối nay." Trong một thoáng tôi bỗng tự trách mình sao quá dễ dãi; tôi muốn rút lại lời hứa bảo lãnh hắn nhưng lại ngại nói. Hắn ghiền khiêu vũ à? Có thật thế không? Lối giải trí này có thuộc thành phần như hắn không, hay là hắn xâm nhập Hội Quán vì một mục đích nào đó. Hằng đêm có biết bao sĩ quan, từ úy đến tá, thậm chí vị tướng tư lệnh vẫn thường lui tới đây. Có thể hắn là người của đối phương cũng nên. Rồi tôi bỗng thấy mình sợ hão huyền - đúng hơn, tôi muốn tin mình đã lo sợ hão huyền. Cuối cùng là hắn sẽ đợi tôi gần cổng Hội Quán lúc bảy giờ rưỡi đêm đó.
Tôi không biết Hội Quán Phượng Hoàng được lập ra hồi nào, và cũng chẳng có hơi sức đâu dò tìm ngọn nguồn của nó, vì phải dành hơi sức để lội suối băng ngàn và để truy hoan trả đũa! Nhưng qua những câu chuyện không đâu vào đâu chung quanh mình, tôi biết man mán nó là sáng kiến của một vị tư lệnh Quân Ðoàn II này. Dù sao thì phải nhận những thằng ghiền nhạc, ưa nhảy nhót, cũng như những kẻ chỉ ghiền không khí vũ trường như tôi, tất cả đều thầm cám ơn vị tướng ấy. Và Quân Ðoàn II đã điều hành Phượng Hoàng tuyệt cú mèo. Ðội ngũ vũ nữ phải nói là "sạch nước cản" hết, trên trung bình hết. Chúng tôi có những lối nói riêng với nhau của những người trẻ; khi một cô gái được chấm điểm trên trung bình thì cả bọn đều hiểu về phương diện nào và theo tiêu chuẩn nào. Các cô vũ nữ ở nội trú trong dãy nhà đằng sau Hội Quán. Không khí vũ trường ấm cúng, nhiều tính chất nghệ thuật và nhất là rất an toàn, một phần vì khách chơi không ô hộp lắm, một phần vì biện pháp an ninh chặt chẽ. Chỉ có sĩ quan mới được vào, và thường dân thì chỉ một số có thẻ hội viên mới được đến giải trí. Không được mang vũ khí, chất nổ, dao, v.v. vào Hội Quán. Nhân viên quân cảnh tại cổng thi hành nhiệm vụ đúng mức. Thú thực, tôi bước vào một vũ trường ở Sài Gòn hay một nơi nào khác với tâm trạng bất an thường trực. Với Hội Quán Phượng Hoàng thì không thế, từ lần đầu tiên cho đến những lần sau này khi đã thành ma cũ.
** *
Người trung sĩ phòng nhân viên giới thiệu hắn với tôi khi chúng tôi vừa xuống xe ngoài cổng Hội Quán. Tôi vờ nhìn với vẻ chú ý xã giao của người mới gặp, trong khi kỳ thực cố vận dụng một độ quan sát "chụp ảnh" cái gương mặt xương xương có vẻ dãi dầu, đầu tóc lười chải kia. Hắn trạc tuổi tôi, hoặc nếu có vẻ lớn tuổi hơn chút đỉnh thì tôi nghĩ do cuộc sống lam lũ chứ không do năm tháng. Cái cảm nhận đầu tiên của tôi là hắn không có vẻ gian manh, cũng không dữ tợn; gương mặt toát ra một vẻ nhẫn nhục và điềm đạm. Dù sao, tôi tự nhủ, thôi cũng được, mình chả có gì mất mát cả. Tên hắn là Thanh. Ðêm đó tôi đi cùng hai người bạn nữa. Anh chàng trung sĩ làm xong bổn phận với "thằng em" mình liền xin phép chúng tôi cáo từ.
Qua khỏi cổng, cả bốn chúng tôi rẽ trái, theo lối đi tráng xi-măng thoai thoải dốc dẫn đến cửa vào Hội Quán. Thanh cố ý đi chậm nhường tôi bước trước. Dĩ nhiên, tôi là đầu đàn mà, và cũng theo qui ước ngầm nhà binh, đầu đàn thì phải làm "trưởng chi" lát nữa đây, khi tàn cuộc. Tôi biết hắn ta không có hậu ý đó; chẳng qua hắn muốn chứng tỏ với tôi thái độ của kẻ chịu ơn, và với nhóm chúng tôi thái độ của kẻ biết trên biết dưới.
Qua một hành lang ngắn có vài chiếc ghế dựa dài nằm dọc một bên lối đi để khách ngồi chuyện vãn trước khi nhập cuộc hoặc c
hờ đợi người mình hẹn hò, chúng tôi tiến đến cửa bên trái vào phòng khiêu vũ - cửa bên phải dẫn vào phòng ăn. Vén bức màn nhung xanh sậm buông dài gần chấm nền nhà, chúng tôi chạm một không gian lào xào tiếng nói cười khe khẽ và sực mùi thuốc lá, nước hoa, với ánh đèn màu mờ ảo không soi rõ mọi vật. Tế bào thị giác hình que của chúng tôi chỉ tốn vài giây điều chỉnh để cho chúng tôi trông rõ toàn cảnh: giữa căn phòng là sàn nhảy hình chữ nhật lát gạch hoa, "âm" dưới nền có lẽ gần một tấc, được rọi sáng bằng những bóng đèn cẩn chung quang bờ viền. Khoảng còn lại là bàn ghế sắp theo từng hàng và cách khoảng để chừa lối đi ngang và dọc. Quày rượu và thu tiền nằm cuối phòng, cạnh lối vào phòng vệ sinh. Ban nhạc bắt đầu chơi những tấu khúc vui nhộn để báo hiệu buổi khiêu vũ sắp bắt đầu.
Ðiều không may: viếng Phượng Hoàng vào một tối đông khách như đêm nay, và điều may mắn: còn duy nhất một bàn cho chúng tôi. Chúng tôi vừa yên vị thì bà tài pán đến. Sau câu hỏi han đon đả cố hữu, bà ta vào đề ngay:
- Chỉ còn hai cô chưa kẹt bàn.
- Còn đào để nhảy là quí rồi.
Tôi đáp nhanh như để trấn áp nỗi thất vọng của mình. Chúng tôi gồm những bốn trự mà chỉ có hai cô gái nhảy để chia nhau thì thật không bõ công của kẻ lâu ngày mới về thành phố! Lúc người đàn bà vừa quay lưng đi tôi dặn với theo:
- Chúng tôi bao bàn các cô tối nay.
Bà ta quay lại, ngập ngừng một lát rồi nói:
- Lệnh của sĩ quan quản lý không cho chúng tôi nhận bao bàn những tối đông khách, để các cô có thể chạy bàn tiếp khách. Nhưng để tôi cố thu xếp.
Chạy bàn có lẽ là một từ ngữ trong thế giới vũ trường. Nó không đồng nghĩa với công việc của một bồi bàn trong tiệm ăn. Vũ nữ nhảy với khách bốn bản là đủ một tích-kê và được điều động chạy sang bàn khác trong thứ tự "đặt hàng".
Hai bóng dáng con gái từ từ tiến về phía bàn chúng tôi, một dong dỏng cao và một hơi đẫy đà. Chút bực dọc còn sót lại trong tôi nãy giờ bỗng vụt tiêu tan khi tôi nhận ra Dung "mình dây" và Liên "Bắc Kỳ". Có thế chứ. Nhưng tôi không hiểu làm thế nào hai cô gái này lại không kẹt bàn trong một tối đông khách như đêm nay. Những người khách đến đầu tiên bao giờ cũng có điều kiện chọn người mình thích, và họ không dại gì mà không đòi cho được hai hoa khôi của Hội Quán.
Một trong hai người bạn tôi lên tiếng bày tỏ hân hoan vì may mắn được gặp hai đệ nhất giai nhân. Liên Bắc Kỳ, một cây ăn nói trong đám vũ nữ tại đây, liến thoắng đáp:
- Không dám. Anh quá khen. Phải nói là chúng em may mắn được ngồi với các anh đêm nay. Sáng nay Ðại Tá Tham Mưu Trưởng Quân Ðoàn có gọi dặn phòng quản lý dành sẵn hai cô để tiếp thượng khách của ông từ Sài Gòn ra, và tụi em được lệnh chờ. Thế rồi khi nãy ông ấy gọi đến báo Hội Quán biết là chương trình đã hủy bỏ.
Tôi mới vỡ lẽ. Ít nhất mọi sự phải có nguyên ủy của nó! Tôi liếc Thanh. Hắn không chú ý nhiều đến hai cô gái. Chiếc bàn chỉ vừa cho bốn người ngồi lại phải dung nạp sáu mạng nên ngồi khá chen chúc. Dung ngồi chen vào giữa tôi và Thanh. Liên ngồi ở dãy ghế đối diện, giữa hai người bạn tôi. Thanh nhìn lơ đãng sàn nhảy và quang cảnh khắp phòng. Hắn không có vẻ mán rừng, vẻ nhà quê mới lên tỉnh.
Ánh sáng vụt đổi màu, trắng hơn một tí, giống như mặt đất âm u bỗng vụt sáng hơn vì mặt trời vừa ra khỏi đám mây đen. Cùng một lúc, nhịp điệu dồn dập, thúc giục của một bản paso doble trỗi lên. Ðêm khiêu vũ bắt đầu. Vài cặp đã bước ra sàn nhảy. Hai người bạn tôi cứ đùn hai cô gái cho chúng tôi, nói rằng để nhường cho tôi từ rừng sâu về và cho Thanh là khách mới đến. Thanh thoái thác, cho biết mình chỉ muốn ngồi nghe nhạc và nhìn vũ trường của Hội Quán Phượng Hoàng cho biết thôi chứ không sính nhảy nhót lắm. Tôi đứng dậy dìu Dung ra sàn nhảy.
Ðiệu paso doble vừa dứt, căn phòng bỗng mờ đi và âm thanh chuyển sang tiết điệu blue chậm rãi và dìu dặt. Thiên hạ lục tục kéo nhau ra sàn nhảy khá đông trong khi cô ca sĩ trên bục gỗ đang rên rỉ bản Sang Ngang của nhạc sĩ Ðỗ Lễ. Tôi vừa định trở về bàn để nhường cho Thanh nhảy với Dung thì cô nàng kéo tay tôi lại nói, "đi luôn bản này đi anh."
Chúng tôi biết nhau qua mấy lần trước tôi ghé đây. Nàng nhớ mơ hồ khá lâu không thấy tôi trở lại. Thực ra nàng đã nhớ chính xác, vì từ đêm nhảy sau cùng cách đây sáu tháng tuy tôi có về Pleiku đôi lần nhưng bận những tiết mục khác nên đã không viếng Phượng Hoàng.
Bước nhảy chậm rãi như thế này rất thích hợp cho những cặp yêu nhau thủ thỉ. Tôi cho rằng không cứ gì những đôi tình nhân mới thủ thỉ trong điệu slow; cô vũ nữ nào cũng hay ép mặt sát vào khách và thì thầm những chuyện không đâu vào đâu. Cả một nghệ thuật trong nghề đấy. Một người bạn tôi đã suýt bỏ vợ vì một ả anh ta gặp trong một vũ trường. Cô nàng có một giọng nói thỏ thẻ làm mê mệt khách, khiến anh ta đâm "ghiền", không đến thì nhớ quay quắt chịu không nổi. Tôi cũng khám phá ra một "chân lý" nữa trong giới vũ nữ: những ác cảm vô căn cứ. Ðừng tưởng các cô chỉ hành xử vì tiền thôi, mà còn vì cảm tính nữa. Các cô có những lựa chọn, những né tránh ngầm. Như cô ả Dung đêm nay. Chẳng phải cô ta mê gì tôi, chẳng qua muốn tránh khéo anh chàng Thanh mà cô cho là dở hơi. Với Liên hay một ai khác, có lẽ tôi cũng có vài khoảnh khắc ngỡ ngàng trước thái độ này, và có khi còn khấp khởi mừng thầm chắc mình được yêu rồi. Với Dung, nổi tiếng ở Phượng Hoàng là tốc, là bất cần, là đạp đổ, thì tôi "thông cảm" ngay. Tôi nhớ có lần một người bạn cho tôi hay, "Dung nó đẹp nhất nhì ở đây, lại nhảy giỏi, nhưng kiếm ít tiền hơn các cô khác dung nhan kém hơn, nhảy tồi hơn, chỉ vì nó không chịu chài khách. Nó hành nghề vũ nữ nghệ sĩ lắm, tùy hứng lắm!" Chưa hết, tôi còn nghe một số huyền thoại nữa về Dung, nào là ngày trước cô ta thất tình vì một công tử con nhà giàu nên đâm ra ăn chơi, rồi sa chân vào đường vũ nữ, và từ đó nuôi trong lòng mối hận tình lẫn hận thù những khách chơi giàu có, ném tiền qua cửa sổ; nào là Dung hành xử theo con tim, và con tim nàng có những tiêu chuẩn mọi người không hiểu nổi, v.v.
Tôi không rõ những điều kia có đúng không, nhưng tôi được biết ít ra cũng có vài người tán gia bại sản hay điêu đứng vì chạy theo nàng.
- Anh ấy là bạn anh?
- Chỉ mới biết lần đầu.
- Anh ta làm sao ấy, vẻ khinh khỉnh. Vào vũ trường mà không nhảy nhót thì ngồi làm gì. Không chừng chẳng biết nhảy!
Tôi ậm ự cho qua, và nghĩ thầm, "sao cô ngốc thế, việc gì đến mình mà khó tính thế. Rồi người ta cướp hết khách cho mà đói meo!"
Chúng tôi ba đứa chia nhau nhảy với hai cô gái. Dàn nhạc đã chơi hơn một chu kỳ rồi, và mặc cho chúng tôi cứ thỉnh thoảng thúc giục, Thanh vẫn không chịu đứng lên dìu cô nào ra sàn nhảy. Cuối cùng tôi thấy - và có lẽ hai người bạn tôi cũng nghĩ thế - nên để hắn ta yên, vì chắc hắn ta không biết nhảy. Thoáng nghi ngờ lúc ban chiều về hắn lại trở về trong óc tôi.
Ðiệu bebop trỗi lên. Có hai cặp bước ra. Tự nhiên không ai bảo ai, ba chúng tôi chỉ thích ngồi nhìn người ta nhảy. Riêng tôi, một phần vì cũng chán nhảy rồi, phần khác tôi chỉ biết những bước căn bản của điệu nhảy này, như một học sinh mới tập làm luận văn chỉ biết viết những câu ngắn đúng văn phạm chứ chưa biết diễn tả bằng những câu bay bướm, cầu kỳ, nên không hứng thú lắm. Chính lúc đó Thanh ngỏ lời với chúng tôi, xin mượn hai cô gái. Tuy chưa rõ ý định của hắn, chúng tôi đều gật đầu hưởng ứng, hay khuyến khích thì cũng vậy. Thanh vừa đứng dậy vừa đưa hai tay nắm tay Dung và Liên. Dung rút tay lại, lên tiếng:
- Không được đâu, tôi chưa bao giờ nhảy kiểu này.
Thanh khẽ mỉm cười với vẻ tự tin:
- Ðừng lo, các cô chỉ theo tôi. Cứ đi như mình nhảy với một người. Phần tôi, tôi làm được.
Chúng tôi nhìn không chớp mắt bộ ba đó đang tiến ra sàn nhảy.
Trong khoảng bao nhiêu phút giây tiếp theo chúng tôi hầu như quên bẵng ý niệm thời gian, cứ dán mắt vào hai nữ và một nam đang quay, lộn, đẩy, kéo theo nhịp điệu bản nhạc đầy âm hưởng Trung Hoa, Rose de Chine. Tôi nhìn mỏi cả mắt cũng không sao hình dung được những động tác của Thanh, nói chi đến học lóm vài bước nhảy tân kỳ kia. Ðôi chân hắn ta thoăn thoắt, khi nện gót, khi dí mũi dày, trong khi hai tay không ngừng điều khiển Dung và Liên xoay, tiến, lui chung quanh mình. Ðầu hắn ngẩn cao, vẻ mặt linh hoạt, đôi mắt khi thì nhìn Dung, khi thì nhìn Liên, nhưng trong ánh mắt tôi có cảm tưởng mình thấy được tia say đắm hướng vào một cõi xa xôi nào, cõi của âm thanh khi lãng đãng khi dồn dập đang quyện trong không gian mờ ảo của vũ trường.
Thế rồi không còn cặp nào trên sàn nhảy nữa; mọi người chỉ muốn ngồi chiêm ngưỡng bộ tam vũ biểu diễn. Sân nhảy trống chỗ, Thanh như con phượng hoàng có không gian rộng để vỗ cánh, càng lả lướt hơn, đã nới rộng những vòng quay cho Dung và Liên. Họ chiếm hẳn vùng trung tâm sàn nhảy.
Tôi đảo mắt một vòng quanh phòng, một phản xạ tự nhiên ngầm biểu lộ niềm hãnh diện vô căn cứ rằng thiên thần của vũ trường đêm nay là một người bạn của mình. Mọi con mắt đều dồn về ba người trên sân nhảy; thậm chí không ai nói chuyện riêng, không buồn nâng ly uống. Tất cả vũ trường như bị thôi miên.
Trên bục của ban nhạc tôi vừa thoáng thấy anh chàng thổi saxophone, mà tôi đoán là trưởng ban nhạc vì tuổi tác lớn hơn cả, đang ghé tai nói điều gì với tay chơi dương cầm. Rồi dàn nhạc chuyển âm giai qua bản đàn khác, nhưng tiết điệu Swing vẫn tiếp nối.
Lúc điệu nhảy chấm dứt, bản nhạc tạm biệt, bản Auld Lang Syne quen thuộc, bỗng trỗi lên gieo một âm hưởng lưu luyến báo hiệu cuộc vui đã tàn và đèn vụt sáng trong khi tiếng vỗ tay đồng loạt vang lên như pháo nổ, rồi râm rang một lúc trước khi còn nghe lác đác và lịm dần ở cuối phòng. Tôi chưa từng thấy một sự tán thưởng như thế ở những buổi nhảy tại các khiêu vũ trường. Tôi cũng chưa từng thấy một dàn nhạc nào đã tỏ ra ưu ái với khách bằng cách chơi liên tiếp hai bản đàn cho một vũ điệu như thế.
Nét mặt Thanh vẫn bình thản, dường như hắn ta đã từng làm vua vũ trường với đôi chân vàng của mình. Nhưng hai cô gái thì không giấu nổi những nụ cười hài lòng. Tôi đoán họ cảm thấy hãnh diện lây vì là một thành phần bất khả phân trong màn biểu diễn của Thanh.
Tôi liếc nhìn Dung. Vẻ đăm đăm, khó chịu lúc ban đầu biến mất trên gương mặt bây giờ xinh xắn, khả ái của cô ta. Nhưng cô nàng vẫn không "thân thiện" với anh chàng Thanh, trong khi Liên thì tíu tít khen bước nhảy của anh ta lúc cả bọn chúng tôi nối đuôi theo giòng người từ từ xê dịch ra phía cửa.
Ra khỏi phòng nhảy, chúng tôi đi dọc hành lang để ra cổng. Bên trái hành lang là phòng ăn của Hội Quán, với lác đác vài người vừa bước vào; phần đông khách chơi thích ăn ở các tiệm quán ngoài phố hơn. Tôi đề nghị đi ăn bún bò Nhà Xác thì hai cô gái và hai người bạn tôi tán thành ngay. Có lẽ đối với khách ăn đêm của Phượng Hoàng cái tên đó không những không gây ngạc nhiên hay sửng sốt mà còn kích thích cái dạ dày vào giờ đó đã bắt đầu cảm thấy cồn cào. Anh chàng Thanh mở to mắt nhìn tôi ra chiều không hiểu tôi đùa hay ngụ ý gì. Tôi giải thích cái tên Nhà Xác do đâu mà có: quán ăn lụp xụp do một tư nhân mở trong khu bệnh viện dân y, cạnh nhà xác. Có lẽ khắp Pleiku tôi không tìm đâu được một nơi bán bún bò ngon như ở đây.
Và tại quán bún bò Nhà Xác đêm đó Thanh đã là một đề tài khá lạ lùng đối với chúng tôi. Sau này tôi được biết, ngoài tôi ra cả bọn chúng tôi lúc đó ai cũng đang có trong đầu một giả thuyết bình thường và hữu lý về con người nhảy đẹp nhất kia, một giả thuyết có dị biệt về tiểu tiết nhưng tương tự ở đại thể. Chúng tôi tin rằng hắn ta đã có một thời ăn chơi có hạng ở Sài Gòn. Nếu không phải con nhà giàu thì ít ra cũng xuất thân từ một gia đình trung lưu, và vì lý do này hay lý do khác bị sa cơ thất thế nên mới ra thân phận như ngày nay.
Một trong hai người bạn tôi hỏi Thanh có học qua lớp dạy khiêu vũ nào không; anh ta đề cập đến tên các vũ sư nổi tiếng của Sài Gòn. Thanh với vẻ mặt ngơ ngác trả lời rất gọn rằng không hề nghe tên các vị kia bởi lẽ từ bé đến giờ có được học khiêu vũ "đàng hoàng" từ trường lớp nào đâu!
Không muốn để chúng tôi thắc mắc lâu, Thanh bắt đầu nói qua về tuổi thơ khốn khổ của mình. Hắn trốn khỏi viện mồ côi Long Thành lúc lên mười tuổi, và bắt đầu kiếp sống đầu đường xó chợ giữa cái thành phố một thời được mệnh danh hòn ngọc Viễn Ðông, một nơi mà cái giàu có, cái hào nhoáng xa hoa vẫn đi bên cạnh cái nghèo khó, cái lam lũ. Hắn trở thành cậu bé đánh giày ban ngày, và đêm đêm ngủ trong các chợ, hay dưới mái hiên nhà người ta. Rồi dần dần hắn tìm được một chỗ trú tốt hơn: ban đêm hắn đóng đô hẳn trong cái phòng nhỏ chứa dụng cụ của nhà hàng khiêu vũ Kim Sơn, do lòng tốt của viên quản lý tại đây. Hắn lớn dần, thành một cậu thiếu niên mười sáu tuổi lém lỉnh, sành sõi trong thế giới bọn đánh giày.
Hằng đêm hắn nhìn những cặp uyên ương vũ trường quay cuồng theo sóng nhạc. Hắn đâm thích khiêu vũ. Hắn học lóm bằng quan sát, bằng sự chỉ dẫn của những người chị "nuôi" vũ nữ vốn rất mến hắn, một tình thương mến dễ nẩy sinh giữa những kẻ cùng một nấc thang trong xã hội. Nhưng hắn có thiên bẩm về nhảy nhót. Hắn học một mà biết mười, hắn có óc sáng tạo, óc tổng hợp, có khả năng bắt chước. Tóm lại, hắn thâu tóm những tinh hoa nhảy nhót mà thiên hạ đem đến thi thố hằng đêm ở vũ trường rồi biến hóa thành những bước riêng của mình!
Nghe xong những lời tự thuật không màu mè của Thanh, mối thiện cảm của chúng tôi đối với hắn ta bỗng tăng lên. Dung vụt miệng nói:
Anh dìu tuyệt quá. Em không ngờ dễ đi thế!
Tôi ngạc nhiên nghe tiếng em ngọt ngào thay thế tiếng tôi bướng bỉnh trong câu duy nhất Dung nói với Thanh ở phòng nhảy. Hai người bạn tôi ngỏ ý muốn Thanh chỉ vẽ thêm những bước nhảy mới lạ. Thanh vui vẻ nhận lời và cho biết mỗi tháng anh đều theo chuyến xe đò của hãng Nam Trung từ Sài Gòn ra Pleiku một vài ngày. Về phần mình, tôi cũng muốn tầm sư học đạo nhưng biết thân phận mình - không phải lính thành phố - nên chẳng nghĩ đến việc cầu học như các bạn tôi.
Mọi người đều công nhận danh bất hư truyền của quán bún bò Nhà Xác, và cả bọn chúng tôi đều kêu thêm tô thứ hai. Ăn xong chúng tôi ngồi tán gẫu một lát. Có lẽ cái thú vui của những câu chuyện bù khú chỉ thực sự có vào những thời khắc khuya khoắt của đêm, ở những hàng quán lụp xụp. Dung lục bóp lôi ra gói thuốc lá Salem để mời cả bọn, nhưng chúng tôi không ai hút. Thanh thì cám ơn nhưng cho biết chỉ hút Capstan thôi. Anh chàng lôi từ túi áo trên ra một bao xẹp lép không còn điếu thuốc nào cả. Dung vội đứng dậy, tiến ra cửa, nơi một cô bé đang ngồi bên thùng thuốc lá bằng kiếng, và xỉa tiền mua một gói Capstan rồi trở lại bàn trao cho Thanh. Anh chàng móc tiền trả lại nhưng Dung khoát tay từ chối.
- Cám ơn nhé.
- Ơn nghĩa gì, đừng thù oán là được rồi.
Vừa nói Dung vừa phà khói ra bằng lổ mũi và cười mỉm. Trong một thoáng cái hình ảnh "bụi" và duyên dáng kia giải thích riêng cho tôi tại sao nhiều người đàn ông đã điêu đứng vì người con gái này. Duy câu trả lời vì sao quả tim nàng chưa rung động vì họ thì chỉ có trời biết.
Thanh bỗng phá lên cười, đoạn nheo một mắt, lần đầu tiên từ suốt buổi tối tới giờ hắn nhìn Dung với vẻ thích thú, buông một câu nghe vừa bông đùa vừa khẳng định:
- Các cô mới vua thù oán!
- Yên trí, em chỉ thù mấy thằng cha giàu, không thù anh đâu.
Tia nhìn tinh nghịch của Dung chiếu thẳng vào mặt Thanh khi cô nàng thốt lên câu đó.
Chợt một người trong nhóm chúng tôi nhắc rằng đêm đã khuya, và chúng tôi vội đứng dậy, thanh toán tiền, rồi ra về. Sau khi đưa hai cô gái về chỗ trọ và đưa Thanh về nhà người trung sĩ anh nuôi, hai người bạn đưa tôi về khách sạn, và chúng tôi chia tay.
Mùa mưa của cao nguyên tới, kéo theo những trận đánh long trời, một điệp khúc chiến sự hằng năm, và tôi vất vả hơn với những cuộc hành quân liên miên. Bốn tháng kể từ đêm kỳ ngộ ở quán bún bò Nhà Xác tôi mới trở lại Pleiku. Hai người bạn tôi vẫn còn đó. Chúng tôi lại viếng Hội Quán Phượng Hoàng để "mừng cho mày còn trở về được, và trở về lành lặn", nói theo lời mời của hai bạn tôi. Cảnh cũ, người xưa, chỉ thiếu Dung. Hỏi thăm về nàng thì chúng tôi được biết Dung nghỉ việc ba tháng rồi, về Sài Gòn, nghe đâu là để xây tổ uyên ương với một người khách chỉ gặp một lần duy nhất tại đây, bỏ lại sau lưng anh kép thương gia rất sộp cùng lời hứa về căn nhà bên suối mộng mị ở Ðà Lạt và một cuộc sống nhàn hạ, không phải chạy bàn ở đâu nữa. Bạn tôi cũng chẳng biết gì hơn thế.
Sự ra đi của Dung đã để lại sau lưng cô nàng cả Hội Quán Phượng Hoàng ngơ ngác. Ban quản lý cảm thấy một tài nguyên quí giá của Hội Quán vừa mất đi. Những khách chơi "nòi tình" cảm thấy hụt hẫng trong nỗi niềm rắp cung bắn sẻ. Những đồng nghiệp của Dung, từ những kẻ thù nghịch đến những người thân thiết, tất cả bàng hoàng; không ai hiểu nổi việc cô gái tốt số ấy âm thần ra đi, gạt qua một bên những người đàn ông thế lực, giàu có sẵn sàng hiến dâng mọi thứ mà một vũ nữ nào cũng mơ ước.
Lúc chia tay cách đây bốn tháng, hai người bạn tôi đã cẩn thận trao địa chỉ cho Thanh, nhưng từ đó đến nay tuyệt nhiên họ không nghe tăm hơi về sư phụ. Cả viên trung sĩ phòng nhân viên cũng không được tin tức gì về Thanh. Một lần anh ta có đến hỏi hãng xe Nam Trung thì chỉ được biết hắn ta không làm việc cho hãng đã lâu.
***
Philadelphia, PA, 1997.
Ba mươi năm đã trôi qua. Tôi không gặp lại một người nào trong năm người đã cùng ngồi ăn bún bò với tôi trong gian nhà lụp xụp một đêm năm xưa để có thể sửa lại câu thơ của cụ Nguyễn Du
Ba mươi năm ấy bây giờ là đây
Tôi mong tất cả hãy còn trên đời này, tất cả hãy bình yên, hãy được toại nguyện trong những gì mình ấp ủ, ở xứ người hay còn ở quê nhà.162
Nov 17, 2004
Sát sinh, tội nặng lắm đấy
Một người đánh cá đem cá vào chợ bán. Có nhà sư trông thấy, bảo:
- Ngày nào ngươi cũng sát sinh, tội nặng lắm! Ðể nhà chùa làm lễ sám hối cho, có bằng lòng không?
Người đánh cá hỏi:
- Sám hối thì phải thế nào?
Sư bảo:
- Bán rẻ cá cho nhà chùa để nhà chùa phóng sinh, thả xuống ao.
Người đánh cá nói:
- Vâng! Nhưng xin nhà chùa cho mỗi con năm tiền, chứ kém không được.
Sư nói:
- Nam mô phật! Sao đắt thế! Xưa nay nhà chùa vẫn mua cá rán ở hàng cơm cũng chỉ có ba tiền một con, nữa là cá chưa rán.384
Nov 16, 2004
Cắn rứt lương tâm
Một ông chồng trên giường hấp hối, gọi vợ đến bên mình và hỏi:
- Em ơi, anh không còn sống được nữa. Em hãy nói thật cho anh, trong suốt thời gian chúng mình chung sống với nhau, em đã phản bội anh bao nhiêu lần? Chị vợ không nói gì, chỉ khóc nức nở. Ông chồng lại hỏi :
- Thôi, em đã không muốn nói thì hãy giải thích cho anh tại sao trong tủ của em có 3 quả trứng và 300 USD? Chị vợ thút thít :
- Mỗi lần em phản bội anh, em lại cho vào tủ một quả trứng. Ông chồng thở phào:
- À, thế là chỉ có 3 lần thôi ư? Còn 300 USD thì sao? Lần này, chị vợ khóc rất to và giải thích:
- Mỗi lần trứng nhiều quá, em lại đem ra chợ bán và... em đã tiết kiệm được 300 USD. Nghe đến đó, ông chồng kêu to lên một tiếng và trút hơi thở cuối cùng.
2346
Sài Gòn, Quán Cà Phê Và Tuổi Lang Thang
Anh em nào có ở Đại học xá Minh Mạng những năm 66 - 67; đã từng lê la ngồi ngắm đất trời ở Ngả Sáu Chợ Lớn, chỗ cái quán cóc ngay góc đường Minh Mạng - Nguyễn Tri Phương; từng ít nhiều là thân chủ có ký sổ dài hạn với chú Tàu con phì lũ, xin nhận một lời nhắn: “Hồi đổi đời mấy anh tứ tán muôn phương hết, ba bốn cuốn sổ đầy gật những con số em không lấy được đồng nào nhưng em không buồn; nhớ lại những ngày vui cũ mà rầu thúi ruột. Ước gì có được không khí hồi đó, con người hồi đó; mấy anh đi ra đi vào, hớn hở kể chuyện tán đào, rầu rĩ ôm gối thất tình, nồng nhiệt tính chuyện lấp biển dời sông, bàn tán tính đường trốn lính, cái gì cũng ồn ào bộc trực, thoải mái tự nhiên, không màu mè rào đón, không kiểu cách đóng trò gì cả, sống đã thiệt. Vui kiểu đó em bán cà-phê cho mấy anh ký sổ hoài cũng được”.
Đầu năm 1980, giữa rừng già Bình Long tôi đã tình cờ gặp lại người chủ, người bạn nhỏ này. Tôi là tù cải tạo, bạn khổ sai kinh tế mới, cả hai đều thảm như nhau nhưng đều có chút rộn ràng nhịp thở khi nhắc lại những chuyện mới đó nhưng như đã lâu lắm rồi. Người bạn nhỏ đã nói với tôi những lời ấm áp, không nguyên văn thì cũng đúng ý như đã ghi ở trên và tôi muốn gởi những lời này đến các bạn như một kỷ niệm chung và tôi cũng muốn mượn dịp này để nói về cà- phê Sài Gòn, ngày đó.
Bạn đã uống cà-phê nhiều, bạn biết mà, muốn phà một ly cà- phê tuyệt vời đâu có khó: Cà-phê Sẻ loãng nước nhưng đậm mùi thơm, cà- phê Mít đặc quánh mà vô vị, hãy chọn một tỷ lệ pha trộn thích hợp là đã đi được 70% đoạn đường rồi; muốn kẹo thêm nữa hã? Muốn hưởng cái cảm giác chát chát, tê tê đầu lưởi phải không? Dễ mà, thêm vào chút xác cau khô là xong ngay. Bạn muốn có vị Rhum, thì Rhum; bạn thích cái béo béo, thơm thơm của bơ, cứ bỏ chút Bretain vào. Bạn hỏi tôi nước mắm nhỉ để làm gì à? Chà, khó quá đi, nói làm sao cho chính xác đây! Thì để cho nó đậm đà. Đậm làm sao? Tôi không biết, không tả được, mời bạn hãy thử và tự cảm lấy. Bạn đòi phải có tách sứ, thìa bạc; bạn nói phải nghe nhạc tiền chiến, phải hút Capstan mới đã đời, thú vị phải không? Thì đó, bạn đã có đủ hết những gì bạn cần sao không tự pha ra mà uống, lại cứ đòi đi uống cà- phê tiệm, dị hợm không?
Nói vậy chứ tôi biết, tôi không trách bạn đâu. Cà- phê ngon chỉ mới được một nửa, nhưng chúng ta đâu chỉ cần uống cà- phê, chúng ta còn ghiền “uống” con người cà- phê; “uống” không khí và cảnh sắc cà- phê; “uống” câu chuyện quănh bàn cà- phê và nhiều thứ nữa. Vậy thì mời bạn đi với tôi, quanh quanh Sài Gòn làm vài ly chơi. Dĩ nhiên là tưởng tượng, cả bạn và tôi đều biết, đã xa rồi, biền biệt lắm rồi, ngày đó.
Tôi xin bắt đầu từ giữa thập niên 60, những năm đầu tôi sống ở Sài Gòn và cũng là giai đoạn đất nước thực sự có những trở mình to tát; những cơn lốc kinh hồn; những bùng vỡ vượt mọi giới hạn; những xô đẩy, mời gọi đầy lôi cuốn và cũng nhiều cạm bẩy.
Niềm vui và nỗi hy vọng về một vận hội mới sau biến cố 1963 qua nhanh theo với sự yểu tử tất yếu của những người đã nhân danh một cuộc cách mạng, nhưng là thứ cách mạng nửa vời, có khả năng đả phá nhưng lại thiếu bản lãnh và tâm lực để xây dựng, kiến tạo; rồi chỉnh lý, tái chỉnh lý; chính quyền quân nhân; chính quyền dân sự; Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc ở Huế và các tỉnh miền Trung; Phong Trào Nhân Dân Tự Quyết ở Đà Nẵng; Phật Giáo đưa bàn thờ xuống đường; Thiên Chúa Giáo biểu dương lực lượng ở chỗ này chỗ khác; người Mỹ đổ bộ càng lúc càng đông , theo với nó là các Snack Bar, gái làm tiền và sự phá sản nghiêm trọng của nhiều giá trị luân lý và đạo đức. Chiến trường càng lúc càng khốc liệt, càng áp gần và đã trở thành một nỗi ám ảnh dai dẳng; một cơn ác mộng thường trực. Đủ thứ chiêu bài, đủ thứ lý thuyết mới mẻ và lôi cuốn được nhân danh, được nhắc đến...
Như vậy đó, Miền Nam Việt Nam những năm giữa thập niên 60; như vậy đó, tuổi trẻ Việt Nam lột xác: phải biết lớn ra, phải tự già đi trước tuổi của mình. Những “lưu bút ngày xanh” đành gấp lại; những mơ mộng hoa bướm tự nó đã thành lỗi nhịp, vô duyên. Tiếng cười dường như ít đi, kém trong trẻo hồn nhiên; khuôn mặt, dáng vẻ dường như tư lự, trầm lắng hơn và đầu óc không còn, cũng không thể vô tư nhởn nhơ được nữa. Những điếu thuốc đầu tiên trong đời được đốt lên; những ly cà phê đắng đầu tiên trong đời được nhấp vào và dù muốn hay không, tuổi trẻ đã thực sự bị chi phối, và phải thường xuyên đối diện với những bất hạnh của dân tộc mình; những thảm kịch của thân phận mình và quán cà phê trở thành cái nơi chốn hẹn hò để dàn trải tâm tư, để trầm lắng suy gẫm. Có một chút bức thiết, thật lòng; có một chút làm dáng, thời thượng. Thông cảm giùm đi, tập làm người lớn mà.
Những ngày mới vào Thủ Đô, tôi ở Đại học xá Minh Mạng. Đối với một thanh niên tỉnh lẻ mới mẻ và bỡ ngỡ, Sài Gòn lớn lắm, phồn vinh và náo nhiệt lắm. Trong suốt nhiều tuần lễ đầu tiên tôi đã dè dặc khi đi lại và lúc nào cũng lẩm nhẩm câu “thần chú” bạn bè mớm cho: Phan Thanh Giản đi xuống, Phan Đình Phùng đi lên và mườn tượng ra một “lá bùa” như một thứ kim chỉ nam khả dụng. Hai con đường một chiều và ngược nhau như cái xương sống xuyên dọc trung tâm thành phố giúp định hướng, tạo dễ dàng cho việc di chuyển. Dĩ nhiên nếu tính từ Đại học xá, Phan Thanh Gian được hiểu như bao gồm cả khúc Minh Mạng nối từ Ngả Bảy đến Ngả Sáu Chợ Lớn và Phan Đình Phùng phải cộng thêm khúc Lý Thái Tổ rẽõ phải đến Ngả Bảy hay rẽ trái đến Trần Hoàng Quân để về Ngả Sáu.
Về sau, khi đã khá quen quen, lá bùa được vẽ lớn thêm ra: Từ Phan Thanh Giản , rẽ phải theo Lê Văn Duyệt sẽ đến phố chính Lê Lợi, nhà sách Khai Trí, chợ Bến Thành, rẽ trái lên Hòa Hưng, Bảy Hiền; từ Phan Thanh Giản rẽ phải ở Hai Bà Trưng sẽ đến bến Bạch Đằng, rẽ trái sẽ qua cầu Kiệu, Ngả Tư Phú Nhận; cũng từ Phan Thanh Giản rẽ trái ở Đinh Tiên Hoàng sẽ đến rạp Casino Dakao, Lăng Ông Bà Chiểu và hướng ngược lại là trường Văn Khoa. Cứ như thế, cái xe Gobel hai số cọc cạch, nổ bành bạch như máy xay lúa, trung thành như một người bạn thân thiết tha tôi đi khắp Sài Gòn,
Chợ Lớn, Gia Định.
Những ngày này tôi là khách thường trực của quán Cà-phê Thu Hương đường Hai Bà Trưng. Quán nằm ở một vị trí đẹp, chiếm ba lô đất ngó chéo qua phía trại hòm Tobia; nơi đây có một căn phòng hẹp vừa đặc quầy thu tiền, vừa là chỗ ngồi cho những ai thích nghe nhạc với âm thanh lớn, phần còn lại là một sân gạch rộng, có mái che nhưng không ngăn vách, từ trong có thể nhìn rõ ra đường qua những song sắt nhỏ sơn xanh với một giàn hoa giấy phủ rợp. Ngồi đây có thể nghe được văng vẳng tiếng nhạc vọng ra từ bên trong; cảm được chút riêng tư cách biệt, nhưng đồng thời cũng có thể nhận ra được sức sống bừng lên mỗi sáng, dáng vẻ mệt mỏi, u ám mỗi chiều đang lặng lờ chảy qua trên đường phía ngoài.
Chủ quán ở đây là một người đặc biệt: Khó chịu một cách dễ thương. Hình như với ông, bán cà- phê chỉ như một cách tiêu khiển và pha cà- phê là một nghệ thuật kỳ thú. Ông hảnh diện với tên tuổi của Thu Hương và muốn bảo vệ nó. Bạn là khách uống cà- phê phải không? Xin cứ ngồi yên đó, việc của bạn là uống vậy thì đừng táy máy đụng vào làm hư cà- phê của tôi. Cà- phê được bưng tới, ông chủ sẽ ngồi đâu đó quan sát và chờ. Yên tâm đi, đừng nôn nóng gì cả, bạn sẽ có cà- phê ngon để uống mà. Ông chủ sẽ xuất hiện đúng lúc cạn phin, sẽ bỏ đường cho bạn, khuấy đều cho bạn và sẽ lịch sự “xin mời” khi mọi việc hoàn tất. Ly cà- phê như vậy mới là cà- phê Thu Hương, đó là cung cách của Thu Hương, đặc điểm của Thu Hương. Nhiều người mới đến lần đầu không biết, cà- phê bưng tới là tự lo liệu cho mình đều bị chỉnh ngay: Ông nôn nóng mở phin lỏng như vậy nước chảy ào ào còn gì là Thu Hương! Ông bỏ đường ngọt như ăn chè vậy còn gì là Thu Hương! Ống klhuấy cốp cốp kiểu đó cà- phê sẽ chua lét là ông giết Thu Hương rồi! “Thằng cha” này rắc rối thật nhưng là sự rắc rối có thể hiểu được, thông cảm được miễn là cà- phê ngon. Mà cà- phê Thu Hương ngon thiệt, ngon lắm.
Trong lãnh vực kinh doanh quán cà- phê, có người dùng âm thanh; có người dùng ánh sáng và cảnh trí; có người nhờ sự duyên dáng của tiếp viên; có người dùng phẩm chất của cà- phê để hấp dẫn khách. Ông chủ Thu Hương đã chọn cách cuối cùng, cách khó nhất và ông đã thành công.
Khách đến với Thu Hương là ai? Nhiều lắm, có thể họ từ bên trường Luật qua, từ dưới Văn Khoa, Dược, Nông Lâm Súc lên; từ Trung Tâm Văn Hóa Pháp, Hội Việt Mỹ lại; từ Huỳnh Thị Ngà, Nguyễn Công Trứ, Vương Gia Cần, Võ Trường Toản, Thư Viện Quốc Gia tới, quanh quanh khu Tân Định, Dakao cả mà. Cũng có người từ xa hẹn nhau đến nhưng dù từ đâu họ đều có điểm giống nhau là tất cả đều trẻ và đều có vẻ “chữ nghĩa”lắm, “ông” nào “bà”ø nào cũng tha tập cours quằn tay, cọng với nào là “Hố Thẳm Tư Tưởng” của Phạm Công Thiện; Cho Cây Rừng Còn Xanh La”ù của Nguyễn Ngọc Lan; Nói Với Tuổi 20 của Nhất Hạnh và vân vân...
Ở Thu Hương dĩ nhiên là có thể “uống ly chanh đường, uống môi em ngọt” hay nhiều thứ giải khát khác; tuy nhiên, phần lớn là nhâm nhi ly cà- phê. Thu Hương nổi tiếng như vậy; ông chủ điệu như vậy, dù rành hay không cũng phải ráng tỏ ra sành điệu với người ta chứ! Lại còn phải cố bậm môi kéo Basto xanh cho có vẻ phong trần. Cứ như thế mà trầm ngâm suy tư, rì rào tâm sự; đốt bao tử, đốt phổi và đốt thời gian. Nghĩ lại thật phí phạm và đáng tiếc nhưng hồi đó thì không thấy như thế. Phải như vậy chứ sao! Thời chiến mà, buổi nhiễu nhương mà!
Ngày đó tôi thường ngồi Thu Hương với VCT, một người bạn đang học năm cuối ở trường Y Khoa, anh là người rất mê giáo sư Trần Ngọc Ninh, coi ông là một nghệ sĩ tài hoa, một tay dao bậc thầy trong ngành giải phẩu và vẫn thường say sưa kể việc thầy Ninh có thể cầm lưỡi dao lam khẻ vào tập giấy quấn thuốc và cho biết trước là sẽ rạch đúng mấy tờ. Bạn tôi đúng là người trời sinh ra để làm thầy thuốc, anh muốn xoa dịu mọi khổ đau và không chịu được những điều tàn nhẫn, thô bạo. Hồi sinh viên LKSN té lầu chết ở trường Y Khoa, báo đăng nói là tai nạn nhưng không biết từ đâu bạn tôi khẳng định đây là một vụ ám sát, thanh toán lẫn nhau và anh đau đớn, tức giận lắm. Người với người, chả lẻ không còn cách nào để có thể đối với nhau phải chăng hơn hay sao? Câu hỏi này theo anh rất lâu; anh ra trường, làm y sĩ tiền tuyến, ở lại với thương bệnh binh ngày thành phố di tản và vào tù. Đến lúc này anh đã có câu trả lời cho điều ám ảnh nhiều năm trước: Không phải không có cách mà là dường như người ta không cần và cũng không muốn phải chăng với nhau. Đau thật, nỗi đau quặn thắt tim gan.
Bạn thường ăn phở gà Hiền Vương, phở Pasteur; bạn thường đi qua đi lại liếc liếc mấy bộ đồ cưới đẹp ở nhà may Thiết Lập, vậy bạn có biết cà-phê Hồng ở đâu không? Thì đó chứ đâu, gần nhà may Thiết Lập, cách vài căn về phía đường Nguyễn Đình Chiểu, ngó chéo qua mấy cây cổ thụ ở bờ rào Trung Tâm Thực Nghiệm Y Khoa (Viện Pasteur). Tôi phải hỏi vì tôi biết có thể bạn không để ý. Quán nhỏ xíu hà, với lại cái tên Hồng không biết do ai đặt, gọi riết thành quen chứ thực sự dường như quán không có bản hiệu, và tiền diện của nó trông ủ ê cũ kỹ lắm chứ không sơn phết hoa hòe, đèn treo hoa kết gì cả. Từ ngoài nhìn vào, quán như mọi ngôi nhà bình thường khác, với một cái cữa sổ lúc nào cũng đóng và một cánh cửa ra vào nhỏ, loại sắt cuộn kéo qua kéo lại. Quán hẹp và sâu, với một cái quầy cong cong, đánh verni màu vàng sậm, trên mặt có để một ngọn đèn ngủ chân thấp, với cái chụp to có vẽ hình hai thiếu nữ đội nón lá; một bình hoa tươi; một con thỏ nhồi bông và một cái cắm viết bằng thủy tinh màu tím than. Phía sau, lúc nào cũng thấp thoáng một mái tóc dài, đen tuyền, óng ả, vừa như lãng mạng phô bày vừa như thẹn thùng, che dấu.
Cà- Phê Hồng, về ngoại dáng, thực ra không có gì đáng nói ngoài cái vẻ xuề xòa, bình dị, tạo cảm giác ấm cúng, thân tình và gần gũi; tuy nhiên, nếu ngồi lâu ở đó bạn sẽ cảm được, sẽ nhận ra những nét rất riêng, rất đặc biệt khiến bạn sẽ ghiền đến và thích trở lại. Hồi đó nhạc Trịnh Công Sơn, đặc biệt là loại nhạc “mệt mỏi” cở “đại bác đêm đêm...” hay “đàn bò vào thành phố...” đã trở thành một cái “mốt”, một cơn dịch truyền lan khắp nơi, đậu lại trên môi mọi người, đọng lại trong lòng mỗi người. Cà- phê Hồng đã tận dụng tối đa, nói rõ ra là chỉ hát loại nhạc này và những người khách đến quán - những thanh niên xốc xếch một chút, “bụi” một chút - đã vừa uống cà phê vừa uống cái rã rời trong giọng hát của Khánh Ly.
Đến Hồng không chỉ có nghe nhạc về quê hương, chiến tranh và thân phận; ở đây còn có thể đọc về những điều đó. Không hiểu do sáng kiến của các cô chủ, muốn tạo cho quán một không khí văn nghệ, một bộ mặt trí thức hay do tình thân và sự quen biết với các tác giả mà ở Cà-phê Hồng lâu lâu lại có giới thiệu và bày bán các sách mới xuất bản, phần lớn là của hai nhà Trình Bày và Thái Độ và của các tác giả được coi là dấn thân, tiến bộ.
Hồi Nguyễn Đăng Trừng chuẩn bị ứng cử vào Tổng Hội Sinh Viên, ban tham mưu của anh ta thường gặp nhau ở cà-phê Hồng và khi Trừng thành chủ tịch, Đặng Tấn Tới phụ trách tờ Nội San Sinh Viên, mặc dù lúc đó đã có trụ sở ở số 4 Duy Tân, rất nhiều anh em cũng vẫn thường kéo nhau đến cà-phê Hồng. Những ai hồi đó nhỉ? Đông lắm và vui lắm; vui và có ý nghĩa vì dường như tất cả đều muốn làm một điều gì. Tôi nói dường như bỡi vì, nhiều năm sau thực tế đã chứng minh là không phải chỉ có những người đến với phong trào sinh viên vì nhiệt huyết và lý tưởng, muốn một miền Nam tốt hơn, muốn bảo vệ hữu hiệu và xây dựng đất nước hoàn hảo hơn mà còn một số khác, dù không nhiều, đến với chủ tâm lợi dụng, coi phong trào như một cơ hội để phục vụ cho những ý đồ đen tối mà họ đang theo đuổi.
Say này, khi đã đắc thời, người côïng sản vẫn thường hảnh diện nhắc đến phong trào sinh viên, coi đó như là sản phẩm của họ. Ai cũng biết là không phải như vậy. Thật tội nghiệp cho những người cứ phải giả vờ như không biết; cứ phải ra rả như cái máy lặp đi lặp lại những điều mà chính họ cũng biết là không có thật.
Tôi đã đi quá xa rồi phải không? Xin lỗi, cho tôi được mượn cơ hội này để nói về tuổi trẻ của chúng ta một chút, tôi đang trở lại với cà-phê Hồng đây. Hồng là ai? Tôi không biết, quán có ba cô chủ, ba chị em; người lớn nhất trên hai mươi và người nhỏ nhất mười lăm, mười sáu gì đó, Nói thật lòng, cả ba cô đều chung chung, không khuynh quốc khuynh thành gì nhưng tất cả cùng có những đặc điểm rất dễ làm xốn xan lòng người: Cả ba đều có mái tóc rất dài, bàn tay rất đẹp và đều ít nói, ít cười; cái kiểu ít nói ít cười làm chết người ta. Còn cái dáng đi nữa, bạn còn nhớ không? Làm ơn nhắc giùm để tôi tả cho chính xác đi, khó quá. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có những lời hát khó giải thích nhưng dễ cảm nhận như “vết lăn, vết lăn trầm” hay “vết chim di” gì đó có lẽ có thể mượn để hình dung ra dáng đi của mấy cô chủ cà-phê Hồng; nó nhẹ lắm, êm ái thước tha lắm và cũng lặng lờ khép kín lắm. Chính cái vẻ lặng lờ vừa như nhu lệ thẹn thùng, vừa như kênh kiệu kêu sa, vừa lãng đãng liêu trai đó đã làm khổ nhiều trái tim trai trẻ lắm, rất nhiều.
Giữa những năm 80, sau nhiều năm bầm dập ở nhiều trại giam khác nhau, tôi về lại Sài Gòn và có nhiều lần đi qua đi lại ở đường Pasteur. Cà-phê Hồng không còn, dãy phố nhỏ buồn thiu, im lìm và trống vắng như nét ảm đạm chung của toàn thành phố một thời rộn rã của chúng ta. Đối diện nơi quán cũ, gần cuối bờ thành viện Pasteur là một bãi rác khổng lồ, ruồi nhặn đen gật và mùi hôi thối nồng nặc, trùm tỏa; ở đó, hàng trăm ông lão bà cụ; hàng trăm trẻ em trai gái tranh nhau giành giật, đào móc từng chút sắt vụn, từng mảnh nhỏ nylon. Tôi đã thường đứng lại rất lâu, nhìn cảnh não lòng này và tự hỏi: Những người đã có thời ngồi đây mơ ước và hy vọng giờ đâu cả rồi? Anh em ta có bao giờ tự thấy là dường như mình đã đắc tội, đã phụ lòng, đã không làm hết, đã không cố gắng đủ để bảo vệ cho những gì cần bảo vệ, giữ gìn hay không? Và những người bên kia, có bao giờ nghĩ lại và tự hỏi họ đã nổ lực để đạt đến điều gì? có xứng đáng cà cần thiết không? Còn chị em cô Hồng: những nhỏ nhẹ tiểu thư, những thon thả tay ngà, những uyển chuyển “chim di” giờ mờ mịt phương nào? Ai có thể trả lời được về số phận của những con người nhỏ nhoi trong nổi tan tác chung của cả một dân tộc!
Viện Đại Học Vạn Hạnh mở cữa muộn màng nhưng ngay từ những năm đầu tiên nó đã thừa hưởng được những thuận lợi to lớn về tâm lý: Hào quang của phong trào Phật giáo đấu tranh từ nhiều năm dồn lại, cùng với những tên tuổi chính trị Trí Quang, Thiện Minh, Huyền Quang, Hộ Giác...,những cổ thụ văn hóa Minh Châu, Mãn Giác, Tuệ Sĩ, Trí Siêu, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Tôn Thất Thiện...đã giúp cho Đại Học Vạn Hạnh được nhìn vừa như một cơ sở giáo dục khả tín vừa như một tập hợp của những thành phần trẻ tuổi ý thức và dấn thân nhất.
Ở Sài Gòn, ngoài viện Đại Học Vạn Hạnh và các trường Bồ Đề, Tổng vụ Giáo Dục và Thanh Niên thuộc Giáo Hội Phật Giáo còn nhiều cơ sở trực thuộc khác như cư xá Quảng Đức ở đường Công Lý, trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội ở chùa Ấn Quang..., nói chung là dân Vạn Hạnh có nhiều chỗ để lui tới, để “dụng võ” lắm; tuy nhiên, dường như “tổng đàn” của Vạn Hạnh không nằm ở những nơi chốn “thâm nghiêm” này, nó đặt tại một tiện cà-phê: Quán Nắng Mới ở dốc cầu, ngó chéo về phía chợ Trương Minh Giảng.
Quán Nắng Mới có nhiều ưu thế để trở thành đất nhà của dân Vạn Hạnh, trước nhất vì gần gũi, kế đến là khung cảnh đẹp, nhạc chọn lọc và cuối cùng, có lẽ quan trọng nhất là sự thấp thoáng của những bóng hồng, có vẻ tha thước, có vẻ chữ nghĩa. Chừng đó là quá đủ, quá đạt để phe ta tụ lại: Các anh chị em thuộc khối Văn Thể Mỹ của thầy Phạm Thế Mỹ tấp vào nói chuyện văn nghệ; nhóm làm thơ trẻ Nguyễn Lương Vỵ, Võ Chân Cửu -lúc đó đang lên và đang chiếm đều đặng nhiều cột thơ trên báo Khởi Hành - ngồi đồng từ sáng đến tối để...làm thơ; những “chuyên viên xuống đường trong sáng” chụm đầu lại để bàn kế hoạch; những “chuyên viên lợi dụng xuống đường” cũng chụm đầu lại để bàn quỷ kế và đông hơn cả, ấm áp hơn cả là những nhóm hai người, một tóc dài, một tóc ngắn chờ vào lớp, chờ tan trường và chờ nhau ở Nắng Mới.
Đại học Vạn Hạnh có một phân khoa mà bên Văn khoa không có: Phân khoa báo chí. Vạn hạnh còn có một lợi thế như là một sự ưu đãi đặc biệt vì nhu cầu giáo dục là phân khoa sư phạm thi tuyển và được tăng một tuổi theo luật động viên. Vì lẽ đó anh em đến với Vạn Hạnh đông lắm; không khí ở Vạn Hạnh hào hứng và sôi nổi lắm. Mỗi lần có đợt tranh đấu, xuống đường, ngày Vạn Hạnh chạo rạo, đêm Quảng Đức không ngủ, sáng Nắng Mới không có chỗ ngồi. Vạn Hạnh như một lò lửa, một điểm nóng, một trung tâm. Tiếc thay đàng sau những nhiệt tình trong sáng; những lý tưởng vô cầu là những bóng đen rình rập, những nanh vuốt hờm sẵn.
Hình như Nắng Mới đã sống với Vạn Hạnh, sống theo Vạn Hạnh cho đến ngày cuối cùng. Nó chứng kiến cảnh Nguyễn Tổng cởi áo thầy tu, đi tiếp thu một trường Trung học; Nguyễn Lương Vỵ bỏ bộ mặt hiền thi sĩ đóng vai mặt lạnh ở phòng giáo dục Phú Nhận; Vỏ Như Lanh xông xáo từ Thành Đoàn qua báo Tuổi Trẻ; Trần Bá Phương làm chúa một trại giam, gọi đẹp đẽ là hiệu trưởng trường giáo dục lao động và còn nhiều lắm, kẻ thù mai phục và bạn bè bạc bẽo trở cờ; tất cả thành một bầy kên kên nhởn nhơ trên nỗi khổ của anh em, nỗi đau của cả dân tộc.
Ngày tôi về lại Sài Gòn sau nhiều năm phải xa, cà-phê Nắng Mới không còn; Đại học Vạn Hạnh biến thành một cư xá sinh viên, áo thun quần lót treo la liệt từ trên xuống dưới, quang cảnh vừa đìu hiu vừa bát nháo nhìn thấy mà đứt ruột. Nghe nói núi sách của thư viên bị lấy hết, đốt sạch. Thầy Minh Châu dời lên một Phật học viên nhỏ trên đường Võ Di Nguy gần Trung Tâm Tiếp Huyết; thầy Quảng Độ bị quảng thúc đâu đó tuốt ngoài Bắc; thi sĩ, thầy Bùi Giáng lang thang ngạo đời ở đầu phố cuối chợ; không lâu sau đó Đại Đức Tuệ Sĩ, Trí Siêu lần lược bị bắt. Vạn Hạnh không còn gì, thật sự không còn gì. Những con người cũ tứ tán muôn phương. Cái nơi chốn đầy sức sống và niềm tin ngày nào giờ tiêu điều buồn bã như giòng kinh nước đen uể oải dưới chân cầu Trương Minh Giảng.
Mấy năm trước đây tôi có được đọc một bài báo, nội dung của nó cũng thường thường không có gì đặc biệt lắm; tuy nhiên bài báo có nhắc đến một chi tiếc làm tôi ngẩn ngơ nhiều ngày. Tác giả đã nói về một quán cà-phê thân quen: Quán chị Chi ở Dakao. Thật ra đây không phải là quán cà-phê mà là quán trà; mà thật ra có lẽ cũng không thể gọi là quán trà mà chỉ có thể nói là chỗ uống trà ở nhà chị Chi mới hoàn toàn đúng. Bạn hãy tưởng tượng giùm tôi cái khu gia cư xưa cũ, rất yên tĩnh và rất dễ thương, nằm phía sau rạp hát Văn Hoa Dakao, ở đó có những con đường rất nhỏ, những ngôi nhà mái ngói phủ đầy rêu xanh, những hàng bông giấy che kín vỉa hè; ở đó không có cái ồn ào náo nhiệt như ngoài Trần Quang Khải, khúc đổ về Tân Định, cũng không có cái tập nập mắc cưởi của đoạn Lê Văn Duyệt hướng về Lăng Ông; nó trầm lắng cô liêu và im ả tách biệt lắm. Nhà nào cũng nhỏ, cất cao hơn mặt đường mấy bực tam cấp xi măng, mở cữa ra là có thể nghe người bên trái nói, thấy người bên phải cười và có cảm tưởng như có thể đưa tay ra bắt được với người đối diện bên kia đường. Quán chị Chi ở một trong những ngôi nhà này. Làm sao để nhận ra? Không biết, tôi đã nói là không phải quán xá gì cả mà, chỉ là tới nhà bà chị uống trà chơi vậy thôi và đã là nhà bà chị thì phải tự biết chớ, cần gì hỏi. Phòng khách- được gọi là quán- chị Chi nhỏ lắm, chắc độ chín mười thước vuông gì đó, chỉ đủ chỗ để đặc ba bốn chiếc bàn nhỏ. Nhà không có nhạc, không trưng bày trang trí gì cả ngoại trừ một bức tranh độc nhất treo trên vách, bức tranh đen trắng, cỡ khổ tạp chí, có lẽ được cắt ra từ một tờ báo Pháp. Tranh chụp để thấy một bàn tay giắt một em bé trai kháu khỉnh, vai đeo cặp sách, miệng phụng phịu làm nũng, hai mắt mở to nhưng nước mắt đang chảy dài theo má, phía dưới có hàng chữ nhỏ: “Hôm qua con đã đi học rồi mà”. Giang sơn của chị Chi chỉ có vậy và chị mở “tiệm”. Khách đến với chị Chi không phải coi bản hiệu mà vào, cũng không phải nghe quảng cáo trên đài địa phương hay đọc giới thiệu trên báo chợ báo bán gì cả, mà hoàn toàn do thân hữu chuyền miệng cho nhau để đến, nhiều lần thành quen, từ quen hóa thân và quyến luyến trở lại. Chị Chi có bán cà-phê nhưng tuyệt chiêu của chị là trà; loại trà mạn sen, nước xanh, vị chác nhưng có hậu ngọt và mùi thơm nức mũi. Trà được pha chế công phu trong những chiếc ấm gan gà nhỏ nhắn, xinh xinh. Ấm màu vàng đất, thân tròn đều, láng mịn, vòi và quai mảnh mai, cân đối. Mỗi bộ ấm có kèm theo những chiếc tách cùng màu, to bằng ngón tay cái của một người mập, vừa đủ cho vài hốp nước nhỏ. Ấm có ba loại, được gọi tên ra vẻ “trà đạo” lắm: độc ẩm, song ẩm và quần ẩm nhưng hồi đó chúng tôi thường “diễn nôm” theo kiểu “tiếng Việt trong sáng” thành ấm chiếc , ấm đôi và ấm bư. Trà được uống kèm với bánh đậu xanh - loại bánh đặc biệt của chị Chi- nhỏ, màu vàng óng và mùi thơm vô cùng. Nhắp một ngụm trà, khẽ một tí bánh, cà kê đủ chuyện trên trời dưới đất trông cũng có vẻ phong lưu nhàn tản và thanh cao thoát tục lắm.
Đến với chị Chi có cái thú vị là được hưởng một không khí thân mật, thoải mái như đang ngồi trong nhà của mình; điều thích nữa là không bao giờ phải bận tâm đến chuyện tiền bạc gì cả; muốn đến lúc nào cứ việc đến, không có tiền thì chỉ cần ngồi cười cười, chị Chi sẽ nói giùm cho bạn điều bạn khó nói: “cuối tháng chưa lãnh măng đa phải không? Uống gì nói chị lấy”. Chưa hết đâu, khi đã thân, đã thành “bạn của chị Chi”, hai lần mỗi năm vào khoảng trước Giáng Sinh và hăm ba ông táo về trời bạn sẽ được chị Chi kêu “đến chị chơi”. Đến chị chơi có nghĩa là đến uống trà mà không phải trả tiền và nếu gặp lúc chị Chi vui và khoẻ, “chơi” còn có nghĩa là có bánh bèo tôm chấy hay bánh hỏi thịt nướng kèm thêm nữa.
Khách của chị Chi không đông, giá nước ở chị Chi không đắc vì vậy chắc chắn chị Chi không sống bằng “cữa tiệm”, chị bán cho vui, bán mà như kêu anh em góp chút tiền cho chị để chị nấu giùm chút nước uống cho vui. Mà quả tình ở chỗ chị Chi vui thật, vui vì những đậm đà tình nghĩa.
Hồi đó chị Chi đã khá lớn tuổi, bây giờ sợ chị đã lìa xa chúng ta hoặc nếu không thì cũng không còn đủ sức để nấu nước giùm cho ai được nữa. Quán chị Chi chắc không còn nhưng dù sao cũng xin cảm ơn chị và xin đại diện cho những anh chị em đã từng ngồi quán chị Chi bày tỏ lòng tiếc nhớ đến chị và đến những ngày khó quên cu õ- Tôi nghĩ anh chị em cũng không hẹp lòng gì mà không cho tôi nói lời đại diện này - Cuộc đời chúng ta đẹp vì những niềm vui nho nhỏ không tên; Sài Gòn của chúng ta đáng nhớ vì những dễ thương nho nhỏ không tên. Chị Chi, chị đã cho chúng tôi những niềm vui ấy; chị đã góp cho Sài Gòn một phần của cái dễ thương ấy. Cảm ơn chị.
Những năm cuối thập niên 60 Sài Gòn có mở thêm nhiều quán cà-phê mới, những quán sau này thường được trang hoàng công phu hơn, có hệ thống âm thanh tối tân hơn và nhất là quán nào cũng chọn một cái tên rất đẹp, phần lớn là dựa theo tên những bản nhạc nổi tiếng: Café Hạ Trắng, Lệ Đá, Diễm Xưa, Hương Xưa, Hoàng Thị, Biển Nhớ, Hoài Cảm, Da Vàng...Tuy nhiên, ở một con đường nhỏ - Hình như là Đào Duy Từ - gần sân vận động Cộng Hoà có một quán cà-phê không theo khuôn mẫu này, nó mang một cái tên rất lạ: Quán Đa La. Đa La là Đà Lạt, quán của chị em cô sinh viên Chính Trị Kinh Doanh, có lẽ vừa từ giả thác Cam Ly, hồ Than Thở để về Sài Gòn học năm cuối tại nhà sách Xuân Thu hay sao đó, mở ra. Trường kinh doanh quả là khéo đào tạo ra những môn sinh giỏi kinh doanh: Tin mấy cô sinh viên mở quán thật tình là không được chính thức loan báo ở đâu cả; tuy nhiên, cứ úp úp mở mở như vậy mà tốt, nó được phóng lớn, lang xa, tạo ấn tượng mạnh và quán được chờ đón với những trân trọng đặc biệt, những náo nức đặc biệt. Những cô chủ chắc có máu văn nghệ, đã cố gắng mang cái hơi hướng của núi rừng Đà Lạt về Sài Gòn: Những giò lan, nhưng giỏ gùi sơn nữ, những cung tên chiến sĩ đã tạo cho quán một dáng vẻ ngồ ngộ, dễ thương; rồi những đôn ghế, những thớt bàn được cưa từ những bi cây cổ thụ u nần, mang vẻ rừng núi, cổ sơ đã giúp cho Đa La mang sắc thái rất ...Đa La.
Ngày khai trương, Đa La đã mời được Linh Mục Viện Trưởng Viện Đại Học Đà Lạt đến dự và đã chuẩn bị một chương trình văn nghệ hết sức rôm rả với những bản nhạc “nhức nhối” của Lê Uyên Phương, Nguyễn Trung Cang, Lê Hữu Hà... Chừng đó là đủ chết người ta rồi, dân Đại Học Xá kéo qua, dưới Sư Phạm, Khoa Học lên; Y Khoa; Phú Thọ xuống; cả Petrus Ký, Chu Văn An nữa là đủ bộ, quanh quanh khu Ngả Sáu chấm Đa La và dồn tới. Những ngày đó Đa La đông vui lắm, nó trở thành một chốn tụ tập hết sức văn nghệ; nó đã chứng kiến sự nở hoa của nhiều mối tình và cũng chia xẻ sự héo tàn của nhiều mối tình khác, nó có thể tiếp tục buồn vui với những người bạn trẻ như thế nếu như đất nước không có những đột biến to tát: Biến cố Tết Mậu Thân với cảnh nhà cháy người chết ngay tại thủ đô Sài Gòn; rồi tổng công kích đợt hai; rồi tổng động viên lần thứ nhất năm 1968; quân sự học đường; tổng động viên lần thứ hai 1972; tất cả những điều đó đã làm thay đổi rất nhiều nhịp sống chung và tát động sâu xa đến suy nghĩ và hành động của từng con người. Đa La vắng dần những người khách cũ, lưa thưa có thêm những người mới với dáng vẻ ủ dột trầm ngâm hơn, lác đác những bộ đồ vàng quân sự học đường, những bộ đồ phép Thủ Đức, những bộ đồ lính thứ thiệt của nhiều quân binh chủng vội đến, vội đi. Đa La lần lược nhận được tin tức về nhiều người bạn cũ không bao giờ còn trở về; Đa La tiếp tục có thêm nhiều buổi cà-phê cuối cùng để tiễn những người đến lược ra đi. Đa La không vui và những người bạn của Đa La cũng không vui bỡi vì cả đất nước không vui, cả dân tộc đang muộn phiền.
Đa La còn đến lúc nào? Đóng cữa bao giờ tôi không biết, có điều là đã có thời Đa La giống như một tri kỷ của nhiều người, nó cũng buồn, cũng vui, cũng hy vọng, cũng rã rời, cũng phấn chấn, cũng mệt mỏi, cũng khóc, cũng cười, cũng muốn ngoan ngoản xây dựng, cũng thích tung trời phá phách, cũng tỉnh, cũng điên, nói chung là nó chung chịu với bạn bè những tháng ngày nhiều chuyện, dễ thương lắm và đáng nhớ lắm, một chút Sài Gòn.
Hồi đã vào Thủ Đức tôi còn rất nhiều dịp để ngồi cà-phê Hân, đường Đinh Tiên Hoàng. Thật ra phải nói tôi bị bắt buộc phải ngồi ở đó vì thời gian trong quân trường tôi thuộc loại con bà phước; gia đình ở xa, người yêu thì mặc dù đã quen từ thời còn ở tỉnh nhỏ quê nghèo những cũng vẫn chưa qua được giai đoạn “mặt ngoài còn e”, cuối cùng tôi chỉ còn bạn bè. Hồi đó mỗi lần đi phép, xe quân trường sẽ thả xuống và đón về ở khu Mạc Đỉnh Chi, gần Hội Việt Mỹ; tuy nhiên dạo đó tình hình sôi động lắm, quân trường lúc cắm trại, lúc xả phép, không chắc lúc nào có thể về được vì vậy tôi chỉ có thể nhắn chung chung là “đón tao ở Hân”, phòng hờ có trục trặc gì thì bạn bè kể như đi uống cà-phê chơi với nhau, đỡ sốt ruột. Tôi thật sự vui mừng và cảm động, chưa bao giờ tôi đến Hân mà không có người chờ, cũng chưa bao giờ tôi chờ ở Hân mà không có người đến. Bạn bè! Biết nói sao cho đủ cái nghĩa đặc biệt của hai chữ ấy.
Hân là quán cà-phê thuộc loại sang trọng, khách phần lớn ở lớp trung niên và đa số thuộc thành phần trung lưu, trí thức. Bàn ghế ở đây đều cao, tạo cho khách một tư thế ngồi ngay ngắn, nghiêm chỉnh và bàn nào cũng có đặt sẵn những tạp chí Pháp ngữ số phát hành mới nhất. Câu chuyện ở Hân chắc là quan trọng lắm, lớn lắm; nhìn cái cách người ta ăn mặc; trông cái vẻ người ta thể hiện là biết ngay chứ gì; có lẽ cả thời sự chính trị, kinh tế tài chánh, văn chương, triết học đều có cả ở đây. Một chỗ như vậy tốt lắm, đáng trân trọng lắm chứ; tuy nhiên, dường như có một chút gì rất xa, rất lạ với một người lính. Thật tình tôi chỉ là một người lính bất đắc dĩ, lệnh tổng động viên giới hạn tuổi ở đại học, ông tướng Đạm không ký giấy hoãn dịch nữa thì trình diện; tôi rời Sài Gòn cũng chưa được bao lâu, ở Thủ Đức thì cũng chỉ mới là lính tập sự, lính sữa; đã có tối nào nhìn toán tiền đồn lầm lũi đi vào đất địch để phục kích, để lấy tin đâu mà hiểu được nỗi cô đơn; đã có đêm nào trùm poncho ghìm súng ngồi dưới mưa giữa vòng vây quân địch đâu mà biết được cái cảm giác trống vắng, khiếp hải; đã bao giờ ôm thân thể thủng nát của một đồng đội rạp người dưới làn đạn thù, nhìn máu chảy cho đến hết đâu mà hiểu được nỗi bi uất, tuyệt vọng; vậy mà tôi đã tự nhân danh là một người lính để cảm thấy xa la,ï lạc lõng với Hân, với Sài Gon. Kỳ cục không? Cảm giác của tôi lúc ấy lạ lắm, khó nói lắm; nhưng tôi không có thì giờ để suy nghĩ, để phân tích điều gì, tôi đang đi phép mà, cho tôi nghỉ một chút, chơi một chút dù cả lúc chơi, lúc nghỉ tôi đều bị cái cảm giác lạ lạ, khó nói kia ám ảnh. Sau này, Nhà văn Thế Uyên có viết một quyển tạp bút tựa là “Muời ngày phép của một người lính” tôi đọc và thấy nhẹ nhàn thơ thới lắm; đại khái tác giả đã nhân danh một người lính mà đặc vấn đề với những con người, những cách sống, nói chung là với một hậu phương mà ông cho là bất xứng. Tôi nhẹ nhõm vì ông Thế Uyên đã nói giùm tôi cái mà tôi gọi là cảm giác khó nói ở trên.
(Đoạn sau đây lẽ ra không có trong bài viết này, nhưng tôi vừa nhắc đến nhà văn Thế Uyên với một cách nói được hiểu như là một sự mến mộ vì vậy nên tôi xin phép nói thêm vài đều trong cái ngoặc đóng này. Đúng, có một thời gian rất dài tôi mến mộ ông Thế Uyên. Tôi mê Thế Uyên từ truyện ngắn “ Những Kẻ Thuộc Bài”. Đại khái chuyện muốn nói là mỗi chúng ta đều học được từ sách vở, học đường, tôn giáo và nhiều nguồn giáo dục khác những điều tốt đẹp; thật đáng buồn, thực tế không giống như những gì ta được dạy. Trong cuộc đời có quá nhiều những kẻ không thuộc bài, có quá nhiều những ngụy quân tử, nói rất đúng bài vở nhưng chính họ lại làm khác và Thế Uyên nhân danh một người thuộc bài, phê phán về điều đó. Tôi đã từng có lúc bạo gan nghĩ là mình cũng thuộc loại thuộc bài nên hết sức thông cảm và chia xẻ nỗi buồi của Thế Uyên, ủng hộ Thế Uyên. Về sau Thế Uyên lập nhà xuất bản Thái Độ, lại đúng nữa, xã hội của chúng ta quả là có nhiều vấn đề cần tỏ thái độ và tôi lại tiếp tục ủng hộ Thế Uyên dù tôi chưa bao giờ gặp gỡ hay quen biết gì với ông. Tôi giữ một tình cảm rất đặc biệt về Thế Uyên cho đến năm 1979. Hồi đó các trại tù đã được thăm nuôi và tôi được bạn bè lén lút gởi cho tờ báo Đứng Dậy hay Đối Diện gì đó của nhóm Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan; trong tờ báo này có một bài viết của Thế Uyên, anh ta kể về một cái Tết ở trại giam Kàtum. Nhà văn lớn có khác, tả tết thì đúng là tết, có thịt cá bánh trái ê hề, có cà-phê thuốc lá vui vẻ, có giọng nói tiếng cười “ hồ hỡi phấn khởi”, có những khuôn mặt rạng rỡ tin yêu, có các cán bộ khoan hòa nhân ái như những nhà tu; đặc biệt là cảm tưởng sung sướng xúc động của tác giả khi được đứng nghiêm chào lá cờ máu trong ngày đầu năm. Tôi đọc bài báo mà buồn lắm, buồn ghê gớm lắm. Tôi biết là trong hàng ngũ những kẻ không thuộc bài đã có thêm một người và tôi tự buộc mình phải quên hai chữ Thế Uyên đi, thật đau lòng nhưng phải quên, nhất định).
Tôi xin trở lại với cà-phê Hân và xin làm ơn bỏ qua một bên cái cảm giác xa lạ của riêng tôi. Hân vốn tự nó là một nơi chốn hết sức đáng yêu và chắc chắn là một nơi chốn rất đáng nhớ của nhiều người. Về sau, ở đối diện với Hân người ta mở thêm quán cà-phê Duyên Anh ( Không biết nơi này có liên quan gì với nhà văn Duyên Anh hay chỉ là tên đặt bỡi một người chủ ái mộ nhà văn này). Hai tiệm cà-phê, một sang trọng chững chạc, một trẻ trung sinh động, cả hai đã trở thành một điểm hẹn, một đích tới mà khi nhắc đến chắc nhiều anh chị em ở trường Văn Khoa, trường Dược, trường Nông Lâm Súc ngay góc Thống Nhất - Cường Để và các anh em bên khu Đài Phát Thanh, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị hướng Phan Đình Phùng, Nguyễn Bỉnh Khiêm sẽ mỉm cuời và sẽ thấy rất gần gũi, rất thân thiết.
Tôi vừa mời các bạn đi thăm một vòng mấy quán cà-phê mà chắc nhiều anh em trong chúng ta từng quen biết, từng có những gắn bó thế này hay thế khác. Tôi xin ngừng ở đây nhưng anh em có thể tiếp tục đến những nơi chốn kỷ niệm khác của riêng mình. Tôi biết anh em đều là những người nặng tình cho nên tôi tin là mỗi hẻm nhỏ, mỗi góc phố, mỗi hàng cây, mỗi cổng trường đều thấp thoáng bóng hình của tuổi nhỏ, của quê xưa. Tôi xin nhắc là anh em nào muốn gặp các nhà văn nhà thơ, muốn nhìn họ ngậm ống vố, đeo kiến cận nói chuyện văn chương thì mời đến quán Cái Chùa, anh em nào muốn có không khí trẻ trung đầm ấm mời đến Hầm Gió; anh em nào muốn có chỗ riêngtư tâm sự thì cứ theo đường Nguyễn Văn Học chạy tuốt lên Gò Vấp, vào quán Hương Xưa, ở đó có vườn cây đẹp, các cô chủ đẹp và cái cách người ta đối với nhau cũng rất đẹp. Tất cả những gì tôi nhắc tới là một chút ngày cũ, một chút cảnh xưa, một phần hơi thở và nhịp sống của Sài Gòn trong trí nhớ. Xin tặng anh, tặng chị, tặng em, tặng tất cả những ai còn có lúc bỗng bàng hoàng nhận thấy, dường như một nửa trái tim mình còn đang bay lơ lửng ở đâu đó, nơi quê nhà.116