Trang

Aug 28, 2005

Quả bí, cái xanh



Có hai anh đi đường xa. Một anh trông thấy cái miếu liền nói khoác với bạn :
- Này tớ trông thấy một quả bí to bằng cái miếu này.
Anh kia lắc đầu :
- Thế đã thấm vào đâu ! Tớ còn trông thấy một cái xanh to bằng cái đình làng.
Anh kia ngạc nhiên hỏi :
- Thế cái xanh to như thế dùng để làm gì ?
- Cậu không biết à, để luộc quả bí của cậu đấy mà !318

Mượn chồng



Mượn chồng


      1. Tôi tỉnh rượu quãng hai giờ sáng và như mọi khi, nghiêng người sang ôm Ngọc. Tôi sống rất lệ thuộc vào thói quen, bình thường thiếu hơi vợ là giấc ngủ dễ mộng mị. Lơ mơ ngạc nhiên khi bàn tay chạm vào vồng ngực đầy, người nàng xao động. Thì ra nàng chưa ngủ. Tôi hôn vào cổ nàng, đúng hơn là hít mạnh mùi nàng như lời xin lỗi. Cũng là một động thái quen thuộc, với tôi, mùi thịt da nàng vô cùng thân thiết.

Khuôn ngực đầy phập phồng và mùi hương lạ. Tôi tỉnh hẳn…

* * *

      Miên và Ngọc gọi tôi là “bôn”. Cái tuổi thanh niên hăm hở sau ngày giải phóng của tôi được định hướng ngay từ cuốn sách “Thép đã tôi thế đấy”. Mấy tài vặt đàn hát, thi phú khiến tôi nổi trội trong công tác đoàn mà Ngọc là bí thư. Sôi nổi hoạt bát lại là con gia đình liệt sĩ. Ngọc làm cán bộ lớp, cán bộ đoàn từ thời phổ thông. Miên điềm đạm, sâu lắng. Ngọc tóc ngắn trẻ trung tinh nghịch. Miên tóc dài suông đến rối lòng. Hai người tìm thấy sự bổ sung cần thiết và thân nhau từ đầu cấp 3.

Cái hăm hở, hiếu thắng của tôi làm Miên ốm. “Thằng Luận vậy mà chơi với nó cũng hay” - Ngọc rủ. Sau này khi thân nhau tôi thường đứng về phía nàng công kích Ngọc. Giận. Rồi lại làm lành. Tôi ở ký túc xá, đêm đêm thả bộ ra nhà hai người. Chúng tôi từng thức suốt đêm xem quỳnh nở hoặc bàn về những cuốn sách, những bộ phim, bài hát… Quan hệ thân thiết của ba chúng tôi khiến bạn bè và thầy cô rất ngạc nhiên. Mọi người chờ đợi mối quan hệ ấy sẽ bị phá vỡ, một ngày nào đó.

Ông ngoại Miên là ông giáo từ thời Pháp, bà ngoại con dòng địa chủ. Các cậu và cha nàng là sĩ quan, quan chức chế độ Sài Gòn. Sau ngày giải phóng, nhờ vài học trò tập kết và bảo lãnh cho thầy cũ nên gia đình nàng cũng tạm yên. Cha và các cậu đi trại cải tạo. Đêm đêm quanh vườn có người rình nghe thử trong nhà có bàn bạc oán thán gì không?

Nàng chẳng một lời về thế sự. Thời phổ thông đã đành, giờ sắp làm cô giáo, tôi và Ngọc nhiều lần bảo Miên viết đơn xin vào đoàn, nàng chỉ nhẹ lắc đầu. Gặng thì bảo tự thấy chưa xứng đáng. Đây là điều duy nhất ở nàng khiến tôi phiền lòng. Chúng tôi được giáo dục rằng tình yêu phải bao hàm cả lý tưởng. Nhưng tôi và Miên có nhiều ý hợp tâm đầu hơn Ngọc, về các lãnh vực khác. Như mọi chàng trai, tôi yêu. Cả Miên và Ngọc, một nửa, mỗi người. Và đã không có sự phá vỡ nào xảy ra khi chúng tôi tạm biệt thầy cô, tạm biệt ngôi trường mẹ, vào đời.

Số phận đã định sẵn: tôi với Ngọc được phân dạy cùng trường. Hai năm sau, chúng tôi làm đám cưới. Miên đến trước một ngày. Nàng tham mưu cho tôi cái áo mặc, giúp Ngọc bổ sung những vật dụng cần thiết cho đời sống gia đình, chuẩn bị tiệc trà… nàng tìm cách khỏa lấp sự áy náy của tôi với Ngọc bằng niềm vui lộ rõ trên vẻ mặt “chúc mừng hạnh phúc hai người”.

Rồi chúng tôi có 2 cậu bé kháu khỉnh. Những lần đầu ấp tay gối, thỉnh thoảng vợ chồng tôi nhắc tới Miên, một chút xót xa, có lỗi vì nàng vẫn một mình. Vừa dạy tôi vừa viết báo để kiếm thêm tiền. Bài được in thường xuyên. Một lần họp cộng tác viên, tổng biên tập đề nghị tôi về hẳn báo. Mọi thủ tục chuyển, các anh lo chu toàn. Nhờ quan hệ rộng, năm sau tôi xin Ngọc về dạy ở thành phố. Ngọc về cùng thông tin Miên có quan hệ với một giáo viên đã có vợ. Cuộc tình đầy tai tiếng và nàng xin chuyển về quê. Ông bà ngoại đã qua đời. Sau khi cải tạo, các cậu vào miền Nam lập nghiệp, cha mẹ về tiếp quản ngôi nhà lá mái và khu vườn rợp mát bóng cây. Lâu lâu nàng vào thăm ngôi nhà nhỏ rộn rã tiếng cười. Ba chúng tôi lại có những đêm không ngủ như thời đi học. Tiễn nàng, cảm giác có lỗi lại trĩu nặng trong tôi và Ngọc. Năm tháng cứ trôi qua…

2. “Chồng là một khái niệm mơ hồ, chỉ có con cái và ngôi nhà là cần thiết”. Tuyết, cô bạn thời phổ thông, có chồng là giám đốc một doanh nghiệp lớn, mệt mỏi phán. Trong mắt Miên, Ngọc, cô bạn người Bắc này thời ấy như bà chị cả về chuyện nam nữ, yêu đương. Tuyết đẹp, tự tin, khôn ngoan… Cô thành đạt so với bạn bè.

Thảo làm ở bệnh viện mới có bầu 5 tháng. Sau khi đổ vỡ một cuộc tình, cô gần như vô cảm đến giờ và quyết định vào Sài Gòn “cấy” con.

Lý mới thành hôn với người đàn ông năm tám tuổi, giàu có. Góa vợ hơn 10 năm, con cái đã lớn, ông mua một ngôi nhà nhỏ ở thị trấn sống với cô.

Những người bạn cuối cùng đã có nơi chốn và sắp làm mẹ. Đành rằng mỗi người có cuộc sống riêng nhưng sự yên bề của bạn khiến cái phao bấu víu tuổi bốn mươi độc thân không còn nữa. Sự hụt hẫng và các quan niệm của bạn bè về gia đình khiến Miên choáng váng. Nàng biết đằng sau câu nói có vẻ bụi bặm kia, Tuyết đã không còn là người đàn bà tự tin nữa. Đứa con, người đàn ông… Người đàn ông nào cho nàng? Thà như Thảo. Một cô giáo vùng quê lâu nay được học trò, phụ huynh trọng vọng, giờ bỗng dưng ễnh bụng - mới nghĩ thôi nàng đã muốn chết đi cho rảnh chuyện!

Người nông thôn giàu tình cảm nhưng cũng vô tâm thành ác khẩu: “Ủa, cô giáo cũng chưa có chồng na!” hoặc “Cô kén quá khéo rồi khó đường sinh nở!”. Không chồng sống ở thế gian chẳng dễ. Nhưng chồng chứ có phải mớ rau, túm cá ngoài chợ?

Người đàn ông của mình là ai? Nhiều lần câu hỏi này trở đi trở lại trong Miên. Luận ư? Miên giận dữ gạt phăng người bạn trai này ra khỏi tâm trí với lý do rất cụ thể: Ngọc. Tuy nhiên, Luận, tận sâu thẳm trong hồn, nàng biết rằng vĩnh viễn có chỗ “người bạn trai” thân quý này. Ngay cả khi nàng đã có Sang…

Nhà tập thể giáo viên thời ấy tranh tre vách đất, ban đêm leo lét m14

Aug 25, 2005

Xin lỗi ông ...



Một người đàn ông trong khi tìm mọi cách đưa chiếc xe ra khỏi bãi đậu đã tông vào một chiếc ôtô mới cứng. Trước sự chứng kiến của nhiều người gần đó, anh ta vội nhảy ra khỏi xe, lấy giấy bút ghi vài dòng và để lại trên kính chắn gió của chiếc xe kia. Mẩu giấy ghi: "Xin chào. Tôi đã tông vào xe của ông và có một số người chứng kiến việc này. Vì thế, tôi phải giả đò viết cho ông để họ yên tâm rằng tôi đang viết tên, địa chỉ và số bằng lái xe của mình trong này...".
1825

Lỡ dịp may



Đang ngủ, bà vợ bỗng rú lên, tay quờ quạng khắp giường. Ông chồng thấy vậy, ôm chặt vợ và hỏi:

- Có chuyện gì vậy em?

- Trời ơi! Khiếp quá! Em mơ bị rơi xuống địa ngục, may được anh giữ chặt đúng lúc, nếu không thì...

Ông chồng thở dài, thầm nghĩ: "Mình thật ngốc! Có dịp may như thế mà để lỡ!".

1019

Aug 24, 2005

Chưa ở đâu quảng cáo



Khách hàng: Chiếc quần đùi của tôi cô may hỏng. Vậy cô làm sao có thể may được những bộ quần áo thời trang hiện đại được? Thợ may: Thưa bác, may quần đùi rất khó ạ! Bác không thấy sao, chưa có một nhà may nổi tiếng nào quảng cáo rằng họ có thể đảm bảo may được những chiếc quần đùi đẹp, hoàn hảo vừa lòng quý khách và trong chương trình dạy cắt may không có bài may quần đùi. Không tin bác nghe đài, đọc báo, xem ti vi thì rõ.
2274

đứng giữa trời không






ta cũng biết mê cung xa nửa bước
một tình trần sao thấm mấy lần sương
đành đoạn nào ta đứng chẳng yêu thương
thôi nhắm mắt một đường thơ chợt rẽ

ma đang xé những vải tơ để buộc
một hình nhân vào kén của hoa thư
khiêng lên đài đang khói lửa thanh hư
đang uống cạn mạch tư tình xám hối

gửi hồn trần vào cõi cuối thiên hà
bao tiếng nhạc linh hoa trong vạn sắc
bay ta bay trong ánh sáng gần xa
những tiếng trống đánh đau hơn nguồn sặc

nghẹn buồng tim những mạch máu không về
người ta yêu sao đứng cuối cơn mê
tay chới với bấu sâu vào hiện thực
chuông thêm sức sao chờn vờn chậm ghé

giáo tình hoan đâm thủng cánh gió về
vang chạm ngõ người cười theo huyễn thệ
máu trinh nguyên chút ố giữa thời gian
ghì chặt cái đau tình không o bế

lửa bừng lên soi từng nếp thịt da
thiêu thành tiếng bập bùng trong đêm nhiễm
làn tên độc vẫn vô tình xé gió
và chợt đâm ta hét tiếng nỗi niềm
962

Aug 22, 2005

Quốc tịch



Albert Einstein có lần nói với các nhà báo:

- Các ông đừng đặt vấn đề quốc tịch của tôi. Những năm còn lại của cuộc đời tôi, theo giấy tờ thì tôi là người Mỹ. Nhưng, sau khi tôi chết. Nếu như những lý thuyết của tôi đề ra là đúng thì người Đức sẽ nói tôi chính gốc là người Đức. Người Pháp sẽ nói tôi là công dân quốc tế. Nếu sau này có những chứng minh cho rằng lý thuyết của tôi đề ra còn có những thiếu sót, thì người Pháp sẽ nói tôi đã từng là người Đức và người Đức sẽ nói tôi là một tên Do Thái.2455

Aug 21, 2005

Chả có con nào nhỏ cả



Có anh nọ ra đồng kiếm đoợc mấy con cá rô đem về nướng nhắm rượu. Giữa lúc ấy, thằng con đói, khóc quấy mẹ. Nhìn thấy chồng nướng cá, mẹ nó dỗ:


- Úi chà! Con cá rô bố nướng vàng không? Con nín đi để rồi bố cho.


Thằng bé nín ngay. Nhưng chồng gắt:


- Vàng gì? Có phải nghệ đâu mà vàng! U mày đem nó ra ngoài kia!


Thằng bé lại khóc. Mẹ nó lại dỗ:


- Nín đi! Kia, trông con cá béo chưa kia! Nín đi rồi bố cho!


Thằng bé lại nín. Anh chồng nghĩ đến tiệc rượu của mình, cau mặt lại:


- Cá đây, chứ đâu phải thịt mỡ đâu mà béo với chả béo!


Thằng bé lại giẫy nẩy lên khóc. Mẹ nó dỗ mãi, không nín, đành chỉ vào gắp cá nói:


- Nín đi rồi bố xem con nào nhỏ, bố cho một con!


Nhưng anh chồng quát:


- Ba con bằng nhau, chả có con nào nhỏ cả!

2573

Chia Tay



Sân trường bỗng hóa sân ga
Tiếng ve thay tiếng còi xa vọng về
Nón nghiêng che mái tóc thề
Đọng bao ánh mắt vụng về làm sao
Xa xa nón vẫy tay chào
Gần nghe câu hẹn biết bao nhiêu tình
Ngày nào nhộn nhịp học sinh
Giờ đây đứng lặng một mình trường ơi !
Áo ai vương chút bụi đời
Chia tay đôi mắt nói lời bâng quơ
Tuổi hồng vội nhặt vần thơ
Tặng cho cô bé "dại khờ" ngày xưa
Ve sầu ơi, có thấy chưa
Đi nhanh kẻo có kẻ thừa vu vơ
Chiều về ra ngõ ngẩn ngơ
Nhặt bao lá rụng vào thơ của mình...
802

Chiếc Lá Cuối Cùng



     Trong một quận nhỏ phia đông Washington, các con đường chạy ngoằn nghoèo một cách điên dại, cắt quãng thành những dải nhỏ gọi là "vùng". Những "vùng" này lọt thỏm trong những góc và đường cong lạ kì. Một con đương cắt ngang với chính nó một, hai lần. Một hoạ sĩ đã có lần khám phá là con đường có thể có giá. Ví dụ như khi một nhân viên thu ngân cầm hoá đơn của mầu vẽ, giấy và vải, sau khi đi dọc theo đường này bỗng thấy mình đã đi vòng lại chỗ cũ mà không hề thu được một xu nào cả!

      Thế nên đám hoạ sĩ chẳng bao lâu đã kéo đến phường Greenwich, săn lùng phòng cho thuê có cửa sổ thông ra hướng bắc, góc mái kiểu thế kỷ 18, gác lửng kiểu Hà Lan, và giá thuê lại rẻ. Sau đấy họ mang vào vài lọ hợp kim thiếc, một hai cái chảo nấu ăn dã chiến, và thế là một "quần cư" thành hình.

      Hai cô Sue và Johnsy cùng thuê chung một căn phòng đơn giản ở tầng trên cùng của một toà nhà ba tầng lụp xụp. "Johnsy" thực ra là tên thân mật của California. Họ đã gặp nhau tại một hiệu ăn trên đường Số Tám, và khám phá ra là họ có những sở thích tương đồng về nghệ thuật, rau diếp xoắn trộn dấm, và thời trang với tay áo giám mục. Thế là họ cùng thuê chung một căn phòng.

      Đấy là vào Tháng 5 . Vào tháng 11, có một kẻ ngoại nhập mang theo giá lạnh nhưng vô hình, mà các bác sĩ gọi là Viêm Phổi, rình rập trong "quần cư", móng vuốt giá băng quệt vào đây đó. Tên giặc đã ngang nhiên hoành hành khu phía đông, hạ gục nhiều nạn nhân, nhưng hắn chỉ mới đặt chân chầm chậm qua các lối ngõ như bàn cờ của mấy "vùng" nhỏ hẹp phủ đầy rêu.

      Bạn sẽ không xem Thần Viêm Phổi như một quân tử già đầy hào hiệp. Người con gái nhỏ vốn đã mất máu vì những trận gió ở Califỏnia thì lẽ ra không đáng cho một kẻ bất tài già nua bận tâm đến. Nhưng hắn đã tấn công Johnsy. Thế là cô nằm bẹp, không mấy cử động, trên chiếc giường sắt, xuyên qua khung cửa sổ kiểu Hà Lan nhìn ra bức tường trơ trụi của căn nhà gạch kế bên.

      Một buổi sáng, vị bác sĩ đầy bận rộn mời Sue ra hành lang. Ông đang vẩy cái nhiệt kế thăm bệnh để mực thuỷ ngân trong đó hạ xuống.

      - Cơ may khởi bệnh của cô ấy áng chừng chỉ một phần mười. Và cơ may này là tuỳ vào việc cô ấy có ý chí muốn sống hay không. Với cách con bệnh chỉ ngóng chờ công ty mai táng đến thì sách thuốc nào cũng vô dụng. Cô bạn nhỏ của cô đã bị ám ảnh là cô ấy sẽ không qua khỏi. Cô ấy có ý định gì không?

      - Chị ấy... chị ấy muốn có ngày nào đó vẽ tranh phong cảnh vịnh Naples.

      - Vẽ tranh à? Thật là điên rồ! Cô ấy có bận tâm nặng nề về việc gì không, chẳng hạn về một người đàn ông nào đó?

      Cô Sue khịt mũi:

      - Một người đàn ông à? Một người đàn ông thì có thể... mà không, bác sĩ ạ, không có chuyện như thế.

      Vị bác sĩ nói:

      - Thế thì là do cô ấy quá yếu rồi. Tôi sẽ cố làm mọi cách mà khoa học cho phép. Nhưng mỗi khi con bệnh của tôi bắt đầu nhẩm tính số lượng xe trong chuyến đưa đám của họ thì xem như hiệu lực của thuốc men chỉ còn một nửa. Nếu cô có cách khiến cho cô ấy hỏi han cô về thời trang mua đông thì tôi có thể đoán chắc cơ may là một phần năm, thay vì là một phần mười.

      Sau khi vị bác sĩ đi khỏi, Sue đi vào phòng vẽ và khóc cho đến khi cái khăn giấy Nhật tơi tả thành bột giấy. Rồi cô đường bệ đi vào phòng của Johnsy với cái giá vẽ, miệng huýt sáo một điệu dân ca Mỹ rộn ràng.

      Johnsy vẫn nằm bẹp, xem chừng không động đậy chút nào dưới tấm vải giường, mặt hướng về cái cửa sổ. Sue ngưng huýt sáo, nghĩ là bạn mình đang ngủ. Cô sắp xếp giá vẽ và bắt đầu dùng viết và mực để vẽ hình minh hoạ cho một truyện để đăng trong một tạp chí. Trong khi các hoạ sĩ trẻ tuổi phải dọn đường cho Hội Hoạ bằng cách vẽ tranh cho truyện ấy để dọn đường cho Văn Chương. Khi Sue đang phác hoạ cái quần bảnh bao và gọng kinh một tròng của một anh hùng (một tay cao bồi bang Idaho), cô nghe một tiếng nho nhỏ, lặp lại vài lần.

      Cô đi vội đến bên mép giường. Johnsy đang mở mắt, nhìn ra cửa sổ, và đang đếm, đếm ngược: "mười hai", và ít lâu sau: "mười một", và sau đấy "mười", rồi "chín", rồi "tám" và "bảy" gần như liền nhau. Sue nhìn chăm chú bên ngoài cửa sổ. Có gì ở ngoài đấy đâu mà đếm? Chỉ có một khoảng sân trống buồn nản, và bức tường trơ trụi của một căn nhà gạch xa hơn chừng mười thước. Một dây thường xuân thật già cỗi, gốc vặn vẹo mục nát, leo đến giữa bức tường gạch. Ngọn gió thu lạnh đã làm rơi rụng đám lá, phơi bầy các nhánh gần như trơ trụi bám vào mấy mảng gạch vụn vỡ. Sue hỏi?

      - Cái gì vậy hở bồ?

      Johnsy nói, gần như thì thầm:

      - Sáu. Bây giờ rơi nhanh quá. Ba ngày trước còn gần cả trăm, đếm muốn nhức đầu. Nhưng giờ thì dễ rồi. Thêm chiếc nữa. Giờ chỉ còn lại năm.

      - Năm cái gì, noi cho Sue của bồ nghe nào!

      - Năm chiếc lá. Trên cây thường Xuân. Khi chiếc lá cuối cùng rụng thì mình cũng sẽ ra đi. Minh đã biết như thế ba ngày nay rồi. Bác sĩ không nói cho bạn biết à.

      Sue càu nhàu, với giọng khinh miệt cao quý.

      - Ô hay! Minh chưa bao giờ nghe có chuyện điên khùng như vậy. Mấy cái lá thường Xuân thì có liên hệ gì đến việc bồ khỏi bệnh đâu nào? Và bồ vẫn thích cái cây này, cô nàng hư đốn ơi! Đừng có ngốc nghếch. Sáng nay ông bác sĩ nới với mình là cơ may của bồ khỏi bệnh hẳn... xem ông ấy nói gì nào... ông ấy nói cơ may chính xácd là mười trong một! Đấy cũng bằng với cơ may chúng mình có ơ New York để đáp tầu điện hay đi qua một toà nhà mới. Bây giờ ăn một tí cháo, rồi mua ít tượu vang poóc- tô cho cô bé đang bệnh, và thịt lợn cho chính tác giả ăn. Johnsy vẫn dán mắt ra ngoài cửa sổ:

      - Không cần phải mua rượu vang. Thêm một chiếc nữa. Không, mình không muốn ăn cháo. Thế là còn có bốn. Mình muốn xem chiếc lá cuối cùng trước khi trời tối. Khi ấy mình cũng sẽ ra đi.

      Sue nghiêng mình trên cô:

      - Johnsy ơi, bồ có thể hứa nhắm mắt lại và không nhìn ra ngoài cửa sổ khi mình làm việc được không? Ngày mai mình phải đi giao mấy bức vẽ. Minh cần ánh sáng, nếu không mình phải kéo rèm xuống.

      Johnsy hỏi, giọng lạnh tanh:

      - Bạn có thể vẽ trong phòng kia được không?

      - Mình muốn ở kề bên bồ. Hơn nữa, mình không muốn bồ cứ nhìn mãi mấy chiếc lá thường Xuân vô duyên đó.

      - Cho mình biết khi nào bạn làm xong, vì mình muốn xem chiếc lá cuối cùng rụng xuống. Mình chán chờ đợi rồi.

      Mình chán suy nghĩ. Mình muốn buông xuôi tất cả, và thả người trôi xuống, xuống nữa, như là một trong mấy chiếc lá mệt mỏi kia.

      Johnsy nhắm mắt lại, mặt tái nhợt, năm yên như la một cái tượng bị sập đổ. - Ráng ngủ đi. Mình muốn kêu ông Behrman lên để ngồi mẫu cho mình vẽ một ông thợ mỏ già cô độc. Mình chỉ đi một phút. Đừng cựa quậy cho đến khi mình trở lại.

      Ông già Behrman là một hoạ sĩ sống ở tầng trệt bên dưới phòng của họ. Ông đã quá sáu mươi, và có một chòm râu rậm như ông Moses hiện thân trên bức điêu khắc của Michael Angelo. Behrman là cả một sự thất bại trong nghệ thuật. Trong bốn mươi năm ông vung vẩy chiếc cọ mà không hề chạm gần đến vạt áo của Người Tình. Ông luôn luôn muốn vẽ nên một kiệt tác, nhưng chưa bao giờ bắt đầu. Trong vài năm nay ông không vẽ được gì ngoại trừ thỉnh thoảng ít nét quấy quá cho giới thương mại và quảng cáo. Ông kiếm tiền chút đỉnh bằng việc ngồi làm mẫu cho các hoạ sĩ trẻ trong quần cư khi họ không muốn trả theo giá của người mẫu chuyên nghiệp. Ông uống rượu gin lu bù, và vẫn nói đến kiệt tác sắp đến của ông. Còn lại thì Behrnam là một ông già nhỏ thó nhưng dữ tợn, hay chửi như té tát người nào tỏ ra yếu đuối, và xem mình như là con chó giữ nhà để bảo vệ cho hai hoạ sĩ trẻ sống ở tấng trên.

      Sue tìm gặp behrman khi ông nồng nặc mùi rượu dâu trong căn phòng nhỏ tối tù mù. Trong một góc là cái giá vẽ với khung vải trống trơn, suốtt hai mươi lăm năm vẫn chờ đợi đường nét đầu tiên của một kiệt tác. Cô nói cho ông nghe về chuyện hão huyền của Johnsy, về việc cô nàng – quả thật nhẹ tênh và mỏng manh như một chiếc lá - sẽ trôi đi khi sự bám víu của cô vào trần thế vốn đã yếu sẽ yếu thêm.

      Ông già Behrman, với cặp mắt đỏ sòng sọc, lớn tiếng kinh thường và chế diễu cho những điều tưởng tượng ngốc nghếch:

      - Khốn khổ! ở đời sao lại có người ngu xuẩn muốn chết vì mấy cái lá rụng từ một dây leo vô duyên như vậy? Tao chưa bao giờ nghe có chuyện này. Không tao sẽ không ngòi làm mẫu cho một đứa ẩn cưa ngu ngốc như mày. Tại sao mày lại để ý tưởng khùng điên đấy đi vào đầu của nó? Ôi dào, cái con nhỏ Johnsy khốn khổ!

      - Chị ấy đang yếu lắm, và cơn sốt làm cho đầu óc chị ấy trở nên bệnh hoạn đầy những mơ tưởng kỳ quái. Được rồi, nếu ông không muốn ngồi làm mẫu cho tôi cũng được. Nhưng tôi nghĩ ông là một ông già xấu tính – già vô tích sự.

      Ông Behrman tru tréo lên:

      - Mày đúng là đàn bà! Ai bảo tao không muốn ngồi làm mẫu? Đi lên đi. Tao sẽ đến. Cả nửa giờ đồng hồ rồi tao đã nói là tao sẵn sàng ngồi. Trời ơi! Đây không phải là chỗ cô Johnsy có thể năm bẹp dưỡng bệnh được. Một ngày nào đấy tao sẽ vẽ nên một kiệt tác, và bọn mình sẽ rời đi nơi khác. Trời ơi! Đúng là phải như thế.

      Johnst đang ngủ khi họ lên. Sue buông cái rèm cửa xuống, ra dấu bảo Behrman đi vào phòng kia. Trong đấy, xuyên qua khung cửa sổ họ nhìn dây thường

      Xuân với nỗi lo sợ. Rồi họ nhìn nhau một lúc, không nói lời nào. Một cơn mưa giá lạnh đang ập xuống dai dẳng, pha cùng với tuyết. Trong chiếc áo xanh cũ kỹ, Behrman ngồi làm mẫu, giả làm một thợ mỏ ẩn cư, ngồi trên một cái ấm lật ngược giả làm một tảng đá.

      Khi Sue thức giấc vào buổi sáng sau giấc ngủ kéo dài một giờ, cô thấy Johnsy đang vô hòn nhìn cái rèm màu sậm đã buông xuống. Johnsy thì thào:

      - Kéo rèm lên. Mình muốn nhìn.

      Sue mệt mỏi làm theo bạn.

      - Nhưng xem kìa! Sau trận mưa vùi dập và những cơn gió xoáy dữ tợn suốt một đêm dài, vẫn còn một chiếc lá thường Xuân dựa trên bức tường gạch. Đấy là chiếc lá cuối cùng. Vẫn còn có mầu xanh thẫm gần cuống, nhưng với phần rìa te tua pha mầu vàng của sự tàn tạ, chiếc lá vẫn dũng cảm bám vào cái cành cao dăm bảy mét cách mặt đất.

      Johnsy nói: - Đấy là chiếc lá cuối cùng. Mình nghĩ chắc chắn nó đã rụng đêm qua. Mình nghe tiếng gió. Nó sẽ rụng hôm nay, và mình sẽ chết cùng lúc với nó.

      Sue nghiêng khuôn mặt tóp của cô kề cận cái gối:

      - Cưng ơi là cưng! Nếu cưng không nghĩ đến chính bản thân cưng thì nên nghĩ đến mình đây. Mình sẽ làm được gì chứ?

      Nhưng Johnsy không trả lời. Nỗi cô đơn cùng cực nhất trên thế gian là một linh hồn chuẩn bị tiếp tục cuộc hành trình bí ẩn, xa thẳm. Điều mộng tưởng dường như đã ảm ảnh cô mạnh mẽ hơn khi những dây nối buộc cô với tình bạn và với trần thế đã bị lơi lỏng.

      Ngày dần trôi, và dù qua khoảng không xám xịt, họ vẫn thấy chiếc lá đơn độc bảm vào cuống của nó, dựa vào bức tường. Và rồi, khi màn đêm buông xuống, gió bắc lại thổi, trong khi mưa vẫn đập vào các cửa sổ, chảy ồng ộc xuống theo rìa mái nhà kiểu Hà Lan.

      Khi đã có đủ ánh sáng buổi tinh sương, Johnsy, con người vô cảm, lại ra lệnh kéo cái rèm xuống. Chiếc lá thường Xuôn vẫn còn đấy.

      Johnsy nằm một hồi lâu nhìn nó. Và rồi cô gọi Sue, đang quậy nồi cháo ga trên cái bếp ga. Cô nói:

      - Minh là đứa hư, Sue à. Có cái gì đó đã khiến chiếc lá vẫn ở đấy để cho thấy mình quả là độc ác. Muốn chết là một cái tội. Bây giờ bồ có thể mang cho mình chút cháo, và ít sữa pha chút rượu vang póc- tô, và... không, mang trước cho mình cái gương soi cầm tay, rồi chèn ít cái gối quanh mình, rồi mình sẽ ngồi lên để xem bồ nấu nướng. Một giờ sau, cô nói:

      - Sue à, một ngày nào đấy mình sẽ vẽ cảnh vịnh Naples. Ông bác sĩ đến vào buổi xế chiều, và khi ông trở ra Sue có cớ để đi ra ngoài hành lanh. Ông nắm lấy bàn tay gầy, run rẩy của Sue đặt trong tay ông.

      - Cơ may ngang bằng. Với công chăm sóc tận tuỵ của cô, cô sẽ thắng. Và giờ tôi phải đến thăm một ca khác ở tầng dưới. Người bệnh là Behrman – tôi nghĩ chừng đâu là một hoạ sĩ. Cũng viêm phổi. Ông ta già cả, yếu đuối, cơn bệnh lại là cấp tính. Không có hi vọng gì, nhưng tôi sẽ đưa ông đến bệnh viện để được thoải mái hơn. Ngày kế, ông bác sĩ bảo Sue:

      - Cô ấy qua khỏi cơn nguy rồi. Cô đã thắng. Bây giờ chỉ cần dinh dưỡng và chăm sóc – chỉ có thế thôi. Buổi chiều ấy, khi Johsy đang đan một cái khăn quàng len mầu lam thật đậm và xem vẻ rất vô dụng, Sue đến bên giường cô, đặt cánh tay quanh cô và cũng quanh mấy cái gối.

      - Mình có chuyện này nói cho bồ biết, cái con chuột trắng ơi. Ông Behrman qua đời hôm nay ở bệnh viện vì chứng viêm phổi. Ông ấy nhuốm bệnh chỉ trong có hai ngày. Người gác dan tìm thấy ông sáng ngày đầu tiên trong căn phòng tầng dưới, thất thủ với cân đau đớn. Đôi giầy và quần áo ông ấy bị ướt cả, lạnh như nước đá. Họ không thể hiểu nổi ông đã đi đâu trong một đêm kinh hoàng như thế. Và rồi họ tìm thấy cái đèn bão, vẫn cháy, và một cái thang đã bị rời khỏi nơi cất giữ, vài cây cọ tơi tả, và nghiên mầu mới ít mầu xanh và vàng, bồ nhìn ra ngoài cửa sổ xem, nhìn chiếc lá thường Xuân cuối cùng trên bức tường đấy. Bồ có đặt nghi vấn tại sao nó không bao giờ bay lất phất khi có gió thổi không? Cưng ơi, đó là kiệt tác của ông Behrman đấy - ông đã vẽ nó đúng vào đêm chiếc lá cuối cùng rơi rụng.

607

Aug 20, 2005

Hồn Tôi Mây Hạ Tìm Nhau








Người đi
Theo dáng hạ buồn
Biển ru
Dạ khúc
Gọi cuồng chia xa

Chào nhau
Áo cũ hoàng hoa
Hồn ve
Xác phượng
sầu ca hải tần
Ngày về
Sông đã lạc thân
Tháng Hai năm nọ
Tần ngần mùa xưa
Theo nhau
Cánh bướm đường trưa
Tôi hồn lá cỏ
Còn khua dặm trường
Lạc nhau
Bến gió ngàn phương
Tôi theo mây hạ
Dặm đường rưng rưng

2728

Aug 19, 2005

Sợi Dây Chuyền Kim Cương -



Sợi Dây Chuyền Kim Cương -
Dịch Giả: Trần Viết Minh-Thanh





Chân Dung Guy de Maupassant (1850-1893)


Trần Viết Minh Thanh chuyển ngữ


Cô là một thiếu nữ xinh đẹp, dáng dấp đài các, cao sang, nhưng trớ trêu thay định mệnh lại chọn cho cô vào một gia đình công chức tầm thường. Không của hồi môn, thì làm sao có duyên cơ gặp gỡ đàn ông giàu có, danh giá, để được tìm hiểu, yêu đương rồi đi tới hôn nhân? Thế nên cô chấp nhận về làm vợ của một anh lục sự “thường thường bậc trung” tại bộ thông tin.
Tài chánh không cho phép cô ăn diện, và cô lấy làm phiền lòng vô cùng, như thể mình từ một địa vị cao rơi xuống. Dung nhan diễm lệ, dáng dấp kiêu sa, chẳng là những yếu tố khắc phục thứ bậc, tầng lớp mà số phận đã an bài? Tài năng thiên phú, bản năng nhận thức, một đầu óc thích nghi có phải là đẳng cấp duy nhất? Cũng đúng đấy thôi, nhiều người đàn bà dân giả được sánh ngang hàng với những mệnh phụ danh giá nhờ nhan sắc, trí thông minh và phương cách giao tiếp của họ.

Thế nên cô nàng Mathilde nhà ta luôn buồn đời. Đàn bà đẹp như cô sinh ra là để tận hưởng những cao sang, thanh lịch của cuộc đời. Cảnh nhà nghèo nàn làm cô tủi thân, tường trống không, bàn ghế xục xịch, màn cửa thô thiển. Những gì mà một người đàn bà cùng giai cấp như cô, chẳng mảy may bận lòng, là những mối ưu phiền cho cô . Hình ảnh người đàn bà nội trợ với công việc thường ngày làm cô chán nản, thất vọng, và Mathilde thay bằng những giấc mơ cao vời. Cô hình dung đến những căn phòng yên áng, tường phủ bằng thảm Ba Tư ấm cúng, cao sang, phản chiếu ánh sáng từ những cột trụ bằng đồng sáng loáng, lại có hai anh hầu quần ống chẽn ngủ gà ngủ gật trong ghế bành lớn vì hơi nóng của lò sưởi. Cô trông thấy những hành lang rộng thênh thang, trang hoàng bằng những giải lụa cổ, các kệ tủ xinh xắn tràn ngập vật dụng xinh đẹp, vô giá. Tiếp chuyện cùng các cô, các bà phải là những căn phòng khách thơm mùi nước hoa, và cũng là nơi mà những đàn ông danh giá, lịch thiệp lui tới, những đấng mày râu mà các cô, các bà nào cũng muốn gặp gỡ, và ao ước được họ lưu ý tới.


Tối tối, ngồi đối diện chồng tại bàn ăn, trải cùng tấm khăn từ ba ngày qua, cô dửng dưng nhìn anh, tay mở liểng, miệng thốt lên sung sướng: “À, món hầm tối nay coi ngon quá, anh nghĩ chẳng có điều gì hấp dẫn hơn.” Lúc ấy cô liên tưởng đến những bữa ăn thịnh soạn, với muỗng, nĩa bạc, tường phủ thảm thêu hình các nhân vật cổ xưa, hoặc những con chim kỳ thú trong ngôi rừng thần thoại, bàn ăn bày biện đủ các thức ngon vật lạ, dọn trên những bát dĩa tuyệt đẹp, thực khách chuyền tai nhau những lời hoa mỹ, và được đáp lại với nụ cười mỉm bí mật, tay gắp miếng cá tươi tắn, hồng hào, hay bỏ vào mồm cánh bồ câu dòn tan.

Áo dạ hội, nữ trang đắt tiền là những món mà cô yêu thích nhất, thế mà cô chẳng có lấy một thứ nào! Phụ nữ đẹp như mình sinh ra là để diện những thứ đó vào người cơ mà, cô nghĩ thế. Cô ước ao được người người chiều chuộng, ganh tị, được đàn ông tán tỉnh, khen thưởng. Cô có một chị bạn gái giàu có, quen thời cùng học nội trú, mà giờ cô chẳng còn muốn gặp nữa, vì mỗi bận ra về cô lại cảm thấy buồn. Có bận cô đã khóc mấy ngày liền vì chán nản, thất vọng.

Bỗng một chiều nọ, anh chồng về nhà, mặt mày rạng rỡ, tay cầm một phong bì lớn.
- Đây, em nè, anh có cái này cho em

Trong phong bì là một thiệp mời với những giòng chữ:
"Bộ Trưởng bộ Thông Tin và bà Georges Ramponneau hân hạnh đón tiếp ông và bà Loisel tại dinh bộ trưởng tối thứ hai ngày 18 tháng Giêng"

Lẽ ra phải vui mừng, như chồng mong mỏi, cô lại vứt tấm thiếp lên bàn và bảo:
- Anh muốn tôi làm gì với tấm thiếp này chứ?
- Cưng, anh lại tưởng em sẽ vui chứ! Em chẳng bao giờ đi ra ngoài, và đây là một cơ hội em ạ. Anh phải mất nhiều công lao mới được thiệp mời. Ai cũng muốn đi dự buổi tiệc này; họ chọn lựa kỹ lắm, không phải ai cũng có được đâu. Tất cả những ông bà lớn đều có mặt hôm ấy.

Cô nhìn anh với cái nhìn khó chịu, vội cướp lời:
- Vậy thì anh tính em sẽ bận cái gì chứ?

Anh không nghĩ đến điều này. Anh lắp bắp:
- Thì cái áo em hay bận đi coi kịch với anh đó. Áo ấy trông được lắm!

Anh ngưng ngang, chưng hửng, bối rối vì thấy cô vợ đang khóc. Hai giòng nước mắt lặng lẽ rơi từ khoé mắt xuống bờ môi xinh đẹp. Anh lúng túng:
- Gì thế, em sao thế ?

Cố gắng dằn niềm đau khổ, cô trả lời bằng một giọng bình tĩnh sau khi đưa tay lau hai gò má ướt:
- Chẳng có gì cả. Em chẳng có áo đẹp, vì thế em không thể đi dự buổi dạ tiệc được. Anh hãy đưa tấm thiệp mời này cho bạn đồng nghiệp nào ở bộ, mà cô vợ có đủ quần áo hơn em.

Lúng túng, anh vớt vát:
- Nào, nào, Mathilde. Xem nào, một cái áo đẹp, để đi dạ hội, mà em có thể xài vào những dịp khác, một cái áo thường thôi, tốn khoảng bao nhiêu tiền?

Nghĩ ngợi một đôi giây, trong đầu làm vội những con tính, một con số khã dĩ không bị từ chối ngay hay gặp phải phản ứng thảng thốt từ anh chàng lục sự cần kiệm này. Cuối cùng, cô trả lời, giọng ngập ngừng:
- Em cũng không biết rõ, nhưng em nghĩ một cái áo đẹp chắc khoảng bốn trăm francs.

Mặt anh hơi tái đi, vì anh đã để dành đúng khoảng tiền như thế để mua một khẩu súng săn, dự định cùng đám bạn đi bắn chim chiền chiện tại đồng bằng Nanterre trong vụ hè tới.
Thế nhưng anh nói:
- Cũng được. Anh sẽ cho em bốn trăm francs. Mà em ráng mua một cái áo đẹp nhen!

Ngày dạ tiệc đến gần kề mà mặt bà Loisel trông vẫn có nét buồn, lo lắng. Áo nàng thì đã may xong. Nhận thấy điều này, một tối anh hỏi:
- Có điều gì không? Ba ngày nay sao anh thấy em có vẽ lạ, không được vui?
Nàng trả lời chồng:
- Phiền một nỗi là em chẳng có một bộ nữ trang nào cả, chẳng có lấy một viên đá để mang lên người. Coi nghèo nàn làm sao! Chẳng thà đừng đi cho rồi!
- Em có thể cài hoa lên tóc, anh chồng đề nghị. Vào mùa này mà cài hoa thì sang lắm em ạ. Thêm mười francs thôi em có thể mua hai, ba hoa hồng thật đẹp!
Lời anh nói không thuyết phục được cô:
- Không, không được. Chẳng có điều gì nhục nhã bằng mình trông nghèo nàn bên cạnh những người đàn bà giàu sang.
- Ồ, sao em dốt thế! Anh chồng bỗng kêu lên: “Em có bà bạn giàu lắm mà, chị Forestier, sao em không mượn nữ trang của chị ấy. Hình như em thân với chị ấy lắm để có thể tới mượn nữ trang được!“
Cô reo lên, mừng rỡ:
- Đúng thế, sao em lại chẳng nghĩ ra.

Ngày hôm sau, cô tới gặp bạn, tâm sự với bạn vấn đề của mình. Bà Forestier tới tủ áo có kiếng, lấy ra một hộp nữ trang lớn, trao cho bà Loisel và nói:
- Chị cứ lựa bất cứ món gì chị thích.

Thoạt tiên cô thấy mấy vòng đeo tay, rồi sợi dây chuyền ngọc trai, tiếp đến dây thánh giá lớn cổ xưa, chạm trổ rất khéo léo với những viên ngọc quý. Cô thử lên thử tới trước gương, ngập ngừng, không thể rời chúng ra, mà cũng chẳng quyết định chọn món nào, và cái nào thì đưa trả lại cho bạn. Cô hỏi:
- Chị có món nào nữa không?
- Có chứ. Chị cứ chọn tiếp đi. Mình chẳng biết chị thích cái nào.

Bỗng cô nhìn thấy một hộp bọc xa-tanh đen, trông có một sợi dây chuyền nhận toàn kim cương tuyệt đẹp, tim cô thắt lại trong niềm ham muốn. Cô cầm sợi dây lên mà tay run run. Cô choàng nó vào cổ cao. Ngắm mình trong gương cô chìm trong nỗi sung sướng với hình ảnh tuyệt mỹ của chính mình.
Rồi cô hỏi, giọng hoài nghi:
- Chị có thể cho em mượn chuỗi kim cương này được không?
- Được chứ, chị cầm lấy đi!
Cô ôm chầm lấy bạn, hôn lên má bạn như lời cảm ơn chân tình nhất, rồi vội vàng ra về với kho tàng nhỏ trong tay.

Ngày dạ tiệc, bà Loisel thành công rực rỡ. Nàng đẹp hơn hết trong đám phụ nữ, nàng thật kiêu sa, vương giả, cười tươi tắn, dòn tan trong niềm sung sướng. Tất cả những người đàn ông có mặt chiêm ngưỡng nàng, hỏi tên nàng, tìm đến tự giới thiệu. Tất cả những nhân vật lớn trong bộ muốn cùng nàng khiêu vũ. Ngay cả ông bộ trưởng cũng chú ý đến nàng. Nàng khiêu vũ trong mê cuồng, ngất ngây vì vui sướng, đắm chìm trong niềm hãnh diện bởi nhan sắc của mình, nàng như lên chín tầng mây với những lời ngưỡng mộ. Những khát khao từ bấy lâu nay đã được vuốt ve! Thật là một chiến thắng toàn hảo, tuyệt vời, thoả mãn trái tim người đàn bà.

Cô ra về vào khoảng bốn giờ sáng. Chồng cô đã ngủ được một giấc vào lúc nửa đêm trong một căn phòng bỏ trống với ba người đàn ông khác mà các bà vợ cũng đang rất vui với buổi dạ tiệc. Anh khoác lên vai nàng tấm khăn choàng ngoài, tấm khăn tầm thường của một đời sống bình dị, sự nghèo nàn của nó thật trái biệt với cái áo dạ hội sang trọng, đắt tiền. Cô cảm nhận điều đó và muốn thoát khỏi nó, tránh những cặp mắt so sánh của những người đàn bà khác đang được khoác trên vai những tấm khăn choàng bằng da thú sang trọng.
Anh chồng giữ cô lại, bảo:
- Đợi tí đã nào. Coi chừng bị cảm vì ở ngoài lạnh lắm. Đợi anh gọi xe về.

Nhưng cô không nghe anh, vội vàng bước xuống cầu thang. Khi họ xuống tới đường cái, thì không còn chiếc xe nào cả. Họ lục loại, tìm kiếm, la lớn vào những chiếc chạy từ tuốt xa trong đêm vắng. Họ đi qua dòng sông Seine, người run lập cập vì lạnh. Cuối cùng trên bến họ tìm được một chiếc xe taxi cổ, cũ kỹ, chỉ thấy ở Paris lúc trời đã tối, như thể chúng cũng biết xấu hổ, không dám chạy vào ban ngày.

Chiếc xe chở họ tới tận cửa, đường Martyrs, và họ mệt nhọc leo vào nhà. Tàn một cuộc vui, cho nàng. Còn anh thì nghĩ, ngày mai lại phải vào bộ lúc Mười giờ.
Nàng dở áo choàng ra, nhìn vào gương để ngắm mình lần nữa trong huy hoàng. Bỗng nhiên cô thảng thốt buông ra một tiếng kêu. Cô không có chuỗi kim cương trên cổ!
Anh chồng, đã thay gần hết quần áo hỏi:
- Gì thế ?

Cô quay lại chồng, la thất thanh:
- Em ... em không có sợi dây chuyền của chị Forestier nữa!
Anh đứng bật dậy, sửng sốt:
- Làm thế nào, làm sao xảy ra được?
Cả hai lục loại trên các lớp áo của cô, áo khoác ngoài, áo dạ hội, các túi áo, họ tìm kiếm mọi nơi, nhưng vẫn không kiếm ra.
- Em có chắc là em còn đeo nó khi rời khỏi tiệc không? Anh chồng hỏi.
- Có, chắc mà, em có sờ vào nó lúc còn ở dinh ông bộ trưởng mà.
- Nếu em làm rơi nó trên đường, thì chúng mình đã nghe tiếng nó rơi trên hè rồi. Có lẽ nó rơi trong xe.
- Có lẽ thế, anh có lấy số xe không?
- Không, thế em có nhìn số xe không?
- Không.

Hai người nhìn nhau, thảng thốt. Rồi cuối cùng Loisel bận quần áo vào và nói:
- Thôi tôi phải đi lại khoảng đường mình đi bộ, xem có thể kiếm ra nó không.
Anh đi ra ngoài. Cô ngồi chờ trên ghế trong chiếc áo dạ hội, không còn sức mà leo lên giường, đầu óc chán nản, hết cả năng sức, không một ý nghĩ.

Anh chồng trở về lúc bảy giờ sáng, anh không kiếm được sợi dây chuyền.
Anh tới sở cảnh sát, tới nhà báo đăng rao vặt, hứa một món tiền thưởng, anh đến công ty xe taxi, thật ra anh tới đó trong niềm hy vọng cuối cùng.
Cô chờ anh cả ngày, trong tình trạng lo lắng kinh hoàng, trước một thảm trạng khủng khiếp.
Trời tối mịt, Loisel mới về đến nhà mặt tái xanh, hóc hác. Anh chẳng kiếm ra gì cả.
“Em phải viết cho bạn em”, anh nói: “Bảo em làm sức cái móc của sợi dây, và đang đợi tiệm sửa, để chúng ta có thì giờ kiếm cách trả lại sợi dây.”
Cô lấy giấy bút ra ghi lại những dòng anh đọc cho cô.

Cuối tuần thì họ hết hy vọng. Loisel, nay trông già thêm năm tuổi bảo:
-Giờ thì chúng ta phải tìm cách thay thế sợi dây khác rồi.
Ngày hôm sau họ đem các hộp đựng sợi dây tới tiệm kim hoàng có tên khắc trên hộp. Ông chủ tiệm lục loại giấy tờ và nói:
- Thưa bà, tôi không bán sợi dây, tôi chỉ bán cái hộp thôi.

Họ đi từ tiệm kim hoàng này sang tiệm khác để kiếm một sợi dây chuyền tương tợ, cố nhớ hình dáng nó, mà lòng cả hai kinh hoàng, thảm não. Cuối cùng, trong tiệm kim hoàng khu Hoàng Cung, có một sợi dây, một chuỗi kim cương, trông giống in như sợi dây họ đã đánh mất. Sợi dây chuyền để giá là bốn mươi ngàn francs, và người ta bớt xuống với giá ba mươi sáu ngàn francs. Hai vợ chồng năn nỉ chủ tiệm xin đợi cho ba ngày, đừng bán cho bất cứ ai. Họ cũng giao điều kiện với chủ tiệm phải mua lại sợi dây với giá ba mươi bốn ngàn francs nếu trong trường hợp họ kiếm ra được sợi dây chuyền đánh mất trước thời định là cuối tháng hai.

Loisel có mười tám ngàn francs, gia tài nhỏ ông bố để lại. Anh phải đi mượn số tiền còn lại. Anh mượn một ngàn đây, năm trăm đó, năm chục người nọ, ba francs người kia. Anh ký giấy nợ, sẵn sàng nhận làm những việc tầm thường nhất, mặc cả với các tay vay lãi, với tất cả mọi loại người trong giới cho vay chợ đen. Anh bằng lòng thoả hiệp suốt đời mình, ký giấy nợ mà chẳng biết mình có trả được không, trong nỗi lo lắng viễn tượng tương lai đen tối, khổ cực, những thiếu thốn về vật chất và những dày vò về tình thần mà anh sẽ phải chịu đựng. Trong trạng thái như thế anh đến tiệm kim hoàng, đặt trên quầy ba mươi sáu ngàn francs và lấy về sợi dây chuyền mới.

Ngày bà Loisel đem sợi dây chuyền trả cho bà Forestier, bị bạn ban cho một câu lạnh nhạt:
- Đáng nhẽ chị phải trả tôi sớm hơn, tôi có thể cần nó để đi dạ hội đấy!

Bà bạn không mở hộp ra, như cô đã lo lắng mãi. Nếu chị ta nhận thấy đó là một sợi dây chuyền khác, thì chị ta nghĩ thế nào về mình đây, chị sẽ nói sao? Chị ấy có nghĩ mình là kẻ cắp không chứ.



Từ đó bà Loisel biết thế nào cuộc đời của khổ cực, lao động. Không ngờ nàng đã can đảm gánh vác bổn phận của mình. Món nợ kinh khủng đó phải được trả và nàng phải dự phần trả món nợ đó. Họ cho con sen nghỉ làm. Họ đổi chỗ ở, đi thuê một nơi tồi tàn hơn trước.
Giờ đây cô làm những công việc nội trợ nặng nhọc nhất, những việc khó khăn nhất của nhà bếp. Cô rửa chén, cào nhọ nồi, soong chảo mỡ mật bằng đôi bàn tay hồng hào của mình. Cô giặt quần áo, ra giường, khăn bàn bẩn, rồi đem phơi chúng trên giây. Trên con dốc sáng sáng, chiều chiều cô gánh nước lên, nếu cần dừng lại bậc tâng cấp thở. Cô ăn bận như dân lao động, tay cầm giỏ, tới từng quầy rau, hàng tạp hoá, hàng thịt, mặc cả từng xu một, bảo vệ đồng bạc khốn khổ của mình.

Mỗi tháng món nợ này phải được trả, lại gia hạn món nợ khác, mua thêm thời gian. Anh chồng làm thêm ban đêm cho các hàng quán, vào tối khuya có khi anh còn chép các bản thảo, mỗi năm xu một bản.
Và cuộc sống như thế kéo dài mười năm.
Tới cuối năm thứ mười, họ đã trả hết, tất cả, với thuế cắt cổ của các tên chủ nợ, và những tiền lời chồng chất lên nhau.

Bà Loisel giờ đây trông già đi. Bà đã biến thành một người đàn bà mạnh mẽ, thô thiển và cứng rắn, một người đàn bà của giới lao động. Tóc rối, váy nhầu, tay đỏ, bà ăn nói ồn ào, thảy từng mảnh nước lớn, cong lưng chùi nhà. Thế nhưng, thỉnh thoảng khi ông chồng đang ở sở làm, bà ngồi tựa nơi cửa sổ và nghĩ đến buổi dạ tiệc huy hoàng đã lâu rồi, buổi khiêu vũ mà bà thật đẹp và được mọi người chiêm ngưỡng.
Nếu đêm đó bà không đánh mất sợi dây chuyền, thì việc gì xảy ra? Nào ai biết được? Nào ai biết được? Đời thay đổi lạ lùng quá đổi. Không ngờ chỉ cần một việc nhỏ thôi đủ làm cho ta lạc lối hay có thể cứu ta.


Một ngày chủ nhật, bà đi dạo trong vườn Champs Elysée, cho bõ một tuần lao động khổ cực, bà bỗng nhận ra một người đàn bà tay dẫn một đứa bé. Chính là bà Forestier ngày nào, bây giờ vẫn đẹp, vẫn đài các. Bà Loisel cảm thấy xúc động. Mình có nên tới nói chuyện với chị ta không. Chắc hẳn rồi chứ . Giờ đây bà đã trả hết món nợ. Bà sẽ cho bạn biết. Tại sao không?

Bà đến gần bạn.
-Chào chị Jeanne .
Người bạn, chẳng nhận ra bà chút nào, ngạc nhiên thấy trước mình một người đàn bà xa lạ, gọi mình như quen thân lắm. Bà lúng túng:
- Thưa bà, chắc bà lầm, tôi không quen bà.
- Không, chị không lầm. Tôi là Mathilde Loisel đây.

Người bạn buông ra một tiếng kêu thảng thốt:
- Trời ... chị Mathilde, làm sao chị thay đổi dữ vây!
- Đúng vậy chị ạ, sau lần cuối em gặp chị, đời em thay đổi qua cảnh nghèo khó, mà chị biết không, cũng tại chị đó!
- Ủa, sao có mình trong đó?
- Chị có nhớ sợi dây chuyền kim cường chị cho em mượn đi dự dạ hội ông bộ trưởng không?
- Có chứ!
- Em đánh mất nó.
- Chị nói sao, chị có đem trả mình mà!
- Em đem trả chị sợi dây chuyền giống in sợi chị cho mượn. Thế nên phải mất mười năm vợ chồng em mới trả hết các món nợ. Với chúng em điều này không phải dễ, vì thực sự gia tài chúng em chả có là bao. Nhưng cuối cùng thì chúng em cũng thanh toán được hết món nợ ... Em rất mừng đã hết nợ nần!

Bà Forestier khựng lại:
-Chị nói sao, chị đã mua một sợi dây chuyền kim cương để thế sợi dây của mình à?
- Đúng thế, chị không hề nhận ra à, hai sợi dây giống nhau lắm.
Bà mỉm miệng cười, một nụ cười hãnh diện mà ngây ngô.

Bà Forestier, xúc động khôn xiết, đưa tay cầm lấy tay bạn:
- Tội cho bạn tôi quá, chị Mathilde ơi, sợi dây của mình là sợi giả mà, chỉ đáng giá khoảng năm trăm francs là cùng.
000
2206

Aug 18, 2005

Cẩn thận nhé



Một người đàn ông chẳng mấy to khỏe bước vào trong quán rượu và gọi một cốc sữa trứng. Khi người phục vụ mang tới ông ta uống một hớp, sau đó lấy từ túi ra một con chuột nhắt rồi cũng cho nó uống bằng cốc. Người phục vụ là một gã lực lưỡng, vai u, thịt bắp, giận dữ ngăn lại:

- Ấy, không thể thế được, việc ông làm thật ghê người. Cái cốc này là dành cho khách hàng, ông hãy lập tức biến đi và đừng bao giờ đặt chân trở lại đây nữa.

- Thế à! - Người đàn ông gầy còm trả lời - Ông hãy nói lại cho tử tế, nếu không ta sẽ cho một cái tát vào mặt.

Vào lúc đó, con chuột nhắt liền thò đầu ra khỏi túi áo chủ và nói với người phục vụ:

- Còn tôi thì sẽ đập vỡ mồm con mèo của ông!1998

Cầu được ước thấy



Nghe đồn ở thánh địa nọ có một con suối thiêng, có thể chữa lành bách bệnh, ba người bạn tật nguyền rủ nhau hành hương tới đó: Một người mù, một người điếc và một người què.

Khi tới nơi, người mù lau mắt bằng nước suối và reo lên:

- Tôi nhìn được rồi!

Người điếc rửa tai bằng nước suối rồi cũng kêu lên:

- Tôi lại nghe được rồi!

Người còn lại vần chiếc xe lăn xuống dòng suối rồi sau đó reo lên:

- Tôi có mấy cái bánh xe mới rồi!
914

Quan lớn mua vàng



Theo lệ ngày xưa, ai làm quan thì mua món gì chỉ phải trả nửa giá tiền, trừ mua vàng phải trả đủ.
Một ông quan nọ vừa đến nhậm chức, bảo hiệu bán vàng đem hai lạng đến bán cho ngài. Chủ hiệu vàng nghe tiếng quan dỡ như cọp, mới bẩm:
- Vàng mỗi lạng thực giá sáu chục đồng, song quan lớn thì trả một nửa cũng được.
Quan cầm hai lạng vàng xem, rồi ung dung bỏ một lạng vào túi. Chủ hiệu tưởng quan chỉ mua có một lạng, còn lạng kia trả lại, nên khi quan vào nhà trong, anh ta vẫn đứng đấy đợi trả tiền. Hồi lâu quan ra, thấy vậy mới hỏi;
- Mua bán xong rồi còn đứng đấy làm gì?
Chủ hiệu vàng đáp :
- Con chờ quan lớn trả tiền cho.
Quan bảo:
- Tiền trả rồi, còn đòi gì nữa?
Chủ hiệu vàng đáp:
- Hai lạng, quan trả lại một lạng, lấy một lạng.
Quan nổi giận:
- Nhà người lạ thật! Nhà ngươi bảo ta trả một nửa cũng được. Ta mua hai lạng, nhưng chỉ lấy một, trả lại một chẳng phải là đã trả một nửa là gì!
458

Aug 17, 2005

Cánh cửa



Ba muỗng đường và một muỗng cà phê - đó là bữa điểm tâm của Ngạc. Trước kia là ba nuỗng cà phê và một muỗng đường. Anh cũng không hút thuốc nữa. Trước đây anh không thể tưởng tượng được rằng có người nhâm nhi cà phê mà không phì phà chút khói thuốc, vậy mà bây giờ anh là người như thế.

Anh và đám bạn đã tập tành ngồi quán cà phê và hút thuốc từ năm anh mười tám tuổi. Tám năm sau, anh cảm thấy mình thay đổi, khói thuốc trở nên vô vị, và quán xá thì tẻ nhạt qúa! Bạn bè anh có người thán phục, có người ngạc nhiên, và cũng có người lo lắng. Họ phục anh vì anh bỏ thuốc qúa dễ dàng, ngạc nhiên vì anh không ngồi quán với họ nữa, và lo lắng vì anh thay đổi đột ngột. Họ hỏi anh: "Có phải vì Nguyệt không?"

Không bận rộn với tình yêu nữa, Ngạc khám phá ra anh có khối việc để làm. Anh nuôi vài con cá cảnh, trồng vài khóm hoa, đăng ký lấy thêm vài tín chỉ nữa ở đại học, và anh bắt đầu viết. Anh viết như thể một hoạ sĩ dở hơi vẽ trên những bức tường bằng gỗ ở một hòn đảo xa xôi. Bài của anh xuất hiện trên một vài trang web, cái nơi mà ai thích viết cũng được hoan nghênh. Độc gỉa chẳng biết gì về anh ngoài cái nick ngắn ngủn. Anh thì xem mỗi bài viết của mình như một con cá vàng, hay một khóm hoa - anh chăm sóc chúng, và đổi lại, chúng cho anh niềm vui. Bây giờ anh mới hiểu tại sao có những người sống một mình với con mèo, con chó của họ. Bởi vì chúng cho họ niềm vui và không bao giờ làm họ đau khổ như con người.

"Nói chuyện nhé ?"
ký tên: Ánh Trăng

Khi đọc cái message ngắn ngủi này, Ngạc mới hay có một cánh cửa đã khép lại sau lưng Nguyệt. Và bây giờ, lại có người đến gõ lên đó. Có nên một lần nữa, mở cánh cửa ra không? Anh tự hỏi mình, và cảm thấy thực sự cô độc. Có một thứ mà những con cá vàng, những khóm hoa, và cả những bài thơ nữa không thể thay thế được, đó là một người. Người đó thơm như hoa, hồn nhiên như cá, và lãng mạn như những bài thơ tình. Có thể anh sẽ hạnh phúc hơn, và cũng có thể anh sẽ đau thêm lần nữa.

Ngạc nắm lấy chốt cửa xoay nhè nhẹ....

1643

Trong anh là một phần máu thịt của em



Trong anh là một phần máu thịt của em


     Margo Molthan và chồng là Mike sống ở thị trấn nhỏ Palestine, phía Đông bang Texas (Mỹ). Hiện nay, tuy làm bà nội rồi, bà vẫn nhận lãnh công tác tình nguyện và dành thời gian làm thơ, viết văn. Trong hồi ức này (in năm 2002) Margo cho biết hoàn cảnh nào Mike đã nhận được một phần máu thịt của chị để cả hai cùng kéo dài cuộc sống lứa đôi thương yêu, hạnh phúc.

      Tôi đem lòng yêu chồng tôi, Mike, sau lần hò hẹn đầu tiên. Tôi đã mời anh khiêu vũ với tôi vào ngày Sadie Hawkins (*). Anh không phải là lựa chọn đầu tiên của tôi, nhưng tôi rất mừng là duyên số đã khiến anh là người thứ hai tôi chọn lựa. Một đứa bạn đã đốc tôi mời anh khiêu vũ: “Mike là mẫu người cậu có thể sống chung cho tới cuối đời”. Ôi, tuổi mười sáu mà tinh khôn đến thế!

      Anh có mọi đức tính mà các cô gái mong muốn. Bảnh trai, tử tế, đáng kính, dễ thương và hay quan tâm chăm sóc người khác. Về căn bản thì đây là mẫu bạn trai tuyệt nhất đối với đám con gái. Anh cao lớn, là cầu thủ đội bóng trong trường trung học và khi ở bên anh tôi cảm thấy mình giống như một nàng công chúa.

      Vào đại học hai đứa vẫn hò hẹn nhau. Bấy giờ thanh niên Mỹ đang giáp mặt với chiến tranh Việt Nam, chúng tôi quyết định làm đám cưới sớm. Phải, chúng tôi còn quá trẻ, nhưng chúng tôi không thay đổi quyết định ấy dù gia đình không ủng hộ. Tình yêu nào quản chi các chướng ngại.

      Trên đường đi hưởng tuần trăng mật ở thành phố cảng Corpus Christi, bang Texas, Mike lên cơn đau bụng dữ dội. Hoảng sợ, tôi điện thoại cho lễ tân khách sạn nhờ giới thiệu một bác sĩ địa phương. Thầy thuốc nói anh đang bị sỏi thận hành hạ và khuyên chúng tôi nên quay về nhà ngay. Tôi còn nhớ bốn giờ ròng rã trên đường dài về nhà. Cuồng phong dữ dội mà thuở ấy xe hơi chưa có tay lái tự động! Tôi không sao cầm lái vững vàng, thế là dẫu đang đau đớn khủng khiếp Mike đã thay tôi đưa xe về đến nhà bình an. Anh là người hùng của tôi.

      Biến cố ấy mở đầu cho một hành trình dài sống chung với bệnh thận mãn tính. Mike xong đại học và làm đại diện cho một nhà sản xuất bàn ghế, tủ kệ. Chúng tôi sinh được hai bé trai kháu khỉnh. Trọn thời gian tôi dành để làm mẹ và làm vợ. Suốt hai mươi năm anh nhiều lần nằm viện, phải làm sinh thiết thận nhiều đợt và trải qua nhiều phen hoảng sợ. Nhưng với tính cách và thái độ tích cực của Mike, anh luôn hồi phục và trở về với tư thế một người cha, người chồng bình thường. Nhìn bề ngoài chúng tôi dường như là một gia đình trung lưu, hạnh phúc nhưng ở bên trong, tôi sống từng ngày lo âu chẳng biết ngày nào tảng mây đen trên đầu mình sẽ ập xuống bão dông.

      Năm 1987, sức khỏe của anh cứ cạn đi và giải pháp duy nhất là phải chạy máy lọc thận trong lúc ghi tên chờ được ghép thận. Trước ngày bắt đầu chữa trị, vào sinh nhật bốn mươi của Mike, tôi đưa anh ra bãi biển. Anh yếu và xanh xao quá. Lần đầu tiên trong cuộc sống lứa đôi, anh thổ lộ rằng anh cảm thấy mình bại trận. Anh cố chịu đựng chạy máy lọc thận càng lâu càng tốt. Mỗi lần chạy máy xong, anh như con mèo ướt. Lòng tôi tan nát dù vẫn biết ơn cái máy ấy giữ lại mạng sống của anh.

      Trong lúc ấy danh sách chờ ghép thận còn lâu mới tới lượt anh và luật lại không cho phép người cùng huyết thống được hiến thận. Tôi vẫn nhớ rõ cái buổi cùng ngồi với chị của Mike trong phòng bác sĩ và nghe ông giải thích tại sao chị ấy không thể tặng thận. Cho đến hôm nay tôi không sao giải thích cảm giác lạ lùng từ đâu xâm chiếm, khi trong đầu tôi vang lên tiếng nói: “Ngươi sẽ tặng thận”. Tiếng nói đó rất rõ ràng, chính xác và xưa nay tôi chưa từng nghe có một giọng nào bảo tôi như thế. Từ khoảnh khắc ấy tôi luôn tin chắc người tặng thận sẽ là tôi, dẫu rằng vào thời bấy giờ việc này nghe có vẻ như bất khả thi.

      Tôi tiếp tục suy nghĩ và câu trả lời đến với tôi rất dễ dàng. Lần kế tiếp, khi gặp bác sĩ tôi nói: “Tôi và anh Mike cùng loại máu, đúng không? Thận của người chết chỉ cần cùng loại máu với người được ghép, đúng không? Tỉ dụ như hôm nay tôi bị xe cán chết, thận của tôi sẽ dùng được cho anh ấy, đúng không? Vậy thì hãy để anh ấy nhận quả thận của tôi lúc tôi còn đang thở để vợ chồng tôi chung hưởng hạnh phúc cho đến cuối đời... Bác sĩ nghĩ sao?”.

      Bác sĩ chỉ nhìn tôi trong khi tôi nài nỉ. Nhưng câu trả lời dứt khoát là không. Đối với tôi, sự phủ quyết này giống như phất lá cờ đỏ trước mũi con bò điên.

      Tôi bỏ nhiều giờ lục lạo hồ sơ và thấy rằng ở bang Wisconsin việc ghép thận giữa hai vợ chồng đã thực hiện nhiều lần. Thế sao bang Texas lại không?

      Tôi thâu thập sự ủng hộ của vài bác sĩ và ca của Mike được đưa ra hội đồng y khoa của bệnh viện. Phải chờ ít lâu để họ quyết định và thậm chí họ còn yêu cầu vợ chồng tôi đi trắc nghiệm tâm lý. (Tôi đoán họ chỉ muốn biết tôi có điên hay không). Cuối cùng hội đồng y khoa Bệnh viện Methodist (Tin lành) ở thành phố Dallas (Texas) được thuyết phục và bằng lòng cho ghép thận.

      Tôi không bao giờ ngờ rằng việc trì hoãn lại xuất phát từ chồng mình. Anh càng nghĩ ngợi thì càng không chịu đựng nổi việc tôi phải cắt thận vì anh. Cuối cùng anh nói anh không thể chấp nhận. Trong giây phút im lặng ngập tràn cảm xúc, tôi chỉ hỏi anh một câu đơn giản: “Mười chín năm qua em đã chứng kiến anh chiến đấu với bệnh tật để sống bên em và các con. Ngần ấy thời gian tất cả chúng ta đã luôn bên nhau. Giờ đây nếu như em phải chạy máy lọc thận, còn anh thì biết có một thứ làm cho em khỏe mạnh. Thế thì anh sẽ làm gì nào?”. Lịch mổ được định ngày.

      Cách nay mười bốn năm, Mike và tôi đã làm nên lịch sử ở Texas vì là cặp vợ chồng đầu tiên tặng, ghép thận cho nhau khi còn sống. Khắp nước những người muốn làm cái việc y như vậy đã điện thoại tìm tôi. Ngày nay việc người khác huyết thống hiến thận khi đang còn sống đã không còn lạ thường nữa rồi.

      Nhưng sự kiện làm nên lịch sử ấy chẳng bao giờ gây ấn tượng nhiều cho tôi. Điều quan trọng hơn cả là tôi còn có được một người chồng mạnh khỏe sống với tôi thêm hàng chục năm dư.



Margo Molthan %3
C/P>80

Tro của hoa hồng



Tro của hoa hồng


      Không hề giống như trong hình dung, tro của hoa hồng cũng một màu đen kịt, chỉ có những tàn sáng là của tờ giấy mồi lửa. Hai mươi mốt bông hoa hồng đỏ thẫm, cánh dày (có thể đem ra xào được - bạn cùng phòng ký túc xá nói vậy), cành dài nửa mét, rậm rịt lá xanh đen, gai to tướng. Sở hữu một bó hoa hồng lẫy lừng như thế trong ngày sinh nhật tôi đã rất tự hào và kiêu hãnh ôm bó hoa trước bao nhiêu con mắt ngưỡng mộ của nhà D4.

Tàn ngày sinh nhật, bó hoa được treo ngược lên một cái đinh trên tường bên giường tầng hai. Ai vào sau đó cũng trầm trồ bó hoa treo ngược - mặc dù đang héo dần vẫn phô trương vẻ rậm rịt sung mãn.

Hai mươi mốt bông hoa hồng héo dần tỏa mùi ngái ngất khiến tôi đau đầu cả tuần. Màu đỏ thẫm của những cánh hoa biến thành màu thâm đen, rồi lại trở màu nâu như gỗ khô. Cả bó hoa khô cong lại nhưng chẳng rụng một chiếc lá, một cánh hoa nào. Đến lúc này tôi vẫn hãnh diện cười không nói khi bất kỳ ai mới bước vào phòng đều thốt lên khen ngợi bó hoa khô treo trên tường.

Khô cong rồi. Một hôm, một đứa trong phòng thốt lên. Với một ý định ấp ủ từ rất lâu, tôi tổ chức đốt hai mươi mốt bông hồng khô. Dứt từng cụm cánh hoa khỏi cành khô mới phát hiện hóa ra trong cùng bông hoa vẫn còn cánh mỏng manh đỏ sót lại, chưa khô màu nâu gỗ. Những cánh hoa rất khô, rất mỏng, rất nhẹ, rón rén cháy. Tôi kiên nhẫn khơi cho những cánh hoa cháy hết và trong lòng tràn ngập nỗi thất vọng.

Tro của hoa hồng cũng chỉ là màu đen. Trong tưởng tượng của cô bé mười lăm tuổi, chiếc áo dạ hội "màu tro của hoa hồng" của Mecghi khiến cha Ranfơ bàng hoàng phải là một màu gì đó không nằm trong bảng màu thông thường. Từ đó vang lên trong hình dung cái màu kiêu hãnh - màu tro của hoa hồng. Sự thất vọng đầu tiên trong đời sau sinh nhật lần thứ hai mươi mốt. Tôi nhốt hai mươi mốt bông hoa hồng cháy thành tro đen vào một hộp sơn mài hình trứng có nắp đậy khít khịt. Đó là sưu tầm kỷ niệm đầu tiên.

Tiếp theo là những sưu tầm khác - bất cứ thứ gì có thể giữ lại được, cất đi được. Giấy gói viên kẹo sôcôla ngày Valentine. Hai chiếc vé bé tí, mỏng dính là vé đi xem viện bảo tàng quân sự. Hôm đó không nghĩ ra chỗ nào để đi nữa. Vé xem chung kết hoa khôi thể thao. Vé này thì dày và to. Tờ biên lai thu học phí kỳ cuối cùng. Một chiếc cúc áo bị đứt. Tờ giấy nháp nhăng cuội linh tinh bỗng có dòng "I love you" viết bằng bút chì. Những tờ lịch tường đằng sau có ghi cảm nghĩ: “Mình rất hạnh phúc”, “Mình rất buồn”... Những bức thư, mở đầu thường là "My baby...".

Bó hoa hồng tiếp theo cũng rậm rịt sung mãn cành dài nửa mét chi chít gai gồm hai mươi hai bông. Lần này hoa hồng được rứt từng cánh vẫn còn đỏ tươi thắm cho vào một phong bì to tướng.

Khi không còn ở ký túc xá nữa, tôi treo ngược những bó hoa hồng tiếp theo trên bất cứ cái đinh nào tìm thấy trên tường nhà. Khách đến nhà hỏi nhà này treo nhiều hoa thế. Mẹ tôi giải thích: mỗi năm một bó. Những bó hoa treo trên tường còn nguyên giấy gói. Nhìn vào kiểu giấy gói hoa biết thời gian đã trôi qua rất mau. Bó hoa hai mươi ba bông có giấy gói màu trắng in hoa đục. Bó hoa hai mươi tư bông bọc giấy hồng tới tận cuống. Bó hoa hai mươi lăm bông bọc giấy nến in hoa... Tôi bớt hãnh diện về những bó hoa. Tường nhà đã hết đinh treo.

Một năm, không có người tới tặng hoa, chỉ có e-mail một bức tranh hoa hồng nhấp nháy nói rằng anh xin lỗi không sắp xếp thời gian về dự sinh nhật em được và hôn em. Hey, mùi vị của nụ hôn điện tử. Tôi giận dỗi một thời gian. Khi không thấy động tĩnh gì thì bắt đầu thử đặt mình vào địa vị của anh ấy xem. Bận. Xa hàng nghìn cây số. Sự nghiệp. Tôi tha thứ và vui vẻ trở lại, ngày ngày đi về căn phòng có những bó hoa đã rất khô, hết màu kiêu hãnh nằm vô tri vô giác trên tường. Bây giờ, tôi lập riêng một folder có tên là Roses để chứa những bức tranh hoa hồng. Một bình hoa trên bàn có vài cánh rụng. Một vườn hoa hồng có bướm bay. Một thiên thần hai cánh trắng muốt đang tưới hoa. Rất nhiều bức tranh hoa hồng với message "To my baby".

My baby thực ra nhiều tuổi rồi. Tôi nhận ra điều này một hôm khi thử một chiếc váy ngắn chui đầu ôm thân. Chiếc váy đẹp và vừa vặn. Nhưng có vẻ gì đó khiến tôi ngần ngại. Tôi hỏi mẹ. Mẹ cũng ngần ngại. Tôi xoay đi xoay lại trước gương để tìm nguyên nhân. Một chiếc váy trẻ trung. Đã tìm ra nguyên nhân. Váy vừa với người nhưng không hợp với khuôn mặt. Mặt này, tuổi này thì không thể diện chiếc váy trẻ trung này được.

Trong folder tên là Hoa hồng vẫn tiếp tục có những bức tranh mới. Những bức thư điện tử thì ngắn lại nhưng vẫn đều đặn - một thói quen? E-mail của tôi thường kể hôm nay đi ăn đám cưới này, hôm sau đi thăm bạn kia đẻ, hôm thì dự tròn tháng em bé của bạn X, bạn Y,... Thư đáp lại thường trách: Em đi dự đám cưới cả thành phố?

Tôi bắt đầu hình dung. Nếu mình lấy anh Kha thì sao nhỉ? Không thể. Không bao giờ. Lấy anh Tiến? Khủng khiếp quá. Hết giai đoạn hình dung, tôi trở nên vô cảm. Sáng dậy đi làm, tối về xem ti vi, đọc sách, lên giường ngủ. Hết mong đợi. Hết hình dung.

Căn nhà cũ phải đập đi để xây lại. Mẹ tôi gỡ những bó hoa khô trên tường xếp vào một chỗ chờ tôi về, bảo của mày đấy. Cả nhà đi ở nhờ, đồ đạc chỉ mang theo những thứ tối cần thiết. Tôi lục tung ngăn kéo, hòm xiểng. Ngồi trước một đống các thứ sưu tầm từ thời xa xưa. Một cái cúc áo, tấm vé xem bảo tàng giấy đen mỏng, vé xem chung kết hoa khôi thể thao, những bức thư viết trên giấy thếp, chữ nghiêng trong sáng tràn ngập nỗi nhớ và những dự định to tát, phong bì to tướng dán kín tràn ra những cánh hoa hồng khi tôi xé toạc vỏ bao. Hộp sơn mài nắp quá khít khiến tro bật lên khi tôi cố cạy nắp. Buồn cười. Những trò ngây dại của tuổi trẻ. E-mail gửi đi nói là em đã "xử lý" hết những thứ linh tinh ngày xưa em giữ lại. E-mail gửi lại nói anh đang có một lời mời cộng tác cho trung tâm dự đoán diễn biến thị trường. Cuối cùng là dòng nhắn hỏi "Em có chờ anh không?". E-mail tiếp theo chưa được gửi đi. Máy tính của tôi bỗng nhiên đen kịt màn hình khi tôi đang download chương trình diệt vi-rút. Mọi sự chữa chạy đều vô ích. Tôi năn nỉ computerman cố cứu những dữ liệu lưu trong máy. Chịu. Mua máy mới đi. Anh ta bàng quan khuyên nhủ. Nhà mới. Computer mới. Tường nhà sơn láng mịn đã khoan sẵn những lỗ vít để bố tôi
treo lại những bức tranh sơn mài theo kích cỡ đo đạc chi li từ khi thiết kế nhà. Không thừa một lỗ vít nào. Tường này có muốn cũng không đóng đinh thêm được. Bố tôi tự hào.

Việc đầu tiên cần phải làm với chiếc máy tính mới là tạo folder đặt tên là Roses. Tôi chờ bức tranh hoa hồng mới.



Tác Giả: Phạm Thị Thanh Mai

20

Aug 16, 2005

Hãy nghe con vật nói



Hai chú chim se sẻ đang đậu trên hàng rào nói chuyện gẫu với nhau. Ðúng lúc hai chú đang thao thao bàn cãi và đấu láo hăng say, thì có một phản lực cơ Boeing 767 bay trên trời cao ngang qua trên đầu hai chú se sẻ nhiều chuyện này. Một chú nhìn lên chiếc Boeing rồi nói với chú chim se sẻ kia:

- Ê Sẻ nâu, coi kìa, con chim bự trên kia bay nhanh ghê há, tao phục, tao phục.

Sẻ nâu nhìn lên trời, quan sát chiếc Boeing đang bay một lúc lâu rồi trả lời:

- Có gì đâu, Sẻ Xù. Nếu có đứa nào đốt đít mày cháy khói ì xèo như vậy, tao bảo đảm mày bay còn lẹ hơn con chim bự bị đốt đít trên kia nữa đấy.

                 - - - - - - - - - - - -


Có con rắn lục con hỏi rắn lục mẹ:

- Mẹ ơi ! Nọc rắn lục nhà mình có độc không mẹ?

- Sao con lại hỏi thế?

- Vì hồi nãy đang ăn "nhãn lồng", con lỡ cắn nhằm lưỡi của mình rồi !

2683

Hãy nghe con vật nói



Hai chú chim se sẻ đang đậu trên hàng rào nói chuyện gẫu với nhau. Ðúng lúc hai chú đang thao thao bàn cãi và đấu láo hăng say, thì có một phản lực cơ Boeing 767 bay trên trời cao ngang qua trên đầu hai chú se sẻ nhiều chuyện này. Một chú nhìn lên chiếc Boeing rồi nói với chú chim se sẻ kia:

- Ê Sẻ nâu, coi kìa, con chim bự trên kia bay nhanh ghê há, tao phục, tao phục.

Sẻ nâu nhìn lên trời, quan sát chiếc Boeing đang bay một lúc lâu rồi trả lời:

- Có gì đâu, Sẻ Xù. Nếu có đứa nào đốt đít mày cháy khói ì xèo như vậy, tao bảo đảm mày bay còn lẹ hơn con chim bự bị đốt đít trên kia nữa đấy.

                 - - - - - - - - - - - -


Có con rắn lục con hỏi rắn lục mẹ:

- Mẹ ơi ! Nọc rắn lục nhà mình có độc không mẹ?

- Sao con lại hỏi thế?

- Vì hồi nãy đang ăn "nhãn lồng", con lỡ cắn nhằm lưỡi của mình rồi !

2683

Aug 14, 2005

Chuyện Gì



Có một vị giám đốc rất hách dịch với cấp dưới. Khi có người đến hỏi việc gì, ông ta vẫn ngồi yên đọc sách, bắt đương sự cứ phải đứng chờ.

Hôm nọ một nhân viên có việc gấp vào trình, thấy ông ta ngồi im lâu quá, bèn la lên:

Chết rồi, chết rồi!

Lúc này vị giám đốc mới giật mình, quay người lại hỏi:

Chuyện gì vậy?

Người nhân viên nói:

Thấy ngài ngồi bất động lâu quá, tưởng ngài "đi" rồi tôi mới hết hồn la lên đấy.

2795

Mánh Khóe



Hai thầy lang ngồi nói chuyện với nhau . Thầy nọ hỏi thầy kia :
- Bác đi thăm bệnh, sao bất cứ bệnh nào bác cũng hỏi bệnh nhân thường ăn những gì, như vậy là nghĩa làm sao ?
Thầy kia cười đáp :
- Có gì đâu, chẳng qua hỏi xem họ ăn uống có sang trọng hay không để sau định tiền thuốc nhiều hay ít cho nó dễ!
642

Aug 13, 2005

Đèn đỏ














Thưa các bạn, đôi khi giữa cái sống và cái chết chỉ cách nhau chừng một sợi tóc. Chẳng ai có thể biết nó rõ hơn tôi. Nhưng, nếu có ông bạn nào lại hỏi tôi trong trường hợp phải giết người thì sao? Điều ấy tôi thấy cần phải trả lời nước đôi như thế này: Cái đó còn tùy theo trạng huống.

Tôi cũng chẳng cần phải giấu giếm làm gì: tôi đã giết một người, và trong cái hoàn cảnh đặc biệt ấy, tôi tự nhận thấy tôi đã hành động đúng với tất cả sự logic.

Có điều khi nghĩ rằng mình có quyền giết hắn ta thì tôi đã hoàn toàn không tính gì đến những chuyện bất ngờ.

Dạo đó tôi là tùy viên tại sứ quán của nước tôi ở Luân Đôn. Tất nhiên, mười năm về trước tôi rất bô trai và lại to con. Tôi thường có thói quen đi coi hát vào mỗi tối thứ sáu và khi vãn tuồng, quay trở lại Queens Gate - tôi cư ngụ tại khu vực đó - rồi đi lòng vòng một tua.

Đêm Luân Đôn, không còn gì thoải mái hơn bằng cách thả bộ trên những đường phố rộng lớn và sạch sẽ. Trước khi trở về nhà, tôi không bao giờ quên ghé vào tửu quán Con ngựa điên, ở đó tôi có thể gặp đủ mọi hạng người vô công rồi nghề của cái thủ đô bốn mùa sương mù này. Tôi gọi một tách trà không phải cốt để uống mà chỉ để quan sát một cách thích thú những nhân vật điển hình Anh Cát Lợi đang ngồi trầm mặc trên quầy.

Một đêm kia, trong lúc đang ngồi uống trà, bất chợt tôi thấy hiện ra từ trong bóng tối một trong những người đàn bà lộng lẫy nhất mà trong đời tôi chưa bao giờ được gặp.

Với tư cách tùy viên sứ quán, tôi thường tiếp xúc với rất nhiều người đẹp: những vị phu nhân, những bà quận chúa, những ái nữ của các ông đại sứ thuộc đủ các quốc tịch, và đôi khi cả những nữ minh tinh nổi tiếng trên thế giới ; nhưng người đàn bà này lại có một nhan sắc cực kỳ, khiến cho trong giây phút tôi như ngây dại hẳn đi, và chỉ một chút xíu nữa, tôi đánh rơi tách trà xuống sàn.

Tuy trong lúc say mê điên dại, tôi cũng còn đủ tỉnh táo để nhận ra rằng, hình như nàng đang có một tâm trạng thảng thốt.

Thỉnh thoảng nàng lại nhìn ngang ngó dọc, như thể sợ hãi một kẻ nào đang rình rập đâu đây. Khuôn mặt trái xoan của nàng nhợt nhạt. Đôi mắt màu tử thạch anh của nàng như có một vùng bóng tối che phủ. Những ngón tay trắng nõn nà của nàng run rẩy nâng cái ly lên.

Ví thử rằng tôi là dân Anh, có lẽ tôi cũng sẽ tỉnh bơ đi. Nhưng ác một nỗi tôi lại không phải là người Anh nên tôi không có hân hạnh để có được cái tính phớt tỉnh Ăng-lê như dân bản địa. Tôi không thể đành tâm nhìn một người đàn bà đẹp như thế gặp khó khăn. Thế là tôi lại gần nàng và lịch sự hỏi nàng xem tôi có thể giúp được gì.

Thoạt đầu, nàng tỏ vẻ sợ hãi, nhưng sau khi đã tự chủ, nàng cám ơn tôi về sự giúp đỡ ấy. Tôi khuyên nàng hãy cứ bình tĩnh uống trà, rồi sau đó hãy nói cho tôi biết điều gì đã khiến nàng lo ngại.

Trả tiền xong, chúng tôi đi ra phố. Với giọng nói run run, nàng kể cho tôi nghe câu chuyện của nàng. Nàng không thể nín lặng mãi được. Nàng hầu như đã kiệt sức và cần phải tìm chỗ bấu víu.

Đã có thời gian nàng sống ở Mỹ. Sẽ lãng phí giấy mực và thậm chí vô ích để kể lể dài dòng về cuộc tình của nàng với một thằng cha căng chú kiết nào đó ở trên cái mảnh đất mà cứ mươi mười lăm phút lại xảy ra một vụ án mạng ấy. Nó, phải, chính nó, sau khi vớ được nàng, đã bám chặt lấy nàng ; dù hết sức vùng vẫy, nàng cũng không thể sao thoát ra khỏi những cánh tay bạch tuộc của nó.

Nhưng rồi một dịp may đã đến, và người đàn bà trẻ đẹp kia đã tố cáo những hành vi tàn bạo của nó với nhà chức trách. Nó bị 7 năm tù và người đàn bà trốn sang nước Anh.

Chỉ có điều rằng nó đã thề sẽ giết nàng sau khi mãn hạn tù. Và nàng biết rằng đó không phải là những lời đe dọa suông ; nó nói và nó sẽ làm. Luật Vendetta (trả thù), nàng đã từng chứng kiến.

Đúng vào cái bữa tôi gặp nàng ở trong tửu quán Con ngựa điên thì nàng được tin nó tới Luân Đôn cùng hai đồng bọn.

Tôi giải thích cho nàng hay rằng, nước Anh không phải là nước Mỹ ; ở đây người ta không bao giờ cho phép những tên cùng hung cực ác ấy có thể làm mưa làm gió, muốn giết ai thì giết.

Nhưng nàng vẫn không tin.

- Dầu cho có trốn vào trong nhà tù Sing Sing, chúng nó cũng sẽ cố tình phạm một tội ác nào đấy, để vào tù rồi giết mình, nàng nói.

Nàng hoảng hốt thật sự và không dám trở về nhà. Nàng nói:

- Suốt ngày hôm nay, có hai tên lạ mặt canh chừng ở gần nhà em.

Thưa các bạn, tôi vừa xúc động vừa phẫn nộ. Như tôi đã nói ở trên, cách đây 10 năm, tôi hãy còn trẻ, hùng tâm tráng khí còn đầy, hễ thấy sự bất bằng là xắn tay áo lên, nhào vô can thiệp liền, huống hồ nạn nhân lại là một người đẹp.

Đầu óc tôi chợt nảy ra một ý nghĩ. Tôi bảo sẽ đưa nàng về văn phòng sứ quán của tôi ; nàng có thể tạm nghỉ ở đấy một đêm, trong phòng họp của chúng tôi và, sáng hôm sau, tôi sẽ trù liệu những biện pháp để bảo đảm an toàn cho nàng.

Sau một hồi tính toán, nàng đồng ý. Tôi gọi tắc xi đưa chúng tôi về sứ quán. Tôi mở cửa dẫn nàng vào. Tôi bật đèn ở phòng họp, kéo cái canapé ra phía trước lò sưởi điện. Và chính vào lúc tôi sắp sửa từ giã nàng thì sự việc xảy ra.

Lúc đó chúng tôi đang đứng ở giữa phòng. Chợt có một tiếng nổ chát chúa ; cửa kính ở cuối phòng vỡ tan ra từng mảnh và viên đạn nằm gọn ở trong tường. Cũng may nàng không hề hấn gì.

Không chậm trễ một giây, tôi tắt đèn và nắm tay nàng lôi thẳng một mạch ra khỏi sứ quán và, nhảy đại lên một cái tắc xi, đưa nàng tới nhà một người bà con của tôi.

Trong lúc ngồi trên xe, nàng nói:

- Anh thấy đó, vô ích thôi! Nó sẽ giết em! Bọn chúng nó sẽ không buông tha em đâu! Bữa nay nó bắn hụt, nhưng mai nó sẽ bắn trúng.

- Cô đừng có nghĩ quẩn, tôi đáp. Phải can đảm lên chứ! Bây giờ là an toàn một trăm phần trăm. Cô có biết cái tên khốn kiếp ấy ở đâu không? Nếu biết thì bảo tôi để tôi trị cho nó một trận.

Mới đầu nàng từ chối không cho tôi biết, nhưng khi đến nhà cô em tôi thì nàng cảm thấy hơi an tâm bèn nói:

- Nó ở khách sạn Phượng Hoàng, khu Picadilly, lầu 2, phòng số 15. Nhưng em van anh, đừng có tới đó làm gì! Nó nguy hiểm lắm, lại có thêm hai đứa nữa, mặt mũi giống như đười ươi.

Thà rằng nàng đừng tiết lộ địa chỉ của nó, tất nhiên tôi sẽ vô kế khả thi. Nhưng một khi đ859

A lô, ai đó?



A lô, ai đó?


Một ông gọi điện về nhà cho vợ và nhận được một giọng phụ nữ lạ hoắc.

- A-lô, ai đó?

- Tôi là người làm.

- Nhà tôi làm gì có người làm?

- Bà chủ mới thuê tôi sáng nay.

- Tốt. Cho tôi gặp bà chủ, chồng bà ấy đây.

- Ơ... bà chủ đang ngủ với ông chồng nào đó trên gác ý.

- Sao???!!! Này, cô kia, có muốn năm trăm triệu không?

- Dạ, ông muốn em làm gì?

- Cô lấy khẩu súng trong ngăn bàn bắn bỏ mẹ hai đứa ấy đi.

Sau đó ông nghe tiếng đặt điện thoại, tiếng bước chân và hai phát súng. Cô người làm công nói chuyện tiếp.

- Thưa ông, bây giờ xử lý hai cái xác thế nào ạ?

- Gói gém cẩn thận, rồi quăng ra cái hồ cạnh nhà.

- Cạnh nhà? Hồ nước nào nhỉ?

- Ơ... vậy có phải số máy 6589324 không đấy...
51

Aug 10, 2005

Đòi nợ



Bị một thợ săn bắn chết, hồn của chồn bạc bay thẳng lên thiên đàng. Thánh Phêrô tiếp đón nó niềm nở và hỏi:
- Cái gì sẽ làm cho con sung sướng? Con vật bé nhỏ trả lời:
- Con muốn có một cái áo làm bằng... da phụ nữ!
2349

Mẹ, con và chú ghi điện



- Mẹ ơi! Sao chú đó ra vào nhà mình ghi điện mà không chào hỏi ai hết vậy?

- Đàn ông "trí thức" ít nói lắm con à!

- Chú đó có đi học không mà sao không biết lễ phép vậy mẹ?

- Có chứ con! Ổng là thợ điện mà!

- Chú đó mang giày vào nhà, rồi mang cả giày leo lên giường mẹ con mình để xem đồng hồ điện nữa. Sao mẹ không nói gì hết vậy?

- Kệ "nó" con à! Có điện sáng là mừng rồi!

- !!!...1992

Aug 9, 2005

Những câu hỏi ngố



MR: Người ta nói: người đẹp vì lụa... còn bà đẹp nhờ cái gì?

AD: Tui đẹp nhờ... đi cạnh một người quá xấu như ông.


o O o



Một AD rất thích nghe nhạc, nhưng tên MR ngồi cạnh cứ huyên thuyên mãi.

MR gợi chuyện: Theo bà thì trên đời này còn gì tuyệt vời hơn âm nhạc nữa không?

AD (mỉm cười): Có chứ, đó là sự im lặng.

MR: !!!
 


o O o



Thầy giáo: Khi đi đường các em phải nhớ luôn đi phía bên phải.

Học sinh: Thưa thầy đi bên phải hết thì bên trái ai đi ạ?


 

1143

Aug 8, 2005

Tình đom đóm



Hai con đom đóm gặp nhau. Một con có một vết bỏng trên đầu, bay vội vã.

- Đi đâu mà vội thế ?

- Tôi đi khám mắt.

- Ơ, nhưng anh bị bỏng ở đầu mà.

- Ờ! Đêm qua đi chơi khuya về thấy lập lòe tôi tưởng vợ tôi, tôi ôm chầm lấy toan hôn thì mới biết là cái tàn thuốc lá.
2666

Tình đom đóm



Hai con đom đóm gặp nhau. Một con có một vết bỏng trên đầu, bay vội vã.

- Đi đâu mà vội thế ?

- Tôi đi khám mắt.

- Ơ, nhưng anh bị bỏng ở đầu mà.

- Ờ! Đêm qua đi chơi khuya về thấy lập lòe tôi tưởng vợ tôi, tôi ôm chầm lấy toan hôn thì mới biết là cái tàn thuốc lá.
2666

Aug 6, 2005

Con Chó Săn Dũng Cảm



Trời mới rạng đông, nghe con heo nái trong chuồng hộc hộc, tui biết là con heo rừng nọc chiếc vô nhảy đực heo nái mình nữa rồi. Tui chộp cây mác thong, kêu con chó Nô nhảy ra. Con chó Nô là loại chó nòi, giỏi vô cùng, nhưng lúc này nó đang có chửa gần đẻ nên cũng hơi ột ệt.

Lúc tui chạy tới thì con heo nọc chiếc cũng vừa bỏ chuồng đi ra rồi. Nó to cỡ con bò, màu lông vàng hực, da lăn dầu chai, có u có nần. Vừa đi, nó vừa nghếch cái mõm như cây đàn bầu lên táp bốp bốp, nghe chẳng khác mình cầm cái mủng dừa úp lại. Hai cục bọt trắng xóa đóng hai bên mép miệng, gần chỗ cặp nanh trắng ơn, cong vút.

Thấy tui với con Nô đuổi theo sát, nó quay lại, mái đít ngồi nhìn. Mũi nó khịt khịt như gà lôi kêu. Biết là gặp tay địch thủ đáng gờm, tui đứng chân chữ đinh, cầm phân hai cây mác, nhử nhử. Con nọc chiếc tưởng tôi đâm thiệt nên hất mõm qua bên. Tui lẹ làng thu lại, đâm một nhát chí tử vào nách nó. Coi như con nít chơi, con nọc chiếc liền hất trở lại một cái trông nhẹ hều làm cán mác của tui gãy làm hai. Tui chới với suýt cắm đầu, tay chỉ còn cầm khúc cán mác, đứng xơ rơ. Thấy chủ sắp lâm nguy, con Nô nhảy vô, nhưng vừa nhập vào liền bị con nọc chiếc đánh cho một cái văng bắn ra, va vào một gốc cây tràm đánh ẳng một tiếng, quỳ xuống đẻ ra một bầy con. Tám con chó mới đẻ liền nhào tới cắn bốn cái giò heo. Con Nô tuy bị thương, nhưng lại nhảy vô chính diện. Chẳng ngờ nó lại bị con nọc chiếc đánh bồi thêm một cái nữa, làm cho sọ đầu bể làm tư. Nó nằm giãy tê tê. Thấy vậy, tui nhảy lại bứt nắm cỏ thuốc dây, dóc kiền cái đầu nó lại. Con chó ngồi dậy nghỉ một lúc cho đỡ mệt, rồi lại xáp trận nữa.

Lần này thì con nọc chiếc có mà chạy đường trời. Tám con chó con cắn bốn cái giò căng ra, con Nô táp dính cái đuôi kéo nhủng nhẳng, còn tui thì xách khúc cán mác còn lại nhắm ngay đầu nó bổ xuống. Quần nhau một hồi, con nọc chiếc mệt lả, há họng thở dốc. Nhanh như chớp, tui thọc cho nó một cán mác vô họng thấu tuốt ra sau đít. Lũ chó con còn sung sức nên sủa gâu gâu. Con Nô, tuy cái đầu mới bể được ràng lại, chưa ăn khớp hoàn toàn nhưng cũng cất tiếng sủa trợ chiến cho lũ con "cạch, cạch... cạch cạch..."2654

Con Chó Săn Dũng Cảm



Trời mới rạng đông, nghe con heo nái trong chuồng hộc hộc, tui biết là con heo rừng nọc chiếc vô nhảy đực heo nái mình nữa rồi. Tui chộp cây mác thong, kêu con chó Nô nhảy ra. Con chó Nô là loại chó nòi, giỏi vô cùng, nhưng lúc này nó đang có chửa gần đẻ nên cũng hơi ột ệt.

Lúc tui chạy tới thì con heo nọc chiếc cũng vừa bỏ chuồng đi ra rồi. Nó to cỡ con bò, màu lông vàng hực, da lăn dầu chai, có u có nần. Vừa đi, nó vừa nghếch cái mõm như cây đàn bầu lên táp bốp bốp, nghe chẳng khác mình cầm cái mủng dừa úp lại. Hai cục bọt trắng xóa đóng hai bên mép miệng, gần chỗ cặp nanh trắng ơn, cong vút.

Thấy tui với con Nô đuổi theo sát, nó quay lại, mái đít ngồi nhìn. Mũi nó khịt khịt như gà lôi kêu. Biết là gặp tay địch thủ đáng gờm, tui đứng chân chữ đinh, cầm phân hai cây mác, nhử nhử. Con nọc chiếc tưởng tôi đâm thiệt nên hất mõm qua bên. Tui lẹ làng thu lại, đâm một nhát chí tử vào nách nó. Coi như con nít chơi, con nọc chiếc liền hất trở lại một cái trông nhẹ hều làm cán mác của tui gãy làm hai. Tui chới với suýt cắm đầu, tay chỉ còn cầm khúc cán mác, đứng xơ rơ. Thấy chủ sắp lâm nguy, con Nô nhảy vô, nhưng vừa nhập vào liền bị con nọc chiếc đánh cho một cái văng bắn ra, va vào một gốc cây tràm đánh ẳng một tiếng, quỳ xuống đẻ ra một bầy con. Tám con chó mới đẻ liền nhào tới cắn bốn cái giò heo. Con Nô tuy bị thương, nhưng lại nhảy vô chính diện. Chẳng ngờ nó lại bị con nọc chiếc đánh bồi thêm một cái nữa, làm cho sọ đầu bể làm tư. Nó nằm giãy tê tê. Thấy vậy, tui nhảy lại bứt nắm cỏ thuốc dây, dóc kiền cái đầu nó lại. Con chó ngồi dậy nghỉ một lúc cho đỡ mệt, rồi lại xáp trận nữa.

Lần này thì con nọc chiếc có mà chạy đường trời. Tám con chó con cắn bốn cái giò căng ra, con Nô táp dính cái đuôi kéo nhủng nhẳng, còn tui thì xách khúc cán mác còn lại nhắm ngay đầu nó bổ xuống. Quần nhau một hồi, con nọc chiếc mệt lả, há họng thở dốc. Nhanh như chớp, tui thọc cho nó một cán mác vô họng thấu tuốt ra sau đít. Lũ chó con còn sung sức nên sủa gâu gâu. Con Nô, tuy cái đầu mới bể được ràng lại, chưa ăn khớp hoàn toàn nhưng cũng cất tiếng sủa trợ chiến cho lũ con "cạch, cạch... cạch cạch..."2654

Aug 4, 2005

Cạo nhầm râu của đứa bên cạnh



Trước hàng quân, thiếu uý quát to:
- Binh nhất John! Tại sao anh không cạo râu buổi sáng?
- Thưa sếp, tôi có cạo, nhưng có tới 9 thằng bu quanh cái gương. Chắc là tôi cạo nhầm râu của đứa bên cạnh.
2145

Aug 3, 2005

Ba điều ước



Một hôm, trong khu rừng rậm, con ếch thần nhìn thấy một con gấu đang đuổi theo chú thỏ để kiếm bữa ăn trưa. Ếch gọi cả hai con vật lại và nói: "Ta cho mỗi ngươi ba điều ước. Gấu kia! Ngươi hãy ước trước đi". Gấu suy nghĩ một phút và bởi vì nó là gấu đực nên nó ước: "Tôi ước tất cả gấu ở khu rừng này đều là gấu cái".


Đến lượt mình, thỏ liền ước một cái mũ bảo hiểm và đội ngay lên đầu. Con gấu cười khinh thị vào sự ngu dốt của thỏ vì nó đã phung phí một điều ước quý giá như vậy. Lần thứ hai gấu lại ước: "Ồ! tôi muốn khu rừng bên cạnh cũng chỉ toàn gấu cái".


Tiếp theo, thỏ ta ước một cái xe máy và ngay lập tức nổ máy. Gấu thực sự bị sốc vì thấy thỏ ước những thứ ngu xuẩn đến vậy. Đến điều ước cuối cùng, gấu nghĩ trong giây lát rồi nói: " Tôi mong tất cả gấu trên trái đất này đều là gấu cái".


Xe của thỏ bắt đầu lăn bánh và nó ngoái lại nói với theo: "Tôi ước con gấu này bị đồng tính".

455

Tài bắn giỏi



Tại vùng nọ có một anh, hễ ngồi đâu là khoe tài bắn giỏi, đi săn giỏi của mình. Một lần ngồi uống chè chát bên nhà hàng xóm, anh khoe với bà con một bận đi săn hổ hết sức li kì như sau :
- Tối hôm ấy, tôi có vào rừng săn hổ. Rình mãi, lần mò mãi, đến bên bờ suối thì thấy bên kia bờ cát trắng có một con hổ đang nằm ngủ dưới ánh trăng. Bà con có biết tôi làm gì không ?
- Lấy súng ngắm hổ chứ gì ? Có người nói.
Anh ta cười :
- Bắn làm gì cho phí đạn. Nó đang nằm ngủ kia mà. Tôi liền nhẹ nhàng lội qua suối, đi quành ra phía sau nó, rồi nhảy tới đạp một chân lên bụng nó và ngay lập tức lấy dao cắt phăng cái đuôi nó nhanh như cắt.
Một người khác ngạc nhiên hỏi :
- Tại sao anh không cắt cái đầu hổ cho nó oai ?
Với giọng không sôi nổi nhiệt tình như trước nưa, anh ta đáp :
- Cái đầu hổ ấy à ? Thằng cha nào đã cắt mất từ lúc nào rồi.

324

Aug 2, 2005

Dở Quá



Một hôm, ông giám đốc Dưỡng trí viện thấy một thân chủ đứng nhìn mười bạn đồng viện bò bốn chân khắp căn phòng hẹp. Ông hỏi:

Các anh làm gì thế?

Người đứng xem đáp:

Mấy thằng này dở quá, từ sáng đến giờ là gần trưa rồi mà làm có một việc không xong.

Ông giám đốc hỏi:

Việc gì vậy?

Thân chủ đáp:

Tôi treo giải thưởng hai khúc bánh mì cho đứa nào chun được dưới làn phấn tôi gạch ngang phòng. Chúng nó bò suốt buổi mà chun không qua.

2851

Dở Quá



Một hôm, ông giám đốc Dưỡng trí viện thấy một thân chủ đứng nhìn mười bạn đồng viện bò bốn chân khắp căn phòng hẹp. Ông hỏi:

Các anh làm gì thế?

Người đứng xem đáp:

Mấy thằng này dở quá, từ sáng đến giờ là gần trưa rồi mà làm có một việc không xong.

Ông giám đốc hỏi:

Việc gì vậy?

Thân chủ đáp:

Tôi treo giải thưởng hai khúc bánh mì cho đứa nào chun được dưới làn phấn tôi gạch ngang phòng. Chúng nó bò suốt buổi mà chun không qua.

2851

Cánh đồng bất tận








Tôi biết về Phật Giáo không nhiều, vơ được quyển sách nào thì đọc cái ấy.  Cũng có điều hiểu được, học được, làm được, nhưng nhiều điều buộc phải “bó tay”.  Ví dụ như mấy lời này: “Khi nào bạn bực tức, giận dữ, hãy bất động! Ngay tại đó! Đừng cử động! Đừng làm gì cả! Đừng nói gì – dù chỉ một lời.  Hãy yên lặng và bất động hoàn toàn.  Tuyệt đối không biết gì đến kẻ hoặc sự việc làm cho mình giận dữ” (Hạn chế sân hận, trải rộng tình thương - Tỳ kheo VISUDDHÀCÀRAZ).  Trời ơi, mình giận muốn chết, muốn gào thét, muốn cào cấu, muốn đập phá mà không cho mình nhúc nhích, sao có thể hả hê?  Đạt được đạo mới khó làm sao...


1.


Con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh đồng rộng. Và khi chúng tôi quyết định dừng lại, mùa hạn hung hãn dường như cũng gom hết nắng đổ xuống nơi này. Những cây lúa chết non trên đồng, thân đã khô cong như tàn nhang chưa rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn. Cha tôi tháo cái khung tre chắn dưới sàn ghe, bầy vịt lúc nhúc chen ra, cuống quýt, nháo nhào quẫy ngụp xuống mặt nước váng phèn. Một lớp phèn mới, vàng sẫm quánh lại trên bộ lông của những con vịt đói, nhớp nháp bám trên vai Điền khi nó trầm mình bơi đi cặm cọc, giăng lưới rào bầy vịt lại. Tôi bưng cái cà ràng lên bờ, nhóm củi.


Rồi ngọn lửa hoi hót thở dưới nồi cơm đã lên tim, người đàn bà vẫn còn nằm trên ghe. Ngay cả ý định ngồi dậy cũng xao xác tan mau dưới những tiếng rên dài. Môi chị sưng vểu ra, xanh dờn. Và tay, và chân, và dưới cái áo mà tôi đã đắp cho là một cái áo khác đã bị xé tả tơi phơi những mảng thịt người ta cấu nhéo tím ngắt.


Và những chân tóc trên đầu chị cũng đang tụ máu. Người ta đã lòn tay, ngoay chúng để kéo chị lê lết hết một quãng đường xóm, trước khi dừng chân một chút ở nhà máy chà gạo. Họ giằng ném, họ quăng quật chị trên cái nền vương vãi trấu. Vai nữ chính, một người đàn bà xốc xếch đã lạc giọng, đôi lúc lả đi vì ghen tuông và kiệt sức. Nhưng đám đông rạo rực chung quanh đã vực tinh thần chị ta dậy, họ dùng chân đá vói vào cái thân xác tả tơi kia bằng vẻ hằn học, hả hê, quên phứt vụ lúa thất bát cháy khô trên đồng, quên nỗi lo đói no giữa mùa giáp hạt. Cuộc vui hẳn sẽ dài, nếu như không có một ý tưởng mới nảy ra trong cơn phấn khích. Họ dùng dao phay chạt mái tóc dày kia, dục dặc, hì hục như phạt một nắm cỏ cứng và khô. Khi đuôi tóc dứt lìa, được tự do, chị vùng dậy, lao nhanh xuống ghe chúng tôi như một tiếng thét, lăn qua chân tôi, đến chỗ cha, làm đổ những bao trấu cha vừa mới xếp.


Đám người ngơ ngác mấy giây để chấp nhận việc con mồi bỏ chạy. Tôi mất mấy giây để háo hức thấy mình nghĩa hiệp như Lục Vân Tiên, tôi lồm cồm xô ghe dạt khỏi bờ, sợ hãi và sung sướng, tôi cầm sào chống thục mạng ra giữa sông, mắt không rời đám người đang tràn ra mé bờ chực lao xuống, nhảy nhót điên cuồng. Rồi tiếng chửi rủa chói lói chìm đi, tiếng bầy vịt tao tác kêu dưới sạp chìm đi, trong tôi chỉ có âm thanh của chiếc máy Koler4 nổ khan, rung bần bật dưới tay Điền, khạc ra những đám khói khét lẹt, đen ngòm. Khói trôi về phía sau chúng tôi, mờ nhoè những bóng người đang tuyệt vọng ngó theo, bàn tay nào đó cầm nắm tóc của chị vẫy lên phơ phất phơ phất …


Cha tôi không đóng vai trò gì trong cuộc tháo chạy ấy, ông im lặng, khi đã đi khá xa, cha ra đằng mũi cầm sào. Tôi bò vào trong ghe, lấy áo đắp lên người chị, sao cho che được đôi vú rách bươm và khoảng đùi rướm máu. Chị cười mếu máo, nói cảm ơn bằng mắt và thiếp đi.


Suốt một quãng đường, chị không hề thay đổi thế nằm, im lìm, lạnh ngắt như người chết. Trong ghe chỉ trôi mênh mang những tiếng rên khi dài, khi ngắn, khi thiu thỉu buồn xo, lúc nghe như tiếng nấc nghẹn ngào…


Nhờ vậy mà chúng tôi biết chị còn sống, để đi với chúng tôi gần hết con sông Bìm Bịp, đến cánh đồng hoang vắng này. Điền hơi lo lắng khi nghe chị vẫn còn rên rỉ, nghĩ là chị đã đói, nó hối tôi nấu cơm mau. Nó thấy tiếc vì trên ghe chỉ còn mấy con khô sặt mặn chát, “tui nuốt còn không vô, nói chi…”


Nhưng chiều hôm đó và cả ngày sau, chị không ăn. Chị từ chối cả uống nước, đợi đôi môi khô đã bắt đầu nứt ra, chị mới chịu hớp một vài ngụm ít ỏi, dường như chỉ đủ ướt môi. Đói và khát, nhưng chị còn sợ đau hơn. Người ta đã đổ keo dán sắt vào cửa mình của chị…


Tôi nói lại với cha và Điền trong bữa cơm. Tôi nghe hai người lặng đi, tiếng đũa tre khua vào miệng chén ngưng bặt. Điền ngó tôi và tôi thì đọc được sự ghê sợ, kinh tởm cồn lên trong mắt cha. Điền chan nước vào chén, lua vội vàng rồi men theo con đường đất dọc mé kinh, nó đi vào trong xóm. Tôi dặn vói theo, ghé tiệm mua giùm ngàn rưỡi đường cát.


Chắc gió đã bạt mất lời tôi, khi quay về, Điền không mang theo gì, nó lẳng lặng xòe tay trước mặt tôi, tay nó dính một lớp gì đó, bóng mượt, trong suốt, và đang khô quánh lại, khiến những ngón tay đơ ra như đá. Điền bảo, “Keo dán sắt…”. Dường như những người sản xuất ra loại keo này cũng không ngờ nó nhiều công dụng đến thế. Hai chị em tôi tỉ mẩn lột lớp keo ra, mảng da non trên bàn tay nó bỏng đỏ nhừ, tươm máu. Chúng tôi cùng ngó về chỗ khoang ghe, nghe tiếng thở thênh thang cùng gió…
 



2.


Cánh đồng không có tên. Nhưng với tôi và Điền, chẳng có nơi nào là vô danh, chúng tôi nhắc, chúng tôi gọi tên bằng những kỷ niệm mà chúng tôi có trên mỗi cánh đồng. Chỗ chị em tôi trồng cây, chỗ Điền bị rắn cắn, chỗ tôi có kỳ kinh nguyệt đầu tiên… Và mai này khi trôi dạt đến một nơi nào khác, nhắc đến cánh đồng này với cái tên của chị, chắc chúng tôi sẽ xốn xang.


Sáng sớm ngày thứ ba, chị ngồi dậy được, ngó quanh, chị hỏi, “Trời đất ơi, chỗ nào mà vắng tanh vậy nè”. Làng xóm xa xa đằng phía những rặng dừa xanh thẩm. Đồng đất trống trơn, trên đôi bờ kinh chơ vơ những cây gòn. Hai đứa nhỏ đầu mướt sương đang hí húi trộn thức ăn cho vịt, nhìn chị ngạc nhiên đến ngây ngất. Giọng nói chị không bị thương tích gì hết, trong vắt và ngọt ngào.


Chị hỏi “Tắm ở đâu, mấy cưng ?”. Tôi chỉ xuống kinh. Chị ngó những váng phèn, ngao ngán. Điền nói, đằng kia có một cái ao.


Đó là một hố bom cũ, bình bát mọc quanh, rau muống chằng chịt phủ kín mặt nước, cọng rau ốm nhằng, đỏ au. Chỗ này, hôm qua, Điền đã câu được những con cá thát lát ú mềm. Chị trầm mình dưới đó rất lâu, chẳng kỳ cọ gì, chỉ để nước lạnh chườm dịu lại những
chỗ đau. Lúc chị lên bờ, tôi thấy máu lợn cợn theo những giọt nước nhỏ xuống giữa hai đùi, chắc chị đã làm gì với chỗ keo dán ác nghiệt ấy. Rồi cũng lâu lắc, cũng cà nhắc từng bước ngắn như lúc đi, chị với tôi quay lại bờ kinh. Điền hí hửng khi thấy chị chịu mặc chiếc áo sơ-mi thẫm phèn và cái quần cụt quăn queo của nó.


Chỉ có cha lầm lì dọn cỏ quanh chòi. Chỉ có cha là hờ hững với thành quả của hai chị em tôi. Không chấp thái độ lạt lẽo của cha, chị ngó về phía người đàn ông đang vồng lưng trong nắng sớm, chếnh choáng: “Ba mấy cưng đẹp trai dễ sợ…”.


Vì lẽ đó ? Có phải vì cha mà chị ở lại với chúng tôi, trên một cánh đồng vắng ngắt. Những vết thương đã lành rất mau. Chị cười, bị đánh hoài riết cũng quen. Tôi hỏi chị làm gì để bị đánh. Chị cười, “Làm đĩ”. Rồi có lẽ chị áy náy vì quá sỗ sàng với chúng tôi, chị vò đầu Điền “chắc mấy cưng không biết đâu…”.


Điền nhìn tôi cười. Chúng tôi đã gặp nhiều, rất nhiều người phụ nữ giống chị. Cứ mỗi mùa gặt, họ lại dập dìu trên đê, lượn lờ quanh lều của những thợ gặt, những người đàn ông giữ lúa và bọn nuôi vịt chạy đồng. Họ cố làm ra vẻ trẻ trung, tươi tắn nhưng mặt và cổ đã nhão, nhìn kỹ phát ứa nước mắt. Đêm đến, sau các đụn lúa, họ thả tiếng cười chút chít, tiếng thở mơn man… lên trời, làm nhiều người đàn bà đang cắm cúi nấu cơm, cho con bú trong lều thắt lòng lại. Tối nào mua rượu cho cha, chúng tôi cũng đi ngang qua những đôi người. Chúng tôi nhận ra họ ngay, khi không còn mảnh vải nào trên người họ vẫn điềm nhiên cười khúc khích và uốn éo thân mình chứ không trơ ra ngượng ngịu, cam chịu như những người phụ nữ quê. Sáng sau, họ xiêu xiêu biến mất, đem theo mớ tiền công ít ỏi suốt một ngày làm việc quần quật của đám đàn ông.


Chị, cũng giống như họ, chớm tàn tạ, đói rã ruột ở thị thành mới chạy xuống quê, cất cái quán nhỏ, giả đò buôn bán bánh kẹo lặt vặt, thực chất là làm nghề. Ở đó đàn ông dễ tính và thiệt thà. Chị sống nhờ những món tiền họ cắm câu đêm đêm, bằng tiền bán lúa, dừa khô hay những buồng chuối chín. Cũng có lúc thu hoạch bất ngờ, khi chị mồi chài một người đàn ông vào trò chơi giường chiếu, suốt hai ngày đêm, và chị được một triệu hai. Đó là vốn vay xoá đói giảm nghèo, khi về tới nhà, với tám trăm ngàn còn lại trong túi, hẳn người đàn ông ấy não nề biết bao nhiêu, oán chị biết bao nhiêu khi thấy vợ con nheo nhóc bu quanh nồi khoai luộc trong nhập nhoạng nắng chiều.


- Ăn trên mồ hôi nước mắt của người ta nên lâu lâu bị đánh cũng đáng đời, hen mấy cưng ?


Chị nói, và ngã nghiêng cười, dường như chị thấy mình trả giá vậy cũng vừa. “Mà hên nghen, nhờ vậy mà gặp được mấy cưng, được ở chung vầy, vui thiệt vui...”.


Cha không vui, vì có thêm một miệng ăn. Bầy vịt cũng không vui, chúng mổ vào chân chị mỗi khi chị bước qua rào, “bà ở đây làm chi để phần ăn của tụi tui bị xén bớt, trong máng độn toàn là trấu ngán thấy ông thấy cha, đã vậy còn bắt tụi tui đẻ trứng để nuôi bà”. Chị nhảy xổm ra, la oai oái, sau lại cười (mà con mắt đung đưa phía cha) “mai mốt mấy con vịt quỷ này sẽ khoái chị, mấy hồi…”.


Nhưng tôi và Điền biết thể nào chị cũng ra đi, trong mỏi mòn. Quãng thời gian chị bên chúng tôi, vì thế cũng mong manh. Nhiều khi lùa vịt ăn mót một đỗi đồng, nghĩ chị bỏ đi, Điền thảng thốt chạy về.


- Mấy cưng thương chị thiệt hả ? Tội chưa… !?? ”.


Chị ngạc nhiên, thấy nước mắt ràn rụa trên má thằng Điền (mà chị không biết là nó bị bệnh chảy nước mắt sống từ hồi chín tuổi). Thật cảm động khi đời đánh ta tả tơi bầm dập, vậy mà hai đứa nhỏ này lại trìu mến, quyến luyến lạ lùng. Thêm một lý do nữa để chị ở lại với chúng tôi, trong một mùa hạn nóng bỏng, bất thường.


Mùa đến sớm. Vì vậy mà nắng rất dài. Mới rồi, chúng tôi dừng chân ở một xóm nhỏ bên bờ sông lớn mênh mang. Mỉa mai, người ở đây lại không có nước để dùng (như chúng tôi đi trên đất dằng dặc mà không có cục đất chọi chim). Người họ đầy ghẻ chóc, những đứa trẻ gãi đến bật máu. Họ đi mua nước ngọt bằng xuồng chèo, nín thở để nước khỏi sánh ra ngoài vì đường xa, nước mắc. Buổi chiều đi làm mướn về, họ tụt xuống ao tắm táp thứ nước chua lét vì phèn, rồi xối lại đúng hai gàu. Nước vo cơm dùng để rửa rau, rửa rau xong dành rửa cá. Con nít ba tuổi đã biết quý nước, mắc lắm cũng ráng chạy ra vườn đái vô chậu ớt, chậu hành (báo hại cây rụi lá). Ở đó, có người con trai bảo, “ước làm sao trước lúc má tui chết, bà được tắm một bữa đã đời”. Câu nói này làm tôi thương anh ta quá chừng. Hôm tôi đi, anh tần ngần đứng bên hè, hỏi nhỏ “Không biết em có muốn ở lại với… má tui?!”. Tôi lắc đầu, hai gàu nước ít ỏi của má anh, tôi nỡ nào sẻ nửa ?


Tôi giục cha rời khỏi cái xóm tàn tạ đó. Những cánh đồng chúng tôi qua, lúa chết khô khi mới trổ bông. Người ta không thể trồng đậu, trồng dưa vì thiếu nước. Bầy con nít giỡn nhoi trên những con kinh khô trơ lòng.


Chỗ chúng tôi cắm lều cầm vịt, nước đã sắc lại thẫm một màu vàng u ám. Nhưng chúng tôi chẳng có chỗ nào để đi nữa, từ bờ bên kia của sông Bìm Bịp là vùng đệm cho những cánh rừng tràm lớn. Mùa này, người ta lấy nước từ tất cả các dòng sông nhỏ, các con kinh để bơm vào rừng, chống cháy. Chúng tôi cũng không thể ngược sông Bìm Bịp băng qua vùng Kiên Hà, ở đó họ kiểm dịch thú y rất gắt gao. Và dịch cúm gia cầm nghe đâu vẫn còn bùng phát khắp đồng bằng.


Để bầy vịt khỏi bị chôn sống (điều đó đồng nghĩa với việc đứt vốn cho mùa sau), bọn tôi quyết định vẫn cầm chúng ở đây. Chúng được nuôi trong sự mỏi mòn. Ngày ngày, tôi lùa vịt đi ăn mót những bông lúa khô quắt queo trên đồng, không có nước chúng bì bạch, chậm rì và chẳng thể đi xa. Trứng thưa thớt, những quả trứng chúng đẻ ra cũng chai ngắt, dài nhằng, nhẹ tênh, vỏ dày sần sượng. Đòi hỏi gì nữa ở những con vịt đã già, đã đẻ quần quật suốt ba mùa trước, đã vô vọng vì ngày càng khó tìm lúa và cám trong máng thức ăn. Ngay cả nước để chúng tắm táp cũng chua lét vì phèn.


Mà, mùa mưa vẫn còn xa lắm.


Ngày ngày, Điền rủ chị đi giăng lưới, nhắp cá và tát những cái mương cạn. Cá ăn không hết, chị đem vô xóm bán và hãnh diện đưa cho cha vài mươi ngàn thừa sau khi đã sắm ít quần áo. Mắt chị nhìn cha đầy khiêu khích, “Cuộc đeo đuổi vẫn còn dài, cưng à…”.


Chị đổ lì. Chị tìm mọi cách để sà vào cha. Một bữa chị bảo Điền xuống ghe ngủ với tôi, còn chị sẽ lên chòi. Đó là một đêm tối nhờ nhờ, trôi trên trời một mảnh trăng mỏng leo lét. Điền ngọ nguậy, xoay trở liên tục, nó kêu khó ngủ, đòi nghe tôi hát, bài gì cũng được. Nhưng Điền vẫn thao thức, dường như giọng hát tôi không át được tiếng sột soạt rạo rực trong cái chòi nhỏ trên bờ. Điền chê ngủ ghe chòng chành quá chừng. Tôi biết lòng nó đang chao.


Điền có những ngày bối rối. Nó hay hỏi tôi, “người ta thương mẹ ra làm sao?”. Mặt nó dãn ra, khi biết cây kẹp tóc, trái dừa tươi hay con cá thác lác… mà nó dành cho chị cũng giống hệt như người ta vẫn thường cho mẹ. Và niềm nhớ lúc đi xa, nỗi khao khát được nằm gần, được dụi mũi mình vào da thịt người đó… cũng tự nhiên như ý nghĩ bình thường nhất của những đứa con. Nhưng những nghi hoặc vẫn loay hoay trong mắt Điền, và nó quyết định chịu đựng một mình, khám phá một mình. Thí dụ như đêm nay, cái gì khiến tim ta đau nhói, cái gì làm cho ta cảm thấy giận dữ, nặng nề ?


Khi tôi thức dậy, Điền đã mệt mỏi thiếp đi, nó nằm co quắp, hai tay kẹp giữa đùi, mặt buồn như phủ một lớp sương giá. Chị bước ra khỏi chòi, khoan khoái vươn vai. Sự ưng ý, mãn nguyện lấp lánh trên khoé mắt. Khuôn mặt chị tràn ngập ánh sánh, như chị vừa mở ra một cánh cửa mặt trời. Có một con đường nào đó trãi dài trước chị. Chị cười, bảo :


- Hồi hôm sương nhiều ghê, nó nhiểu lên mặt chị hoài, nhột gần chết.


Rồi chị giành nấu cơm. Chị xoắn tay áo lên hì hụi thổi lửa, đầu tóc xấp xãi dính đầy vảy cá. Trông chị như bà vợ tảo tần. Hình ảnh ấy làm tôi ứa nước mắt, nhưng cha tôi chỉ lạt lẽo nhếch cười. Vì cái cười đó mà tôi ứa nước mắt thêm lần nữa.


Cha đưa chị một ít tiền ngay trong bữa cơm, khi nhà đủ mặt, “Tôi trả cho hồi hôm…”. Rồi cha điềm nhiên phủi đít đủng đỉnh đứng lên, sự khinh miệt và đắc thắng no nê trong mắt. Chị nhét tiền vào trong áo ngực, cười, “Trời ơi, ba mấy cưng sộp quá chừng”.


Điền và tôi rủ chị đi câu (Chúng tôi cho là chị buồn, dù chuyện đó khá tức cười, làm điếm được trả tiền mà buồn nỗi gì). Suốt buổi, không dính con cá nào, chị nói, “Mắc cười quá, tới mấy con cá quỷ này còn chê chị”. Câu nói nghe tỉnh bơ, bâng quơ mà tủi vô phương. Điền lặng bắt con cá rô lội xuống mương, lặn sâu, móc cá vô lưỡi câu của chị. Lúc nó trồi đầu lên thì đã thấy chị cười.


Trưa ấy chúng tôi trầm nghịch dưới nước rất lâu. Chị cười nôn khi thấy bùn bám dưới mũi tôi xám xanh như bộ râu củ ấu. Tự dưng nét mặt chị bỗng âu yếm lạ, như đang nựng nịu một đứa bé con và thằng em trai mười bảy tuổi của tôi đứng đực ra, chết lặng trong nỗi ngượng ngùng. Nước cồn cào chỗ bụng nó, tôi biết chị đang táo tợn làm gì đó phía dưới. Rồi phát hiện ra một mất mát lớn lao, chị thảng thốt kêu lên :


- Trời đất ơi, sao vầy nè, cưng ?


Chị toàn hỏi những câu hỏi khó. Chỉ nghe thôi đã đau, nói chi trả lời. Thí dụ như có lần chị hỏi “Má mấy cưng đâu ?”, “Nhà mấy cưng ở chỗ nào ?”, thằng Điền đổ quạu :


- Biết chết liền!
 


3.
 


Những chiều ghe chúng tôi đi ngang qua những người đàn bà ngồi giặt giũ dưới bến sông, tôi hay hỏi lòng, có phải tôi vừa ngang qua má đó không. Tôi cố giữ trong lòng hình ảnh má nhưng rồi ngày càng tuyệt vọng khi thấy nó nhạt nhòa dần, cứ nghĩ mai này gặp lại mà không nhận ra nhau, lòng nghe buồn thiệt buồn.


Má tôi hay mang xoong chảo ra bực sông chùi lọ nghẹ, sẵn đón ghe hàna(bông mua ít rau cải tươi và bán lại những quày chuối chín bói trong vườn. Dần dần, buổi chiều, đám thương hồ hay lại neo ghe chỗ mấy cây mấm trước nhà. Một người bảo không sao xa được người đàn bà có cái cười làm lấp lánh cả khúc sông. Má tôi nguýt dài :


- Dóc…


Người đàn ông cười hề hề, thề “ Tôi nói láo cô Hai cho xe đụng chết ngắc” (Ngay lập tức, Điền thì thầm, “thằng chả ở dưới ghe kiếm đâu ra chiếc xe, nói dóc…”, và bằng cái vẻ ác cảm lạ lùng, thằng Điền biểu tôi nhìn khuôn mặt và tấm lưng trần chi chít những nốt ruồi của ông ta, bảo “Tại hồi đó má ổng mới sanh ổng ra quên lấy lồng bàn đậy, nên ruồi bu tùm lum”).


Cho dù người đàn ông ấy có quá nhiều nốt ruồi, cho dù chẳng cao ráo, đầu ít tóc… nhưng với chiếc ghe chở đầy vải vóc, những người đàn bà lam lũ quê tôi vẫn thường trông ngóng ông ta. Tất cả họ đều trở thành trẻ thơ khi bước chân lên ghe, họ tíu tít, háo hức, họ thèm muốn đến bồn chồn rồi dùng dằng trở lên bờ với tâm trạng tiếc nuối, ngậm ngùi, thấy mình già khi ngang qua bồ lúa vừa hót bớt một lỏm, thằng cha bán vải lấy mấy giạ mà như khứa một ít tuổi xuân đi. Cả đời, cái bồ lúa luôn làm lòng họ đau đáu, khi nghĩ tới bệnh tật, chuyện cất lại cái nhà, hay dựng vợ gã chồng cho con cái.


Bồ lúa nhà tôi đã cạn từ sau Tết. Điều đó làm má tôi hơi buồn, nhưng người bán vải xăng xái bảo, “Cô Hai cứ coi đi, không mua cũng được – rồi ông ta sửng sốt khi thấy má rạo rực khi ướm thử những khúc vải rực rỡ lên người – Chèn ơi, coi nó bình thường vậy mà khoác lên mình cô Hai lại thấy sang quá trời”. Má bỗng nhiên thắc thỏm :


- Dóc…


Tôi chưa bao giờ thấy cái màu đỏ lạ lùng ấy. Đỏ hơn bông bụp ngoài sân, đỏ hơn máu. Má ngó chúng tôi, hỏi: “Gì mà nhìn trân trân vậy hai đứa ?”. Tôi nói, “Má lạ quá hà, nhìn không ra”. Má mừng quýnh, “Thiệt hả ?”. Tôi muốn khóc quá chừng, má con xa lạ với nhau mà sao lại mừng ?


Một bữa tôi chiêm bao, chẳng đầu chẳng cuối gì, chỉ thấy vía má giãy dụa trong tấm vải đỏ lạ lùng kia nhưng nó thít chặt, riết lấy, siết dần cho tới khi má thành một con bướm nhỏ, chấp chới bay về phía mặt trời. Giật mình thức dậy mới hay mình ngủ quên trong kẹt bồ lúa, con chó Phèn ngoài hè nôn nóng cào đất rột rẹt chỗ cái lổ chui (Chắc má tưởng hai chị em tôi đi chơi nên chốt cửa trước cửa sau mất rồi). Mà Điền ngồi ém ngay đó, lì ra, không cục cựa, mình nó mướt mồ hôi, không có vẻ gì là nó đang khóc, nhưng nước mắt chảy ròng ròng. Tôi ôm đầu nó, giấu ánh nhìn của nó vào ngực mình.


Đứa mười tuổi quay lưng lại, đứa chín tuổi úp mặt vô áo chị nó, nhưng cả hai vẫn như thấy rõ ràng, trên chiếc giường tre quen thuộc, má oằn uốn người dưới tấm lưng chơm chởm những nốt ruồi. Họ cấu víu. Vật vã. Rên xiết.


Đó là hình ảnh ấn tượng cuối cùng của má tôi trên nền một cái nhà nhỏ, đằng trước có bộ bàn chữ U, bộ vạc tre, rồi đến một cái bồ lúa nhỏ dựng gần giường ngủ, và gian bếp thấp. Quanh hè, dài theo những lối đi ra vườn, ra bến là những cục đá tảng, những thân dừa chẻ hai, cha tôi đã hì hục lót để suốt một mùa mưa, chân má tôi không bị dính sình bùn.


Suốt nhiều năm sau đó, tôi không dám nhớ má, bởi ngay vừa khi nghĩ đến má, ngay lập tức hình ảnh ấy hiện ra. Theo đó là rực rỡ trên da thịt màu vải má tôi vừa đổi được (không phải bằng tiền, hay lúa). Mà, đáng lẽ phải nhớ tới khúc má nằm võng hát đưa mình ngủ ấy, hay đoạn má ngồi giặt áo bên hè, hay má cúi đầu giữa vầng khói mơ màng, thổi lửa bếp ung…


Má có rất nhiều hình ảnh đẹp, và cả khuôn mặt lo lắng của má khi chiều ấy vẫn còn đẹp, nhìn thấy nước mắt không ngừng tuôn rơi trên mặt thằng Điền, má thảng thốt hỏi : “Mèn ơi, mắt con sao vậy ?. Tôi trả lời, day day chậm rãi, “Chắc tại nó nhìn thấy chuyện bậy đó, má. Trưa nay nó ngủ kẹt bồ lúa”. Má chết lặng nhìn tôi, cái nhìn như lịm đi trên khuôn mặt đẹp não nề. Không thể giải thích vì sao tôi lại hể hả.
Và tôi luôn nghĩ rằng chính vì câu nói đó mà má tôi ra đi.


Tôi chạy qua nhà hàng xóm, nói với thím Tư rằng má đi mất tiêu rồi. Cả xóm tưng bừng, kẻ mừng vì vợ mình chưa bỏ theo trai, người vui vì con đàn bà đẹp nhất xóm đã đi rồi, khỏi lo ông chồng suốt ngày thòm thèm dòm ngó, cũng có người buồn, ghe vải chắc chẳng quay lại xóm này. Mọi người bàn ra tán vào, xôn xao, bắt tôi nhớ lại coi trước lúc đi má tôi có hành động gì đặc biệt mang tính dự báo không? Chuyện này quan trọng lắm, nó cho người ta tự kiểm tra trình độ trải nghiệm, suy đoán. Thí dụ như nhà nào có người mới mất họ kêu lên, hèn chi đêm trước có nghe chim cú kêu, thê thiết lắm. Thí dụ như nhà nào bị mất trộm, họ bảo nhau, hồi hôm tui nghe tiếng chó sủa thiệt kỳ, là tui nghi rồi… Nhưng chuyện ra đi của má tôi không mấy ly kỳ...


- Hồi chiều má con không nấu cơm…


- Vậy sao ?


- Má con nằm trên giường thở dài…


- Vậy hả ? Thở ra làm sao ?


Tôi hết biết tả. Tiếng thở thườn thượt, nghe buồn mênh mông, chảy từng giọt như nước mắt. Má tôi thở dài khi ghe cha ghé bến vì biết mai mốt cha lại đi. Má tôi thở dài khi tắm, khi nước trôi dài trên làn da trắng như bông bưởi. Lúc ngồi vá những bộ quần áo cũ. Mỗi lần ghe vải ghé trước bến, má cũng thở dài, tay bối rối nắn vào hai túi áo mỏng kẹp lép. Thở dài cả khi thằng Điền bảo cho con xin tiền mua kẹo, má ơi.


Mọi người không thất vọng, họ cho thời gian lùi lại xa xa, thì ra cũng đã có điềm báo trước mối nhân duyên này tan rã, ngay cái bữa đầu tiên, ngay lần gặp đầu tiên. Má tôi ngồi khóc bên bực con sông Dài, cha tôi chèo ghe đi ngang, đã qua khỏi một quãng nhưng vì mủi lòng, cha quay mũi lại. Cha hỏi, cô về đâu tôi cho quá giang. Má tôi ngước lên, mặt ràn rụa nước, “tôi cũng không biết về đâu”. Cha tôi chở người con gái tội nghiệp này về nhà, và trong thời gian suy nghĩ tính coi mình đi đâu, má yêu cha mất rồi, sau đấy thì đẻ hai chị em tôi. Rõ ràng, quá rõ ràng, thấy chưa, má tôi chỉ quá giang một khúc đời rồi đi, ai cũng linh tính vậy, chỉ cha tôi là không, nên bây giờ mới khóc hận, cười đau.


Tới đây thì hết chuyện nói, hàng xóm ra về. Giống hệt như vừa tan đêm hát, họ xì xào đi vào trong đêm, tiếng chó sủa rộ lên dài theo những con đường xóm. Tôi và Điền nằm nhìn trân tráo lên nóc mùng, nghe gió hui hút trên những ngọn tre già bên hè. Một hồi, thím Tư qua, thím kêu hai chị em tôi qua nhà thím ngủ.


Sáng sau, thím đi chợ, tới bến tàu, cho hay “Vợ Út Vũ bỏ nhà. Theo trai” Ông chủ chiếc đò chạy tuyến Hưng Khánh nói lại với mấy bà bạn hàng, và chiều lại cha tôi mới nhận được lời nhắn ấy khi đang lên đòn dong cho một ngôi nhà gần chợ Hội. Nghe nói cha tôi còn cười, giọng ra vẻ giận, “Bộ hết chuyện giỡn rồi sao, cha nội ?”. Có vẻ khó tin, khi một người nghĩ rằng, chỉ cần mình hết lòng yêu thương, gánh hết sự kiếm sống nhọc nhằn thì sẽ được đền đáp xứng đáng. Có vẻ buồn cười… Và cha tuột xuống đất, run rẩy…


Quãng hành trình về nhà có vẻ rất dài và khắc nghiệt, nó vắt kiệt cha tôi. Cha cười cay đắng, khi thấy quần áo má còn treo trong nhà, còn cả cái khăn tắm và đôi dép Lào cũ, như thể má đang chơi bên xóm, chỉ cần thằng Điền kêu má sẽ xấp xãi chạy về, mừng húm hỏi “Đi chuyến này nữa là đủ tiền mua ti vi màu, phải hôn anh ?”.


Coi kỹ thì má không đem theo gì. Chi tiết đó làm đau lòng người ở lại, nó cho thấy người đi đã chẳng suy nghĩ, đắn đo, đã không một chút trù trừ, chỉ rũ mình cái rột, sạch trơn, vậy thôi.


Cha đem tất cả đồ đạc của má đem đốt. Khói bay mù mịt trong nhà, mùi vải, mùi nhựa cháy khét lẹt, những cái áo hồng áo tím rúm ró lại, chảy thành những giọt tro. Cha nhìn ngọn lửa, mặt đanh lại, rồi mắt bỗng rực lên, ngây ngất vì một ý nghĩ mới lạ.


Chúng tôi dong ghe đi, quặn lòng ngoái lại căn nhà đang quay quắt dãy dụa trong lửa đỏ. Nghe vẳng theo âm thanh lốp bốp rất giòn của những thanh gỗ cháy, và tiếng xóm giềng í ới gọi nhau. Chắc chắn sẽ có người vỗ đùi cái đét, “Hồi hôm qua, ngó cái mặt u ám của Út Vũ, tui nghi thể nào thằng chả cũng đốt nhà. Nghi đâu có đó, thiệt là y như để vậy, các cha”.


Kể nhiều chuyện như vậy là để trả lời chị, nhà tôi, má tôi, rốt cuộc đã trở thành tro bụi mất rồi. Nên khi hết mùa lúa chín, những người nuôi vịt chạy đồng khác đã trở về nhà còn chúng tôi lại tiếp tục lang thang.


Đàn vịt đưa chúng tôi đi hết cánh đồng này đến cánh đồng khác. Đôi khi không hẳn vì cuộc sống, chúng là cái cớ để chúng tôi sống đời du mục, tới những chỗ vắng người. Ở đó, ít ai phát hiện ra sự khác thường của gia đình tôi, và ít hỏi cái câu, “Má mấy đứa nhỏ đâu?”. Để cha phải buột lòng nói “chết rồi!” và cười lạt khi nghe người nào đó kêu lên : “Mèn ơi, tội hai đứa nhỏ hôn”.


 


4.


Lần đầu tiên hai chị em tôi lạc giữa đồng. Cơn mưa buổi xế chiều làm tắt rụi ánh mặt trời, và đêm tối nhanh chóng ập xuống. Mưa giăng bốn bề, những rặng vườn trở nên xa vời, mờ mịt, căn lều và chiếc ghe của mình nằm ở phía nào vậy ta, Điền hoang mang hỏi. Chúng tôi lội xom xom xuống một mé vườn và rã rời tuyệt vọng xua bầy vịt quay ra. Cha tôi đã bỏ về ghe từ giữa trưa, có thể cha đã uống rượu say và ngủ mất tiêu. Có thể cha còn thức nhưng cha không đi tìm. Khóc đã đời, một hồi, thấy trời ngày càng tối, chúng tôi quyết định buông trôi, tha thểu đi theo bầy vịt, biết đâu…


May sao, chúng nhớ đường về. Khi nhìn thấy ánh đèn chong leo lét đầu ghe, chúng tôi mừng như chết đi sống lại, Điền nắm tay tôi chạy như điên, nước đồng văng sáng trắng. Bầy vịt tao tác một phen (báo hại đêm đó tụi nó nín đẻ). Cha tôi ngồi chờ bên cạnh cây roi.


Sau này, đã tự học cách định hướng bằng bằng mặt trời, bằng sao đêm, bằng gió, bằng ngọn cây… nghĩ tới lần lạc đồng, thấy cười quá chừng. Mắc cười hơn là Điền, vốn rất sành sỏi đường đi nước bước, lại bị lạc lần nữa, giữa ban ngày. Nó loay hoay ở giữa một gò đất chùm gọng leo dày mịt, không biết vô đó bằng đường nào nhưng chẳng thể quay ra, có người đàn bà bưng rổ bánh quy lại, biểu nó ăn. Đói quá, thằng Điền ngốn gần chục cái. Lúc tôi tìm được nó nhờ tiếng rên ư ử, bụng nó đã lặc lè, và miệng đầy sình đất. Quay đi quay lại không có bóng người, chỉ có cái mả lạng nằm sát đất, rời rợi cỏ xanh.


Những ngày sau này, tôi một mình trở lại gò đất, nhưng chờ hoài không thấy ma hiện ra. Nghe thằng Điền kể, người đàn bà đó thiệt hiền, chỉ đau đáu vuốt tóc nó và ánh nhìn chan chứa thương yêu. Tôi nghe mà khóc muốn chết, sao con ma đó không chịu giấu tôi giùm cái.


Rồi tôi ngồi quẹt tay lau nước mắt đi, kỹ càng, để gương mặt an nhiên, ráo hoảnh. Tôi quyết không để cha thấy mình buồn, quyết không để cha bật ra cái câu “Chịu hết nổi cái cảnh sống này rồi hả ? Chừng nào đi ?”.


Cha vẫn thường đánh chị em tôi, thường đánh khi vừa ngủ dậy. Đó là khi người ta thấy hoang hoải, chán chường, sau một giấc dài, mở mắt ra, vẫn gió đìu hiu, vẫn nắng võ vàng trên những cánh đồng hoang lạnh. Và tôi tự nhớ lại coi hồi sáng này, hồi trưa này mình đã làm gì giống má, kho cá bỏ quá nhiều tiêu? Hay vì tôi buộc tóc nhong nhỏng? Hay tại tôi ngồi bắt chí cho thằng Điền ?


Hay tại tôi càng lớn càng giống má. Có bữa, nửa đêm thằng Điền thức giấc, nhìn thấy tôi day lưng lại lui cui vá áo, nó thảng thốt kêu “Má ơi!”. Tôi cảm thấy mình thất vọng đến rã rời. Những thói quen, những cái gì liên quan đến má tôi phủi gần sạch rồi, nhưng tôi làm sao có thể từ bỏ hình hài này.


Tôi đành để cha đánh để ông bớt đau chút lòng. Sau này chị em tôi không day dứt chi cho mệt, vì hiểu thấu ra, mình bị đòn chỉ vì là con của má, vậy thôi.


Với chúng tôi, quãng thời gian ấy vẫn còn vui lắm, sau này, cha tôi chán không đánh nữa. Cha ơ thờ, lạt lẽo, chuyện gì cần nói thì nói vài câu nhát gừng. Cha giao bầy vịt cho hai đứa tôi, lúc rảnh ngồi gọt đẽo những cán dao, tấm thớt hay lẳng lặng vác cần câu đi câu cá, vừa bán được tiền, vừa khỏi phải nhìn những đứa con của một bà mẹ bạc lòng. Thành ra, cái ghe thấy nhỏ, lại rộng vô cùng tận, loay hoay chỉ ba con người, nhưng nhiều năm trôi qua, hai chị em tôi vẫn cảm thấy xa cách cha. Có lần, khi đi trên sông, thằng Điền giả đò té chìm ngỉm mất tăm, tôi giả đò kêu la chói lói, cha hơi giật mình hoảng hốt, dợm lao xuống nước, nhưng rồi cha điềm nhiên ngồi lại, tiếp tục gọt đẻo, chắc là nhớ ra thằng Điền đã lặn lội nước sông từ năm bốn tuổi, sức mấy mà chết trôi.


Chúng tôi biết là khó đòi hỏi gì hơn nữa, chỉ một chút xao lòng của cha, là mừng lắm rồi. Cha giống như đồ vật bằng gốm vừa qua cơn lửa lớn, vẫn hình dáng ấy nhưng đã rạn nứt, nên chúng tôi chỉ dám đứng xa mà nhìn, mủ mỉ nâng niu, nếu không thì vỡ mất.


Và chiếc ghe, cánh đồng, dòng sông thênh thang mãi…


Tôi và Điền buộc phải tự học lấy cách sống. Nhiều khi dễ đến không ngờ… Nhờ Điền bị rắn hổ đất cắn mà chúng tôi biết được cách phân biệt vết răng của rắn độc. Nó để lại trên cổ chân Điền một cặp vết răng như hai cái lổ nhỏ, sâu hoắm. Tất nhiên, phải nhờ người thợ gặt tốt bụng vác thằng Điền chạy một đỗi đồng để tới ông thầy lấy nọc rắn, nó mới giữ được cái mạng để rút… kinh nghiệm. Sau này, một lần băng qua một đám cỏ dày, đến lượt tôi bị rắn cắn, tôi kêu, Điền ơi, chắc Hai chết trước à. Thằng Điền nhìn vết thương nó cười, nói không sao, số Hai sống lâu lắm, hai hàng răng tươm máu giống hệt nhau như vầy, chắc cú là rắn bông súng cắn chơi thôi. Và nhìn bướm bay, nhìn mây trôi tôi biết ngày nắng hay mưa. Nghe bìm bịp kêu chúng tôi biết nước lên. Dừng ghe ở một tuyến kinh nào, thằng Điền trèo lên ngọn cây cao, ngó bao quát cánh đồng và tính toán xem có thể cầm vịt ở đấy bao lâu thì hết thức ăn, đúng chóc. Hay chúng tôi tự phán đoán ở đâu vụ mùa đến sớm, vùng nào lại trễ tràng để rời cánh đồng này, chúng tôi đến ngay một cánh đồng khác, ngay khi lúa vừa chín tới.


Thành ra, mùa du mục của chúng tôi kéo dài liên tục từ mùa mưa sang nắng, rồi lại mưa. Nhiều lúc tôi hơi nhớ con - người. Họ ở trong cái xóm nhỏ kia, chỉ cách chỗ chúng tôi dựng trại vài ba công đất. Họ lúc nhúc trên thị trấn kia, nơi chúng tôi vẫn thường ghé lại mua gạo, cám, mắm muối… dự trữ cho những chuyến chạy đồng xa. Và họ ở gần ngay đây, họ vừa gặt lúa vừa nói chuyện tục tĩu rồi cười vang bên bầy vịt đang rúc rích tìm thức ăn, nhưng tôi vẫn nhớ...


Có lẽ vì cuộc sống của họ ngày càng xa lạ, với chúng tôi. Họ có nhà để về, chúng tôi thì không. Họ sống giữa chòm xóm đông đúc, chúng tôi thì không. Họ ngủ với những giấc mơ đẹp, chúng tôi thì không. Nằm chèo queo, co rúm, chen chúc nhau trên sạp ghe, chúng tôi đánh mất thói quen chiêm bao. Điều này làm tôi và Điền buồn biết bao nhiêu, vì cách duy nhất để được nhìn lại hình bóng má cũng tan rồi. Mà, thí dụ như những cơn chiêm bao quay trở lại, chúng tôi không biết chắc là hình ảnh ấy của má có xuất hiện hay không.
 


5.
 


Mùa khô năm tôi mười ba tuổi, bầy vịt lăn ra chết gió. Để kiếm sống, cha tôi quay lại với nghề thợ mộc. Cha nhận đóng giường, tủ cho một vài nhà trong xóm Bàu Sen, chúng tôi neo ghe lại đó dài ngày.


Cái cảm giác đang ở xóm cũ (có ngôi nhà cũ) vây riết lấy chúng tôi (chữ “chúng tôi” tôi không kể cha vào). Những trưa xế ngồi ngoài hàng ba một nhà trong xóm, tôi tước lá dừa thắt cào cào châu chấu, Điền ngó nắng rưng rưng ngoài sân, nói “sao gió ở đây giống hệt gió nhà mình”. Hai đứa tôi muốn khóc.


Chị chủ nhà ngần ngại nói với cha, “Ngó mặt hai đứa con anh thấy thương quá, thấy… không bình thường”. Cha tôi cười nhẹ, “Vậy hả ? Ờ ờ…”.


Đứa con gái chị chủ nhà trạc tuổi thằng Điền, rủ chúng tôi vào nhà chơi. Nhưng nó luôn nhận được những cái lắc đầu. Chúng tôi sợ quá cái bồ lúa trong nhà, hình ảnh nó làm cả hai chị em ngạt thở. Thật lạ làm sao, khi mà chúng tôi đã quen dần với những - hình - ảnh - giống - mình (tức là bị bỏ giữa đời chơi vơi), thí dụ như nhìn một chiếc đũa gãy, cái nắp nồi vỡ, hay bầy gà con lạc mẹ nhao nhác… Nhưng không quên được, cái bồ lúa ngai ngái mùi cứt trâu, giữa nó và vách nhà là một khoảng hơi tối nhưng rất thu hút trẻ con. Chúng hay giả bộ đó là nhà của riêng chúng, để bày biện, nấu nướng, đóng vai chồng vợ, vai má con. Để lúc bị đòn, chúng cũng chui tọt vào đó, khóc một mình, nhiều khi ngủ quên luôn (và người lớn thì hãi hùng, sao không thấy đứa nhỏ đâu, nó bỏ đi về ngoại, nội? hay đã vô ý trợt chân té xuống đìa ?). Cái kẹt bồ lúa, cũng đã từng là thiên đường mơ mộng của hai chị em tôi, bẻ trái trứng cá làm cơm, muổng dừa là chén, giả đò “ăn” no, giả đò tối rồi, đi ngủ, một bữa kia chơi chán lăn ra ngủ thiệt, thức dậy bỗng thấy cuộc đời mình thay đổi quá trời đất, như đã sống qua một kiếp rồi. Nhưng chín mười tuổi đã đủ để gọi là một kiếp người chưa ?


Chúng tôi chẳng phải những đứa trẻ bình thường, cuối cùng nhỏ con chị chủ nhà cũng nhận ra, nó bỏ mặc. Nó là một đứa trẻ xinh đẹp nhưng hỗn hào, cái kỉnh, nó chẳng khi nào kêu má ơi má à, khi cần, nó chỉ cộc lốc bảo, tui đói bụng quá bà ơi. Người mẹ phân bua với cha tôi, “Tại ba nó mê theo vợ bé nên không ai dạy…”.


Chị cũng bận rộn, te tái cắp nón đi suốt, tìm ông thầy này, bà cốt kia, để thỉnh bùa chú cho ông chồng quay lại. Và mỗi khi thất bại, chị lại quả quyết là bùa của tình địch mạnh hơn. Nói như vậy dường như để cho tâm bớt đau trước sự thay lòng. Chị có cả một kho tàng về chuyện đồng cốt, những người có khả năng thấu đáo cõi âm, cõi trời và cõi người. Họ biết chữa bệnh (có thể lấy từ bụng ta ra một nùi tóc với cái lưỡi dao cạo, hay dùng hột gà luộc lăn trên da thịt ta, sau đó bẻ cái trứng ra cho ta coi một nhúm lông… chó mực), cũng biết dùng những tấm bùa được vẽ bằng máu… lưỡi để ếm chết người và cuối cùng, họ đem được người ta yêu trở lại. Chỗ này khá mắc cười, bởi tấm bùa có linh nghiệm thiệt thì người quay về cũng không phải của - mình. Những săn sóc nâng niu, những lời nói ngọt ngào… tất cả đều không thật (mình biết tỏng tòng tong là nhờ bùa ngãi chớ thương yêu gì). Và cái cười dịu dàng kia, ánh mắt ấm áp kia, nụ hôn ngọt ngào kia, vòng tay nồng nàn kia… cũng vậy. Đó là chưa kể phải thoi thóp lo âu một ngày bùa thiêng hết tác dụng, thằng đàn ông rùng mình một cái, ngơ ngác hỏi ủa, sao hai đứa mình nằm chung giường vậy, xin lổi nghen, chắc tại hồi hôm tui xỉn quá nên chui ẩu vô mùng bà. Rồi ông ta nhìn vẻ mặt đau đớn của mình, kinh hoàng: “Trời đất ơi, bộ tui đã làm gì bậy bạ sao ?”. Tất cả sẽ chấm dứt ở đó, ông nọ phủi sạch những ngày tháng mặn nồng. Với ký ức trống trơn, họ phơi phới ra đi, còn mình thì nhớ hoài, đau hoài…


Nhưng chẳng tin vào bùa thì còn biết làm gì nữa, chị cũng đã lặn lội tới nhà tình địch, đã xé quần áo của cô ta, xởn tóc, lôi xểnh ra biêu riếu giữa chợ rồi, chị kể. Bằng cái giọng rộn rã, giòn tan chỗ cao trào, rồi chị hết sức chậm rãi, tỉ mỉ, tả cái đoạn chị dùng dao rạch mặt cô ta và xát muối ớt vào (những người quê mình vẫn thường làm chuyện đó rất bình thường, sẽ buồn cười khi có ai đó nói làm vậy là vi phạm điều X chương Y luật hình sự, họ cãi ngay, “Ủa, nó cướp chồng tui thì tui phải đánh cho tởn chớ”, với vẻ mặt tự hào ngút ngất, tỉnh bơ, ngây thơ, tựa như một người đi qua trận địa cũ và nói với ông bạn mình, hồi năm bảy hai tui bắn thằng lính cộng hòa ở chỗ này, óc nó nát như chao, con mắt văng ra xa cả thước. Ông bạn chẳng ớn, nói tôi cũng cắt cổ thằng Mỹ ở đây chớ đâu)


Sau đận đó, chồng chị bỏ ngay cô nhân tình này và trớ trêu, anh ta chạy theo… cô khác. Ba mùa lúa rồi chị ra đồng một mình. Một mình nuôi con. Một mình nhìn gương, tự ve vuốt và yêu lấy mình…


Cái sàn lãn sau nhà đã ba năm vắng bóng đàn ông. Một chiều chúng tôi đến, xẻ mấy cây đố xong, cha ra đó tắm. Nước chảy re rắt trên khuôn mặt lạnh lùng, nước mỏng tang tràn qua những thớ thịt đỏ au của cha tôi. Chị chợt giật thót người, cài vội chiếc nút áo bung ra vì không chịu nỗi đôi vú căng tức.


Ngay lập tức, tôi có cảm giác câu chuyện về những lá bùa vẽ nhì nhằng chị dấu trong áo gối, ém dưới chiếu, hay kẹt giường… không còn ý nghĩa gì hết. Chị cũng sững sốt khi nhận ra điều đó. Giường đã làm xong, đáng lẽ chúng tôi phải dời đi, nhưng chị chủ nhà muốn đóng thêm hai cái tủ nữa. Chị thuê hàng xóm xuống ao mò lên những thân gỗ đã ngâm lâu và chở tới xưởng cưa. Rõ ràng là chị không chuẩn bị trước, rõ ràng chị muốn giữ cả nhà chúng tôi lại.


Chúng tôi được đối xử rất tử tế, ngoài hai bữa cơm, buổi trưa, chị hay đãi thêm nồi chè, hay khoai luộc. Chị nồng nhiệt bảo chúng tôi lên nhà ngủ, nhà rộng rinh như vầy không cớ gì phải ngủ ghe. Cha tôi trù trừ nhưng rốt cuộc cũng gật đầu (với một thoáng giễu cợt), thật không nỡ chối từ một tấm lòng như thế.


Tôi và Điền ở lại ghe, tôi nói, ngủ ở đây gió mát quen rồi, với lại, tụi tui phải giữ đồ. Nói tới chỗ này tôi mắc cười muốn chết, chiếc ghe tơi tả, đáng giá gì đâu mà giữ. Có mấy ông thống kê gì đó làm chứng, mấy ổng đã ngao ngán như thế nào khi thấy chỗ ở ngang mét hai dài ba mét mốt cho ba nhân khẩu, điều tra thêm thì phương tiện nghe nhìn giải trí chỉ cái radio trị giá mười bốn ngàn, nguồn nước sinh hoạt từ sông, thu nhập ờ thì vài ba triệu một năm, tuỳ vào ông trời, như năm nay, thì trắng tay…


Và ngó lại cái khạp da bò nứt, trong rỗ úp vài cái chén sành, một thùng giấy chứa quần áo cũ… thấy mình lấy cớ giữ đồ hơi vô căn cớ. Nhưng chị chủ nhà không để ý, chị đang ưng bụng, ngây ngất tràn trề trong mắt. Và cha tôi lên đó, một mình.


Tôi ôm quắp thằng Điền nghe những con sóng nhỏ lách tách vỗ vào mũi ghe, nói, Hai nhớ trường học quá à, cưng (Ôi cái trường xiêu dựng trên khu vườn chùa đầy cây thuốc, có ông thầy trẻ tuổi hay vò đầu tôi và xao xuyến hỏi, má khoẻ hôn con ?). Thằng Điền hỏi lại, “Mắc gì mà nhớ ? Lãng òm…”. Tôi không biết, tôi đã ngưng nhớ nó từ khi sống cuộc sống trên đồng, nhưng đêm nay, sao tôi lại nghĩ tới, cả chuyện kiếm tiền để chữa mắt cho Điền (tôi vẫn nghĩ, sự xuất hiện của nước mắt chỉ có ý nghĩa khi người ta khóc). Đêm nay, tôi sao thế này ? Vì nhìn thấy niềm hy vọng ư ?


Và tôi ngủ trong nỗi xốn xang.


Lúc thức dậy thì hy vọng cũng thức theo, sáng hôm đó, tôi thấy cha trút bỏ vẻ lầm lũi thường ngày, mắt ông hay rực lên, nói cười rất lạ, dường như cha bừng tỉnh nhận ra giá trị của mình, tìm thấy con đường sẽ đi. Những suy nghĩ cồn cào làm cho vẻ mặt cha lung linh như bầu trời nhiều mây và gió. Thoắt quang đãng thoắt âm u, thoắt khoái trá, thoắt đau đớn…


Chị chủ nhà cũng thất thường, đang tươi hơn hớn bỗng bần thần khi thấy cha đóng xong một cái tủ nữa rồi. Chiếc tủ chén này, cha mất năm ngày mới hoàn thành, nhưng không sớm hơn được, vì chị chủ nhà lúc thì bưng nước ra, lúc lại kêu nghỉ tay ăn bánh, anh thợ à. Nhiều lúc chơi ngoài hàng ba, nghe tiếng bào trượt trên ván ọt ẹt ngừng lại, buổi trưa im phắc. Và đống dăm bào bị dẫm tạo ra âm thanh lạo xạo lao xao lào xào. Chúng tôi biết chị đang ở ngay chỗ cha.


Không hiểu sao tôi lại nghĩ chị chủ nhà chính là hy vọng để chị em tôi trở về cuộc sống bình thường với một người - cha - bình - thường. Chúng tôi luôn tạo cơ hội, khoảng trống cho chị gần gủi với cha. Cực nhất là phải rủ rê lôi kéo nhỏ con chị chơi với chúng tôi, thằng Điền khó chịu, “đồ con nít…”. Tôi cười, “thôi, kệ nó…” mà lòng nghĩ, biết đâu mai mốt con nhỏ này với mình là một gia đình. Biết đâu đó là một mối tình dài.


Nên tôi thấy hơi lo khi cha sắp hoàn thành chiếc tủ áo cuối cùng. Buổi chiều, cha xin những mảnh cây ván vụn đắp vá lại mui ghe. Nghĩa là chúng tôi sẽ tiếp tục đi. Chị chủ nhà ủ ê, suốt buổi chị giằm đũa vào chén cơm nguội ngắt. Cha nhìn chị, cười nhẹ, rồi hỏi khẽ khàng :


- Cô đi với cha con tôi nghen ?


Như chờ đợi chỉ có thế, chị gật đầu, mặt tở mở và rạng rỡ, gần như không suy nghĩ gì (Má tôi cũng đã từng chọn lựa nhanh như thế sao ?). Tôi bất giác ứa nước mắt, rồi nhận thấy cha đang nhìn mình, tôi bệu bạo cười, “cắn trúng cái lưỡi đau quá trời”.


Chị chủ nhà bắt đầu sống với những giây phút bồn chồn, chị loay hoay, te tái tới lui. Chị kiếm lủ khủ giỏ xách, những muốn gói ghém thật nhiều đồ đạc nhưng nhận ra chiếc ghe chẳng chứa nổi, nên quăng phẹp một bên. Cuối cùng, chị đưa nhỏ con về chơi bên ngoại, và trong lòng chị em tôi bùi ngùi tiễn nó đi như đưa tiễn một cuộc đời. Mai nó vẫn sống, nhưng mà sống khác. Rồi chị quay lại, ra bực sông, ngồi đắm đuối nhìn ngôi nhà của chúng tôi, “những ngày sắp tới của mình ra làm sao, ta?”.


Dễ hình dung lắm. Như chỗ cái sạp xỉn màu tôi đang giặt vải lau đây sẽ là nơi chị sẽ ngủ, sáng ra chị vẫn không phải rời chỗ ấy, vì chỉ cần ngồi dậy, day mặt ra phía sau là đụng bếp, là có thể nhen lên một lọn khói buồn teo. Mấy đêm đầu có lẽ không quen, vì phải nằm chèo queo, ghe thì chao sóng. Mấy đêm đầu chắc chị hơi ngại ngùng, mắc cỡ vì ở ghe không có vách ngăn, vì thế chị em tôi sẽ cố ngủ thật say, ngáy thật to để át những tiếng thở hổn hển, dìu dặt. Chị cũng sẽ mất khá lâu để thích hợp với nhiều hình ảnh mang tính ước lệ, thí dụ như mấy bụi hành ngò trồng trên cái xô bể (thay vì khu vườn cây cỏ hoa trái mênh mông), hay cái lò cà ràng nhỏ (thay vì cả một gian bếp ấm sực mùi củi lửa)… Và nghe cha tôi than, tôi chán cái nhà này quá rồi, thì cũng nên hiểu là không có cái nhà nào cả. Nhà chúng tôi là cái này, là cánh đồng nào đó, con sông nào đó... Riêng chúng tôi thì không cần chị phải yêu thương, chăm sóc, dạy dỗ gì hết. Chúng tôi không hy vọng điều đó (đến con chị còn không hy vọng gì mà). Ngay lúc này đây, cứ nghĩ, một bữa trưa mai trưa mốt nào đó, có nắng hiu hiu và gió hiu hiu, vì muốn chứng minh tấm lòng của mình với cha, muốn tỏ thái độ hoà hợp với hai đứa trẻ lạ lùng này, chị bắt thằng Điền lại, xối nước kỳ cọ những mảng đất đã dính khắn trên làn da mốc meo của nó, miệng cắm cẳn, cằn nhằn hay biểu tôi ngồi để chị thắt bím tóc cho, chắc tôi thấy khó chịu vì xa lạ và buồn cười.


Nhưng tiếc rằng không có ngày mai, mốt đó. Chị bị cha tôi bỏ lại, khi vừa đi được một đoạn đường. Một đoạn đường đầy khó khăn. Chị buộc mình tin rằng sự chọn lựa này là đúng, tình yêu này xứng đáng được đánh đổi. Xóm làng, ngôi nhà, vườn tược trôi tuột lại phía sau. Và đứa con gái… Rất cố gắng, chị mới thôi thảng thốt. Cha ghé một chợ nhỏ đầu xóm kinh, biểu chị lên mua một ít củ cải muối đem theo. Người vừa khuất trong tiệm tạp hóa, cha cười. Chị em chúng tôi mãi mãi không quên cái cười đó, nó vừa dữ dội, đau đớn, hoang dã, cay đắng, nghiệt ngã. Cái cười thật dài, riết lấy khuôn mặt cha, làm mắt cha hơi lồi ra, ánh lên như có nước. Cha quăng đồ đạc của chị lên bờ vung vãi. Và nổ máy cho ghe đi.
Có ai chờ chúng tôi, trên những cánh đồng khơi ?



6.


Trời đất ủ dột nhìn mưa vào mùa. Thằng Điền kiếm được mấy cây ô môi nhỏ, nó rủ tôi trồng. Chúng tôi dầm mưa, lấy mũi dao đào thành mấy lổ con con, rồi đắp đất ém gốc lại. Cái cảm giác mà cha tôi đã từ bỏ là yêu thương, che chở cho một sinh linh (yếu ớt, nhỏ bé) nào đó thật ngọt ngào. Điền biểu tôi chặt sậy cắm quanh, sợ mấy con vịt ăn trụi lá, với lại, bờ đất này rất nhiều người qua lại, không khéo là bị dẫm bẹp. Hai đứa ngồi nhìn công trình của mình, bỗng buồn, không biết mai này còn có dịp quay lại coi tụi cây này lớn lên, để trèo lên hái trái, để giăng cái võng, ngủ một giấc đã đời.


Chị em chúng tôi nảy ra nỗi thèm muốn, khao khát được trồng cây từ khi rời Bàu Sen, vì biết chẳng bao giờ quay lại sống - bình - thường. Dường như chúng tôi nhớ, nhớ cồn cào. Nỗi nhớ bao gồm được chạy chơi trên cái vuông sân mọc đầy vú sữa đất, được tự mình trồng cây gì đó, có trái, và trái ăn được, ăn rất ngon. Nhưng cái mơ ước nhỏ nhoi là nhìn nó lớn lên cũng mong manh, khi mà đến chưa nóng chỗ đã phải dời đi nơi khác. May là lần này chúng tôi ở Cỏ Úa khá lâu, chăm chút bầy vịt (mới gầy lại) “trơn lông bụng”. Thằng Điền một bữa ra coi cây bén rễ, nó bỗng chép miệng, “Ước gì đây là đất - của - mình…”.


Tôi cười, điều đó thật xa xôi. Có lần, đi qua xóm, trong một buổi chiều, chúng tôi gặp những ông già ngồi chơi với cháu, thằng Điền đứng tần ngần bên hàng rào dâm bụt, bảo, “Phải chi ông này là ông nội mình, thương đỡ chơi, hen Hai?”. Nghe câu đó tôi bỗng thấy mình nghèo rơi nghèo rớt, nghèo đến nỗi không có… ông nội để thương, thèm muốn bên đường. Tôi lắc đầu, bảo thôi, thí dụ như mình lỡ mến người ta, mai mốt dời đi, buồn dữ lắm. Mà, đã ngấm, đã xé lòng toang hoang với nỗi đau chia cắt rồi, chưa sợ sao ?


Sống đời mục đồng, chúng tôi buộc mình đừng yêu thương, quyến luyến bất cứ ai, để khỏi ngậm ngùi, để lòng dửng dưng khi cuốn lều, nhổ sào đi sang cánh đồng khác, dòng kinh khác. Chúng tôi vô định hơn bất cứ người nuôi vịt chạy đồng nào. Vì những cuộc tình của cha tôi, ngày càng ngắn ngủi.


Cha tôi đã có - vẻ - bình - thường, hay nói cười, hồ hởi trong những lúc có người (chữ “người” này không tính hai chị em tôi). Nhiều lúc tôi không giấu được thảng thốt, cứ nghĩ mình đã gặp lại cha - của - ngày - xưa. Nhiều lúc tôi ngồi trông người trong xóm đi thăm lúa ghé qua chòi, lúc ấy, cha sẽ kêu, “Nương à, nướng mấy con cá khô, cha lai rai với mấy bác…”. Em tôi cũng sướng ran xách chai ra tiệm mua rượu, nó khoái chí nghe cha gọi, “Điền ơi! Điền…”. Vui được chút đó thôi, khi khuất bóng người, chị em tôi đắng đót nhìn cha hao hao người đóng tuồng vừa trút lớp. Xanh xao, lạnh lẽo đến ngơ ngác và cô đơn.


Không, lúc chỉ một mình, cha tôi đáng sợ hơn thế. Cha giống như con thú trở về tổ sau khi no mồi. Con thú nằm mơ màng nhấm nháp lại hương vị của miếng mồi, và ngẩm ngợi thòm thèm con mồi kế tiếp. Có lúc sự vật lộn làm vết thương cũ của con thú đau, nó liếm láp vết máu, và tôi hãi hùng nhận ra chỗ đau ấy cứ rộng thêm ra. Đôi khi tôi nhớ người đàn bà ở Bàu Sen, nhớ bóng người xấp xãi, ngơ ngác chạy theo chiếc ghe sáng ấy. Chắc chị đã quay lại, đón đứa con gái về, móc quần áo trở vô tủ. Có hề gì, rồi chị sẽ yêu một người khác, nhưng mãi mãi, chị không quên nỗi ê chề bị bỏ lại bên đường (bằng chứng là ba cha con chúng tôi có quên được đâu). Với những đàn bà sau này, cha tôi tính toán rất vừa vặn, sao cho vừa đủ yêu, vừa đủ đau, vừa đủ bẽ bàng, và bỏ rơi họ đúng lúc. Có người vừa bán xong cái quán nhỏ của mình. Có người vừa nói xong những lời dứt tình với chồng, con. Có người vừa phủ phàng chia xong gia sản, có cô gái sắp về nhà chồng, củi to củi nhỏ chất thành giàn ngoài chái... Hết thảy đều cun cút tin và yêu. Cha mang họ đi một quãng đường vừa đủ để người ở lại nhìn rõ chân dung của sự phản bội, sau đó người đàn bà bị hắt lên bờ.


Con đường quay về bị bịt kín.


Cha không tốn nhiều công sức cho việc chinh phục (Những người đàn ông quê mùa đã tự tay đẩy người đàn bà của mình đến với cha, bằng nhiều cách. Họ thích uống say, họ thích dùng tay chân để tỏ rõ uy quyền. Mệt nhọc làm lụng trên đồng, người đàn ông đã trở nên khô cằn, có khi cả đời, họ không nói với phụ nữ một câu yêu thương tử tế. Họ không biết vuốt ve, âu yếm, khi cần, họ lật cạch người phụ nữ ra và thoả mãn, rồi quay lưng ngủ khò). Sẽ còn bao nhiêu người nữa được cha tôi cho nếm thử niềm đau kia, tôi tự hỏi mình khi nhìn người đàn ông vào tuổi bốn mươi, quyến rũ từ cái cười, từ câu nói, ánh nhìn thăm thẳm, ngọt ngào. Trời ơi, trừ chị em tôi, không ai thấy được đằng sau khuôn mặt chữ điền ngời ngợi đó là một hố sâu đen thẳm, bến bờ mờ mịt, chơi vơi, dễ hụt chân.


Nên mỗi lần cha nhìn đăm đắm và mỉm cười với một người đàn bà mới chúng tôi lại thắt thẻo. Thêm mối tình đau trước cả ngày thứ nhất (mà chị em tôi không cách nào ngăn được). Tôi có cảm giác cha quắp lấy người ấy, vùi mặt vào da vào thịt, ngấu ngiến mà lòng cha lạnh ngắt. Thằng Điền cay đắng, “Cha làm chuyện đó thì cũng giống như mấy con vịt đạp mái…”. Tôi nạt, “Đừng nói bậy…”.


Nhưng tận đáy lòng, tôi cũng nghĩ, cha hơi khác con - người. Nhạt nhẻo hơn cả việc quan hệ theo mùa, theo bản năng, trong cha tôi không còn một chút cảm xúc nào, nét mặt tràn ngập những rắp tâm, chưa gặp mặt đã tính chuyện phụ phàng.


Cha đẩy chúng tôi trượt dài vào nỗi thiếu thốn triền miên. Mỗi lần rời khỏi một nơi nào đó, thật khó để phân biệt, chúng tôi bỏ đi hay chạy trốn. Chúng tôi đánh mất cái quyền được đưa tiễn, được xao xuyến nhìn những cái vẫy tay, được nhận vài món quà quê như buồng chuối và hương hay bó rau ngót cắt trong vườn, cùng lời dặn dò quyến luyến, “Đi mạnh giỏi nghen…”.


Chị em tôi hết sức cố gắng để sự giận dữ, chán chường của mình không bùng cháy. Chúng tôi cho vịt ăn thật xa trên đồng, vạ vật ở đó từ sáng tới chiều. Gió hoang liêu trên đồng không làm lòng hai đứa nguội lại. May ra, gió chỉ thổi khô nước mắt lúc nào cũng ri rỉ trên mặt em tôi.


Tôi không còn muốn chữa mắt cho Điền. Bởi Điền khóc suốt (giống hệt tôi), dù vẻ mặt nó rất bình thản (tôi cũng vậy, khác là nước mắt tôi khô rốc trong lòng). Hai đứa tôi đều kỳ dị, đến mức nhiều khi tự giật mình.


Có lần, hai chúng tôi ngồi trên một bờ đất, xung quanh đấy những người thợ gặt đang ăn cơm. Nắng giữa trưa nóng rát. Tôi nói, chỗ khác có nắng dữ dằn vầy không ha. Thằng Điền nói, mùi cá kho quẹt thơm dễ sợ. Ừ, tôi gật đầu, nhưng cái mùi nghèo quá. Vậy mùi gì giàu, thằng Điền hỏi vặn lại. Tôi cười, thịt kho tàu. Rõ ràng hai đứa tôi có cãi qua cãi lại, vậy mà sau đó một người thợ gặt tỏ vẻ ngạc nhiên, “Hai đứa bây ngồi chù ụ cả buổi trời, không nói câu nào, vậy mà cũng chịu nổi sao?”


Thằng Điền cười, “Ủa, tụi mình hỏng nói tiếng – người!?”. Tôi nhận ra nó không hề máy môi, tôi đọc được những ý nghĩ trong Điền. Ở đó, đang có bão tơi bời, gió quất điên cuồng vào trái tim nhỏ chi chít vết đau. Thằng Điền nổi loạn.


Dấu hiệu bắt đầu từ một bữa trong xóm đê, tình cờ ngó đôi chó nhảy nhau, thấy các chị đang phơi lúa kêu ó ré lên, tôi rủ Điền giả đò nhắm mắt (trò này cực kỳ trẻ con, vì ai cũng mường tượng mồn một tư thế động tình của hai con chó). Thằng Điền phì cười, nó kêu lớn, “Hai, coi nè…” rồi cầm đoạn cây xông đến quất đôi chó tới tấp. Hai con chó kêu la th2712