Trang

Oct 27, 2005

Chăm Sóc Sức Khoẻ



Con tàu đang chìm. Bỗng nhiên, thủy thủ trưởng từ trên con thuyền chở những người được cứu sống đang đi xa khỏi con tàu, nhìn thấy một hành khách đứng trên mũi con tàu đang chìm.

Thủy thủ trưởng hét to:

Này ông kia tại sao ông lại không nhảy xuống đi?

Người hành khách giải thích:

Bác sĩ tuyệt đối cấm không cho tôi tắm biển sau bữa ăn. Mà tôi thì vừa mới ăn cơm cách đây 20 phút.

2776

Lợi hay hại?



Vợ bực bội nói với chồng đang say khướt:

- Sao anh cứ uống bia hoài vậy? Uống bia nhiều hại tim, hại gan, hại thận, hại đủ thứ!

- Em chỉ thấy cái hại mà không thấy được cái lợi của bia.

- Lợi gì mà lợi?

- Lợi... tiểu!


o O o

Chồng say lướt khướt trở về nhà, vợ càu nhàu:

- Hứa mãi rồi, vẫn uống nhiều, lại say bét nhè!

- Nhiều nhặn gì đâu, có một chai cho ba người.

- Thế sao lại say đến thế này?

- À, tại hai thằng kia hẹn nhưng chả thấy đến.


o O o

Tối mịt, tại nhà của một đôi vợ chồng:

- Sao giờ này anh mới “dẫn xác” về hả? Lại còn nồng nặc mùi bia nữa chứ!

- Đâu có, anh vì con đấy chứ!

- Vì con cái gì? Đừng có ngụy biện!

- Sao em cứ nghĩ xấu anh thế? Biết con nó thích ăn lạc luộc, anh vào quán bia mua, nên... tiện thể làm vài vại.

- Ôi trời!!!
2623

Lợi hay hại?



Vợ bực bội nói với chồng đang say khướt:

- Sao anh cứ uống bia hoài vậy? Uống bia nhiều hại tim, hại gan, hại thận, hại đủ thứ!

- Em chỉ thấy cái hại mà không thấy được cái lợi của bia.

- Lợi gì mà lợi?

- Lợi... tiểu!


o O o

Chồng say lướt khướt trở về nhà, vợ càu nhàu:

- Hứa mãi rồi, vẫn uống nhiều, lại say bét nhè!

- Nhiều nhặn gì đâu, có một chai cho ba người.

- Thế sao lại say đến thế này?

- À, tại hai thằng kia hẹn nhưng chả thấy đến.


o O o

Tối mịt, tại nhà của một đôi vợ chồng:

- Sao giờ này anh mới “dẫn xác” về hả? Lại còn nồng nặc mùi bia nữa chứ!

- Đâu có, anh vì con đấy chứ!

- Vì con cái gì? Đừng có ngụy biện!

- Sao em cứ nghĩ xấu anh thế? Biết con nó thích ăn lạc luộc, anh vào quán bia mua, nên... tiện thể làm vài vại.

- Ôi trời!!!
2623

Dấu hiệu mang thai



Trong một kỳ thi ở trường Y, thầy giáo hỏi:
- Anh cho biết những dấu hiệu khi mang thai? Đắn đo mãi không biết trả lời thế nào thì anh sinh viên nghe thấy bạn mách: tóc rụng, chân cong, bụng to... Anh ta luống cuống lặp lại hết. Thầy giáo cười, hỏi lại:
- Chân tôi có cong không?
- Thưa cong ạ.
- Tóc tôi có rụng không?
- Thưa rụng ạ.
- Bụng tôi có to không?
- Thưa to ạ.
- Vậy khi nào tôi đẻ, tôi sẽ cho anh qua kỳ thi!
2100

Vắt Cổ Chày Ra Nước



Một hôm, chủ nhà bảo đầy tớ về quê có việc, người đầy tớ mới xin mấy đồng tiền uống nước dọc đường.
Chủ nhà ngẫm nghĩ một lúc rồi nói :
- Thằng này đến là ngốc, hai bên đường thiếu gì ruộng ao, có khát thì xuống đấy tha hồ uống chớ vào quán làm gì cho phiền phức.
- Thưa ông - Người đầy tớ nói - Độ rày trời hạn, cạn khô cả !
- Thế thì tao cho mượn cái này !
Nói rồi đưa cho người đầy tớ cái khố tải . Người này chưa hiểu ý ra làm sao thì chủ nhà đã bảo :
- Vận vào người để nếu khát vắt ra mà uống.
Người đầy tớ liền nói :
- Trời này mà vận khố tải coi kỳ cục lắm. Hay là ông cho tôi mượn các chày giã cua vậy !
- Để mày làm gì ?
- Dạ, vắt cổ chày cũng ra nước !723

Oct 26, 2005

Đinh Trầm Ca



mùa thu sao lá không vàng
sân rêu, khóm cúc đã tàn từ lâu
em đi xa tự năm nào
để cho cam quýt mậm đào bỗng chua
tôi về vườn cũ ngày mưa
ngu ngơ không biết đời trưa hay chiều
từ ngày lạc dấu thương yêu
tôi đi về phía quạnh hiu đất trời
mùa thu, sao lá không rơi
ngồi nghe vàng rụng vào thời xa xăm
giọt ngâu rớt trúng chỗ nằm
em làm sao biết đời căm lạnh rồi
có ai về đó cùng tôi
phải em ngoài giếng làm rơi tiếng gàu ?
sao tim tôi chợt nhói đau
vết bùn chân nhỏ in ngoài cầu ao
tiếng em cười tự thu nào
mà nghe rúc rích bên rào giậu thưa
em gọi tôi ở ngoài mưa
hay cơn gío lạnh nào vừa qua sông ?
sao em không chọn mùa đông
mà đi lấy chồng lại đúng mùa thu
để vườn cũ giữa thâm u
để tôi sống giữa sa mù chiêm bao !
2911

Có một ông lão sống với vợ của mình



Truyện hài hước và đậm chất dân gian, được kể bằng giọng văn "tỉnh khô", rất thuần phác và "đặc Nga". Qua đó, vẻ đẹp của những tâm hồn nông dân Nga đã dần được bộc lộ. Cả nhân vật và người đọc đều như chếnh choáng trong men say của tình yêu con người và cuộc đời, người ta quên cả tuổi già và cái chết, hay cái chết cũng là một lý do để ta yêu đời hơn. Fazil Iskander là một trong số ít các nha văn Xôviết nổi tiếng hiện vẫn đang sung sức trong công việc sáng tạo.

Chegem một bà lão nông có chồng bị chết. Trong thời gian chiến tranh ông bị thương và mất một bên chân. Từ đó tới lúc chết ông đi bằng nạng. Nhưng ngay cả khi phải đi nạng ông vẫn tiếp tục làm việc và vẫn là một chủ nhà hiếu khách, như thời trước chiến tranh. Trong các buổi liên hoan, giỗ tết, ông uống rượu không thua kém bất cứ ai, và sau mỗi lần như vậy, trên đường về nhà, đôi nạng của ông cứ như thể đang bay. Không một ai biết được ông say hay ông tỉnh, là vì cả khi tỉnh lẫn lúc say bao giờ ông cũng vui vẻ.

Thế rồi ông chết. Người ta chôn cất ông trọng thể. Cả làng tới khóc ông. Nhiều người từ các làng khác cũng tới viếng ông. Ông là người dễ chịu thế đấy. Và bà vợ già của ông rất đau buồn.

Ngày thứ tư sau tang lễ, bà lão nằm mơ thấy ông. Như thể đang đứng trên một con đường nhỏ dẫn tới một ngọn núi nào đó, ông nhảy lò cò bằng cái chân lành và yêu cầu bà:
- Vì Chúa, bà hãy gửi cho tôi đôi nạng. Không có nạng tôi không thể tới thiên đường được.
Bà lão tỉnh giấc, xót thương ông lão của mình. Bà cố đoán: giấc mơ vừa rồi là có ý gì nhỉ? Mà mình gửi nạng cho ông ấy bằng cách nào đây?

Đêm hôm sau bà lão lại thấy giấc mơ cũ. Ông lão vẫn khẩn cầu bà gửi cho đôi nạng, không thì ông chẳng tới được thiên đường. Nhưng mà gửi thế nào? - Bà lão nghĩ ngợi và tỉnh giấc. Nhưng bà không sao nghĩ ra được cách. Nếu lại mơ thấy ông ấy đòi nạng, thì mình sẽ hỏi thẳng ông ấy xem sao, bà quyết định.

Bây giờ bà lão nằm mơ thấy ông lão của mình hằng đêm, và hằng đêm ông hiện về đòi nạng. Còn bà thì luôn bị rối trí trong giấc mơ, không sao chộp được cơ hội để hỏi ông lão cho đúng lúc, giấc mơ cứ trôi tuột đi đâu mất. Cuối cùng bà cố giữ bình tĩnh, bắt đầu thức trong giấc mơ. Và bây giờ, vừa thoạt nhìn thấy chồng, không chờ ông mở miệng, bà hỏi liền:
- Thế gửi nạng cho ông bằng cách nào được?
- Gửi qua người làng chết đầu tiên, - ông lão trả lời, rồi ngồi xuống đường, xoa xoa cái mỏm chân cụt của mình, chắc lò cò mãi cũng mỏi. Bà lão thương ông tới nỗi khóc cả trong mơ.

Tuy nhiên, khi tỉnh giấc, bà lại thấy dễ chịu. Bây giờ thì bà đã hiểu phải làm như thế nào rồi. Có một ông già sống ở cuối làng. Ông này từng là bạn của chồng bà lúc sinh thời. Họ thường hay uống rượu với nhau.
- Ông sướng thật đấy, - ông bạn già từng nói với ông lão, - ông có uống bao nhiêu thì lúc nào cũng có hai cái nạng nó đỡ, còn tôi thì rượu nó cứ nhè chân mà táng.
Khi đó ông bạn còn đùa cợt như thế, vậy mà giờ đã ốm nặng, nằm đó chờ chết.

Vậy là bà lão quyết định đến nói khó với bạn chồng, nếu được chấp thuận, thì khi ông chết bà sẽ đặt đôi nạng của chồng mình vào quan tài, để ông chuyển giúp khi nào họ gặp nhau.

Buổi sáng bà lão nói ý đồ của mình cho người nhà nghe. Trong nhà còn có anh con trai, cô con dâu và một thằng cháu nội đã lớn. Khi nghe bà lão kể sẽ tới gặp ông già sắp chết đề nghị cho để đôi nạng của chồng mình vào quan tài, thì tất cả đều cười bà, như thể cười một bà già rất hủ lậu. Đặc biệt thằng cháu nội cười rất to, như một người có học nhất nhà, thì nó đang chuẩn bị tốt nghiệp lớp 10 mà lại. Tất nhiên, cô con dâu không bỏ qua cơ hội, cũng cười rũ ra, mặc dù, khác với con trai, cô chưa tốt nghiệp lớp 10. Vừa cười, cô vừa nói:
- Việc ấy bất tiện lắm, - đề nghị một ông già đang sống chết đi để bỏ đôi nạng của chồng mình vào quan tài!
Nhưng bà lão đã nghĩ kĩ rồi:
- Thì tôi có bảo ông ấy chết ngay đâu, - bà lão trả lời. - Ông ấy chết, khi nào tới số. Chỉ cần ông ấy đồng ý mang theo đôi nạng.

Bà lão minh mẫn, và là người khá tế nhị, đã trả lời như vậy. Và mặc cho mọi người can ngăn, ngay ngày hôm ấy bà vẫn tới nhà bạn chồng. Bà mang theo nhiều quà, phần biếu người ốm, phần để ông lão sắp chết cùng người nhà ông đỡ bất ngờ trước lời đề nghị của mình.

Ông già nằm trong buồng, tuy đang ốm nặng, song vẫn ngậm chiếc tẩu bằng gốm. Họ nói một chút về đời sống, bà lão không dám ngỏ lời đề nghị, vì cứ thấy ngượng ngượng thế nào. Vả lại, trong buồng còn có cô con dâu và mấy người nhà đang ngồi. Hoá ra bà lão còn tế nhị hơn là chúng ta tưởng lúc đầu. Nhưng tự ông già ốm đã giúp bà - ông nhớ lại chồng bà bằng những lời lẽ tốt đẹp, sau đó thở dài nói thêm:
- Rõ là tôi sắp sửa được gặp ông nhà đây.
Lập tức bà lão hoạt bát hẳn lên.
- Nhân tiện, - bà lão vào đề, bắt đầu kể cho ông nghe về những giấc mơ của mình và việc ông chồng đề nghị gửi đôi nạng cho ông qua người làng nào chết đầu tiên. - Tôi không giục bác, - bà lão nói thêm, - nhưng nếu việc đó xảy ra thì cho phép tôi để đôi nạng vào quan tài của bác, để chồng tôi còn cà nhắc mà tới được thiên đường.

Ông lão sắp chết cùng với cái tẩu trong miệng là người sâu sắc nước đời, thậm chí còn là một ông chủ hiếu khách, song cũng không tới mức bỏ nạng người khác vào quan tài mình. Quả ông không muốn tí nào cái việc này. Ngượng ư? Cũng có thể ông sợ những người làng khác tới dự đám tang nghĩ ông bị tàn tật. Nhưng nói thẳng thì bất tiện. Chính vì vậy ông bèn vòng vo với bà lão.
- Sao, chả lẽ những người Bônsêvích còn chưa đóng cửa thiên đường ư? - ông thử đánh trống lảng.
Nhưng, hoá ra, bà lão không chỉ tế nhị, mà còn rất bướng bỉnh. Là vì bà tha thiết muốn nhờ ông chuyển đôi nạng cho chồng mình ở thế giới bên kia.
- Chưa, - bà lão chắc chắn - họ không làm nổi việc này.

Khi đó ông già quyết định từ chối khéo bằng cách nói đùa.
- Tốt nhất bà cứ để vào quan tài một chai đế xịn, - ông đề nghị, - khi nào gặp ông nhà, chúng tôi bù khú với nhau.
- Bác chỉ được cái hay đùa, - bà lão thở dài - còn ông lão nhà tôi thì đang đợi, đêm nào cũng đòi gửi nạng.
Ông già sắp chết hiểu rằng khó lòng thoát được bà lão này. Nhưng ông không muốn chết, lại càng không muốn mang theo nạng vào quan tài.
- Nhưng mà giờ thì tôi làm sao đuổi kịp ông ấy nữa, - nghĩ một chút, ông nói tiếp - ông ấy chết cách đây những một tháng. Thậm chí tôi còn ngờ liệu mình có được đi trên con đường ấy mà lên thiên đường không cơ đây. Có những tội lỗi...
- Tôi biết tội của bác rồi, - bà lão không chấp thuận. Nhưng mà bác thấy đấy, ông lão nhà tôi cũng mắc cái tội y như của bác, vậy mà vẫn được lên thiên đường. Còn về chuyện đuổi kịp, thì bác đừng nói, kẻo người ta cười cho. Ông lão nhà tôi có một chân, chưa lò cò xa được đâu. Giả thử bác chết vào ngày mai, ấy là tôi chỉ giả thử thôi, chứ không dám giục bác, thì ngày kia là bác đuổi kịp ông ấy rồi. Ông ấy chẳng đi đâu mất đâu...

Ông già tiếp tục nghĩ ngợi. Nhưng lúc đó cô con dâu đã xen vào câu chuyện. Nãy giờ cô chỉ ngồi nghe họ nói.
- Nếu như ở đấy quả thật có cái gì đó, - cô mím môi, nói, - chúng con xin bố để một bao hạt dẻ vào quan tài. Ông anh tội nghiệp của con sinh thời thích hạt dẻ lắm...

Tất cả các cô con dâu đều giống nhau, lúc nào cũng chen ngang, - bà lão nghĩ bụng.
- Này, các người, tôi thấy hình như các người muốn biến cỗ quan tài của tôi thành cái xe chở hàng đây! - ông già kêu lên, rồi quay sang bà lão, nói thêm: - Tuần sau bà tới đây, lúc ấy tôi sẽ trả lời dứt khoát.
- Có muộn không bác? - Bà lão hỏi, rõ là cố khắc phục sự tế nhị của mình - Là tôi hỏi vậy, chứ không có ý giục bác.
- Không muộn, - ông lão trả lời chắc chắn rồi làm một hơi thuốc.
Chuyện chỉ tới thế, bà lão ra về. Khi về tới nhà, vừa bước chân vào bếp, bà nhìn thấy một cảnh tượng hoàn toàn bất ngờ. Thằng cháu hay giễu cợt của bà cùng với cái chân băng bó, chống đôi nạng của ông nội đứng giữa bếp.
- Chuyện gì thế này, mày bị làm sao thế hả cháu? - Bà lão hốt hoảng, cuống cuồng.

Hoá ra, khi bà đi tới nhà ông lão sắp chết, thì cậu quý tử trèo lên cây để hái quả óc chó Hi Lạp, rồi bất thình lình đạp phải một cành khô, cành gãy, cu cậu rơi từ trên cây xuống, chân bị gãy khá nặng.
- Nạng bị dùng rồi, - thằng cháu nói, - cảm phiền ông nội đợi cho một tháng.

Bà lão yêu ông lão của mình, nhưng bà cũng rất yêu thằng cháu hay cợt nhả này. Hiện giờ cháu bà cần nạng hơn. Ông nó có phải đợi một tháng cũng chẳng sao, bà nghĩ, đường tới thiên đàng thời tiết đâu có xấu như ở ta. Vả lại, ông lão mà bà vừa tới thăm, cứ theo như bà đã quan sát, thì có thể
giữ được một tháng nữa, có khi còn lâu hơn. Nhìn khói bay từ chiếc tẩu của ông ấy thì biết.

Nhưng có một chuyện đáng ngạc nhiên hơn cả - ông lão của bà không thấy hiện về trong giấc ngủ để đòi nạng nữa. Hoàn toàn không thấy hiện về. Chắc hẳn ẩn đâu đó để chờ thằng cháu lành chân. Hằng sáng nằm nhớ lại những giấc mơ cũ, bà lão lại thương chồng. Thế nhưng thằng cháu đã bỏ nạng, vậy mà ông nó vẫn không thấy về trong giấc ngủ của bà. Có khi ông lão đã lò cò tới được tới thiên đường rồi cũng nên, chắc là phải bám vào những bụi cây ven đường. Bà lão nghĩ vậy và thấy yên tâm hẳn.

Còn ông lão sắp chết, sau chuyến tới thăm của bà, bỗng nhiên khoẻ hẳn, trở nên nhanh nhẹn lạ thường, tới mức không được lịch thiệp lắm đối với một cụ già. Quả là ông rất không muốn mang theo vào quan tài mình nạng của người khác. Thì tự ái chứ: cả đời đi đứng bình thường, tự dưng lại để nạng trong quan tài bao giờ. Ông lão ấy sống cho tới tận giờ, mặc dù từ đó tới nay đã năm năm trôi qua. Ông chăn dê trong rừng, ngày ngày chặt những cành dẻ tơ cho chúng ăn, cả những lúc đó cũng không rời cái tẩu khỏi miệng.

Chát một nhát rìu! Khà một hơi thuốc! Chát một nhát rìu! Khà một hơi thuốc! Chát một nhát rìu! Khà một hơi thuốc! Thần chết nhìn từ xa nghiến răng trèo trẹo: Cái thế giới này giá có nổ tung thì lão già đáng nguyền rủa kia cũng chẳng thèm để ý! Đành phải đợi dê của lão ăn no đã.

Và tất cả chúng ta cũng sẽ sống, một khi ông lão vẫn: "Chát một nhát rìu! Khà một hơi thuốc!". Còn đàn dê thì chẳng bao giờ biết đến thế nào là no.


Đào Tuấn Ảnh dịch từ nguyên bản tiếng Nga

(*) Ở đây tác giả nhại lại môtíp truyện cổ tích "Ông lão đánh cá và con cá vàng " của A. Puskin: "Ngày xửa ngày xưa có một ông lão sống với mụ vợ của mình...". Tuy nhiên diễn biến câu chuyện theo hướng ngược lại với truyện cổ tích. Tác giả đã mượn cách kể chuyện, kết cấu cổ tích để kể về chuyện thời nay, đây là một trong những đặc điểm của thi pháp văn học hậu hiện đại (ND)


1687

10 cách để vượt qua một cuộc chia tay



10 cách để vượt qua một cuộc chia tay





Mặc dù bạn không giữ lại bất kỳ quan hệ nào đối với người tình cũ, nhưng điều quan trọng là vẫn giữ trong bạn một trạng thái tình cảm và mối quan hệ tương lai tốt đẹp để bạn có thể vượt qua được sự chia tay nếu có thể. Dưới đây là một số đề nghị khi bạn quá gần rừng không thể nhận ra cây.


1, Không nên "trả đũa". Ngay cả khi bạn tình của bạn đã lừa dối bạn, việc bỏ thời gian để hy vọng trả thù chỉ hạ gục ý chí cá nhân của bạn thôi.


2, Không nên lưu giữ những thứ làm ghi nhớ. Kể cả những gì trên mạng. Ví dụ, hãy xóa tất cả những gì thuộc về người đó trong danh mục những người tri kỷ của bạn.


3, Không nên tìm cớ để liên lạc hay gặp lại người tình cũ của bạn. Ðiều này bao gồm việc không nên mang trả những vật cá nhân vì đó có thể là cái cớ để bạn gặp lại người tình cũ.


4. Ðừng sợ cô đơn. Hãy bỏ thời gian để hiểu được những gì đã xảy ra và từ đó tăng thêm nghị lực về tình cảm.


5. Ðừng sống trở về quá khứ. Hãy bỏ thời gian để hiểu rằng những gì đã xảy ra thì không phải là một sự ám ảnh hay day dứt trong quá khứ.


6, Ðừng cố gắng quan hệ với một người khác trong thời gian bạn còn trong tình trạng phản ứng. Nếu như bạn quan hệ với người khác quá sớm sau khi chia tay thì bạn sẽ phải đối mặt với một mớ các vấn đề tình cảm trong quan hệ mới này.


7, Cất đi tất cả, không vứt bỏ. Hãy cất đi những hình ảnh, vật kỷ niệm từ khi bạn còn đang yêu nhau. Không nên vứt bỏ trừ khi đó là một cuộc chia tay thật tồi tệ. Sau này bạn sẽ muốn giữ lại vài thứ.


8, Hãy ghi nhận việc hẹn hò với người mình yêu. Liệu bạn vẫn thực sự hẹn hò với người mà mình hoàn toàn không ưa thích, người đó không quan tâm đến sở thích và phong cách sống của bạn. Chuyên viên phân tích về các hình thức hẹn hò của các đôi tình nhân đánh giá mối quan hệ của bạn và mách bảo cho bạn biết được điều gì làm cho bạn cảm thấy thực sự hạnh phúc.


9, Hãy tha thứ cho chính mình. Bạn đã nói hay làm điều gì mà sau này cảm thấy ân hận. Rất dễ dàng tự trách mình. Bạn không thể đi ngược để thay đổi quá khứ, nhưng bạn có thể học hỏi được từ những lỗi lầm đó và tha thứ cho chính mình.


Tha thứ cho người tình của mình. Tha thứ là sự lựa chọn, không phải tình cảm. Tha thứ không có nghĩa là quên hết và sống lại với người tình của mình. Ðôi khi tha thứ là ra quyết định cắt bỏ những tổn thất và bỏ đi.
 

538

Mắt tin, tai thính



Hai anh nói khoác gặp nhau, một anh khoe rằng :
- Mắt tớ tinh không bằng. Kìa ! Một con kiến đang bò ở cành cây trên đỉnh núi phía trước mặt, tớ trông rõ mồn một cả sợi râu cho đến bước chân đi của nó.
Anh kia cắt ngang :
- Thế cùng chưa tinh bằng tớ tớ còn nghe thấy sợi rây của nó ngoáy không khí kêu vù vù và chân nó bước kêu sột soạt.
321

Trò đùa



     Thủy nâng chiếc kính vào đúng vị trí thường đeo trên mắt. Đất trời bừng sáng, mọi vật như xích lại gần.

Cô khẽ lắc nhẹ đầu sang hai bên, mắt vẫn nhìn thẳng đằng trước. Các hình ảnh cô nhìn được trong tầm mắt không hề bị lay động. Không có cảm giác bị chóng mặt. Vậy là tốt rồi. Kinh nghiệm đeo kính cận lâu năm cho biết cô đã chọn được kính hợp với mắt mình. Cửa hiệu kính này đang rất có tiếng. Bây giờ, với cặp mắt kính mới tinh trong veo này, cô lại có thể nhìn thấy rõ nét mặt của từng người đi ngang qua đường.

Bỗng một cặp trai gái líu ríu dừng lại ngay cửa ra vào của hiệu kính. Người thanh niên có vẻ như là một Việt kiều hoặc một du khách Đông Nam Á đang lúng túng trước đề nghị gì đó của cô bạn gái. Cô ta uốn éo bám lấy eo lưng của người thanh niên, lôi kéo, thúc giục, âu yếm, vuốt ve thản nhiên như xung quanh không bóng người. Cô ta mặc một chiếc quần soóc mini đỏ chót bó chặt hông. Đôi chân mập mạp ngăm ngăm đi một đôi giầy da đen ngắn cổ, loại đang thịnh hành. Một chiếc áo vàng không khuy buộc thắt ở đằng trước, ngắn đến ngang lưng hở một đoạn ở rốn. Mặt cô ta bự phấn son, mắt tô xanh, cái miệng đỏ chót liếng thoắng, nũng nịu

- Ôi quen quá!

Thủy bỗng giật nẩy người như phải bỏng. Cô nép vào cánh cửa một cách không ý thức, như một phản xạ tự nhiên trước nguy hiểm. Loan, cái con mèo cái ấy! Hơn mười năm đã qua rồi, nhưng nỗi đau vẫn còn nguyên chẳng thể chữa lành. Mấy năm qua đắm chìm trong hạnh phúc gia đình cô cứ ngỡ mình đã quên đi dĩ vãng đau đớn. Nào ngờ chỉ một thoáng tình cờ cũng đã khơi dậy tất cả. Vết thương lại toác miệng và trái tim cô lại rỉ máu. Những hình ảnh cũ ào ạt tuôn về. Quá khứ tràn đầy tâm thức.


***

Chuyện bắt đầu từ hôm cô và Công đi xem các loại thiếp mời, chuẩn bị cho đám cưới sắp tới của họ. Sau một hồi bát phố, họ dừng lại ở Tràng Tiền ăn kem. Kem Tràng Tiền thuở đó ngon có tiếng và đông nghìn nghịt. Thủy đứng trông xe nhìn Công chui vào đám đông chen vai thích cách thể hiện vai trò hiệp sĩ của mình.

- Này Thủy! Lâu lắm mới gặp

- Có tiếng một cô gái gọi giật ngay bên tay, sau một cú đập tay nhẹ vào vai thân thiện.

Thủy ngoảnh lại nhíu mày tò mò. Một cô gái xinh đẹp nhưng son phấn nặng nề mọc lên trước mặt Thủy. Cô ta mặc rất diêm dúa lòe loẹt, đầu uốn kiểu xù mì.

- Không nhận ra tớ à? - Cô gái bíu vào tay Thủy xoắn xuýt niềm nở - Loan đây mà.

- Ờ, ờ... à Loan 5c! - Thủy nhớ ra rồi. Cái Loan thô kệch, ù lì, học dốt ngày xưa. Vậy mà nay nó bỗng trở nên xinh đẹp, nhanh nhảu, chải chuốt như lột xác. Hồi đó Thủy học giỏi nhất lớp và chỉ chơi với nhóm "tứ quái" tức bốn đứa học giỏi, thường chia nhau hết các điểm 9, 10 của lớp nên cũng không quan tâm đến Loan mấy.

- Sao lại đứng đây một mình?

- Loan hỏi tự nhiên như thể họ vừa chia tay nhau hôm qua.

- À, tớ chờ...

- Thủy hất hàm về phía đám đông. Vừa lúc đó Công chui ra, hai tay cầm mười que kem vẻ đắc thắng.

- Chiến lợi phẩm đây!

- Anh vẫn thường tự hào về cái tài chen ngang của mình. Nhìn thấy Loan đứng đó vẻ thân mật e lệ bên Thủy, Công hơi sững người lại một giây trước ánh mắt cầu thân của Loan rồi điệu đà nghiêng mình chào cô ta. Anh nhún vai, lắc đầu ra vẻ chỉ vì vài que kem vớ vẩn mà anh không được chỉnh chu cho lắm khi ra mắt Loan - Xin thứ lỗi! Những cử chỉ điệu bộ của lần đầu Công gặp gỡ Thủy! Linh tính như mách bảo cô một điều gì đó chẳng mấy tốt đẹp. Nhưng Thủy vội gạt đi.

- Xin giới thiệu với Loan đây là anh Công, chồng sắp cưới của mình. - Rồi quay sang Loan, Thủy nói - Đây là Loan, bạn học với em từ hồi lớp 5. Em chỉ học cùng có một năm nên từ đó đến nay không gặp lại, Loan đã chuyển sang trường khác... - Phải cố kiềm chế lắm Thủy mới không nói nốt rằng Loan học dốt, bị đúp 3 năm 1 lớp nên không được học tiếp ở trường. Cô cảm thấy không thích cuộc gặp gỡ này.

- Một tháng nữa chúng tôi làm lễ cưới. Rất vinh hạnh được quý cô nương kiều diễm đến dự ngày vui với chúng tôi. Còn bây giờ thì xin mời - Anh đưa cho Loan ba chiếc kem - Xin chúc mừng cuộc hạnh ngộ của chúng ta ngày hôm nay.

Thủy hơi ngạc nhiên trước những lời lẽ hoa mỹ cải lương của anh. Mọi khi Công rất ghét những kẻ nói năng uốn éo. Bản năng lại mách bảo cô một điều gì đó nguy hiểm. Nhưng cô cố gạt đi. Cô phải tin anh, chẳng gì thì họ cũng đang chuẩn bị cho đám cưới của mình. Khi chia tay, Công nhận xét: "Con Bé đó chỉ được cái mặt, còn nói chuyện thì nhạt hoét, rỗng tuếch lại còn uốn éo. Chân tay thì thô kệch cứ như chân vú Ngò trong AQ. Thẩm mỹ thật kinh khủng đến lố lăng...". Có vẻ như có bao nhiêu nỗi xấu xa Công đổ hết lên cô ta. Thủy cảm thấy hơi hổ thẹn vì hình như mình đã ghen tuông Một cách vô lối. Cô muốn chữa lại bất công cho Loan bằng cách bênh vực cô ta.

- Làm gì mà anh cứ như mẹ chồng xem xét nàng dâu mới thế? Cũng có người thế này thế nọ chứ. Nó bảo rằng đám đàn ông lúc nào cũng muốn ăn sống nuốt tươi nó như ăn gỏi ấy. Chứng tỏ cũng khối anh thích những gu như nó.

- Anh thì anh chẳng thích - Công hăng hái khẳng định - Từ thuở bé đến nay anh chẳng ăn gỏi bao giờ.

Sau đó mấy ngày, như thể tình cờ, tiện miệng anh kể, vừa gặp lại Loan ngang đường một cách vô tình. "Con bé đến khiếp, mồm mép liến thoắng. Chẳng quen biết gì mấy mà cứ xoắn xuýt đến vô duyên...". Thủy lại ra sức biện hộ cho bạn.

Những ngày sau đó Loan đến chơi liên tục, để giúp Thủy chuẩn bị đám cưới và cũng để giải nỗi buồn trong lúc thất nghiệp. Cô ta học lớp trung cấp thương nghiệp đã tốt nghiệp được hai năm chẳng nơi nào nhận. Có lần Loan đến nhờ Thủy viết cho một bức thư bằng tiếng Anh nội dung đại khái là muốn trốn đi nước ngoài và nhờ các ông trong lãnh sự quán giúp đỡ. Loan giấu không cho Thủy biết họ là người nước nào. Kinh hoàng trước một việc động trời như vậy, Thủy chối từ với lý do vốn tiếng Anh của mình quá kém không đủ khả năng viết nổi một bức thư quan trọng đến thế. Cô ta không lấy thế làm mất lòng. Qua vài lần giao du, Thủy biết Loan đã mấy lần vượt biên nhưng không thoát. Lại có lần chị gái của Loan kể cho Thủy biết Loan đã từng bỏ nhà đi đâu mất ba ngày, khi trở về cô ta tàn tạ như một nắm giẻ rách. Loan quẳng ra giường một nắm tiền rồi ngủ suốt một ngày. "Ba chị tra hỏi nó, nhưng nó chẳng khai gì. Nó gan lắm. Sau này công an người ta đến báo cho nhà chị biết Loan có tên trong sổ đen vì tội "giao du quá mức" với người nước ngoài. Nó luôn hy vọng được ai đó bảo lãnh cho ra nước ngoài. Như­ng nó chỉ toàn bị lợi dụng rồi bị ném ra đường...".

Chỉ vài lần gặp gỡ, Loan đã mở mang, khai trí cái đầu óc thủ cựu của các cô gái mới lớn trong khu tập thể của Thủy khá nhiều. Mỗi lần Loan đến chơi là cả bọn xúm xít quanh cô ta, tròn mắt nghe cô ta dạy những bài học vỡ lòng về cách cưa cẩm đàn ông. "Đàn bà là phải tình tứ một chút. Cứ khô khan, đứng đắn quá đàn ông họ cũng không thích...", "Muốn làm anh nào chết chỉ cần ba chớp mắt, một cúi đầu e lệ, tức là hãy nhìn anh ta một cách say đắm trong vài giây sau đó chớp chớp mắt rồi cúi đầu e thẹn như thể: Anh đáng yêu quá! Em xấu hổ lắm! Trái tim em rạo rực quá! Thế là xong. Đảm bảo anh ta sẽ cun cút đi theo mình...". Thủy không thể tin điều đó, nhưng cũng không thể bác bỏ ma lực của Loan. Bằng chứng là ông anh ruột của Thủy thuộc loại mực thước, đứng đắn có tiếng, và cũng đang có một mối tình rất sâu sắc nên thơ, lại nổi tiếng là sợ người yêu, vậy mà cũng mất hẳn một tối thứ bảy đèo Loan đi khắp Hà Nội với lý do ngớ ngẩn là tìm Thủy cho cô ta gặp mặt.

Chuyện đó thật kỳ cục nhưng lại đáng tin vì ngay cả Thủy nữa, đàn bà con gái hẳn hoi cũng khó lòng từ chối điều gì khi Loan nhờ vả bằng cái giọng thật nũng nịu, thật ngọt ngào. Cũng vì cái giọng ấy, có lần Thủy đã đèo Loan đi suốt mấy phố Tạ Hiền, Hàng Buồm... vòng đi vòng lại mấy lần, canh chừng công an cho cô ta bán thuốc lá ngoại lậu.

Sau này Thủy mới hiểu rằng những lời lẽ của Công khi đó, thật ra không phải là để nói cho cô nghe mà chính là đang cố gắng trấn an những bất ổn trong lòng mình. Anh không còn bàn luận về đám cưới của họ một cách sôi nổi như trước nữa.


***

Chỉ còn một tuần nữa sẽ đến ngày dự định tiến hành đám cưới, bỗng Loan đến tìm cô.

- Tớ có chuyện định nói với cậu... - Loan ngần ngừ... Nhưng mà thôi cũng được.

- Chuyện gì thế? - Thủy ngạc nhiên không hiểu sao hôm nay Loan lại có bộ mặt quan trọng đến như thế - Cứ nói đi. Làm gì mà úp úp mở mở, quanh quanh co co...

- À, ừ... nhưng cậu phải bình tĩnh. Cậu phải hứa với tớ là sẽ không làm gì ầm ĩ, tớ mới nói.

- Sao vậy - Thủy sửng sốt rồi tò mò - Cứ nói đi, tớ hứa là sẽ không làm sao hết. Có chuyện gì thế? Làm sao lại có thể có chuyện gì liên can đến tớ. Cậu lại định vượt biên nữa à? Tớ có viết thư hộ cậu đâu?

- Không phải là chuyện đó mà là chuyện ông Công kia. Ông ấy đang đợi Loan ở nhà ông ấy...

- Loan dừng lại thăm dò rồi nói tiếp giọng đầy thương hại, nhưng cũng không giấu vẻ ban ân

- Tớ đang trên đường đến đó, nhưng nghĩ đến Thủy dù sao cũng là bạn Loan nên Loan rẽ vào để báo cho Thủy biết...

Thủy lặng ng­ười. Con tim cô bỗng quặn buốt tái tê. Một nỗi đau điếng lan nhanh ra toàn thân. Cổ cô tắc nghẹn. A vì thế mà lúc nãy anh rẽ vào báo cho cô biết: Chiều nay anh bận đèo mẹ đi lo một số công chuyện. Mẹ anh đấy? Chao ôi là man trá. Cô muốn gào thét một câu gì đó cho thỏa giận nhưng cố nén. Phải bình tĩnh. Bình tĩnh! Cô căm hận ai đây? Hận Loan hay hận Công? Phải gào vào mặt ai đây mới thỏa đáng? Mặt Công hay mặt Loan?

- Kìa, Thủy không sao đấy chứ? - Loan hốt hoảng lay Thủy.

- Mặt Thủy tái mét đi kìa!

- Không! Không sao! Kể tiếp đi

- Thủy gạt tay Loan ra một cách phũ phàng và đứng dựa vào tường, cố giấu đôi chân đang run rẩy - Kể tiếp đi.

- Nhưng Thủy phải hứa là sẽ không sao cả Loan mới kể. Bởi vì với Loan chuyện này chẳng là gì nữa rồi. Nhưng Loan biết với Thủy đây là lần đầu tiên. Ông Công đã nói cho Loan biết Thủy hoàn toàn trong trắng khi đến với ông ấy.

Đồ khốn khiếp! Đồ bẩn thỉu! Đồ phản bội! Thủy muốn thét lên. Nhưng cô chỉ nhếch mép

- Hừ, kể tiếp đi! Thủy đủ nghị lực để nghe tất cả. Thủy hứa sẽ không có chuyện gì. Thủy cần biết sự thật.

- Được, nếu thế Loan sẽ kể. Hoàn toàn là sự thật, không thêm không bớt...

Những ngày gần đây ông Công luôn đi qua cửa nhà Loan. Loan và ông ấy hay chào hỏi nhau dăm ba câu. Chiều qua ông ấy mời Loan về nhà chơi. Ông ấy năn nỉ Loan đến xem tranh ông ấy vẽ và hứa sẽ vẽ cho Loan một bức chân dung. Nể ông ấy là người yêu của Thủy nên Loan cũng đến. Vào nhà, ông ấy pha nước mát bằng chanh ngâm muối, mang bánh ra mời Loan, rồi bật những băng nhạc mà ông ấy nói rằng ông ấy yêu thích cho Loan nghe. Ông ấy bê những bức tranh của ông ấy vẽ ra cho Loan xem, giảng giải cho Loan về cái đẹp của hội họa...

- Nghe Loan kể Thủy hình dung ra buổi đầu gặp gỡ của cô và Công. Mọi việc diễn ra giống hệt. Cũng cốc nước chanh trái mùa, nhờ sự khéo léo tẩm ướp, vừa lờ lợ vừa hăng hắc, đăng đắng, cũng những chiếc bánh quy, những bản nhạc, những bức tranh và mùi nước hoa cạo râu của Công sực nức trong phòng như vẫn đang còn phảng phất đâu đây. Chỉ có điều nhân vật nữ trung tâm của sự đón tiếp long trọng, gallant ấy bây giờ là Loan. Cô đau đớn thừa nhận rằng đó hoàn toàn là sự thật. Sự thật như buổi đầu Công đón tiếp Thủy.

... Ông ấy đã hôn tớ và cả... - Giọng Loan vẫn đều đều, mỗi lời như một nhát gươm đâm vào tim Thủy. Thủy nín thở lắng nghe trái tim mình như một con thú nhỏ đang tuyệt vọng giãy giụa, đau đớn giữa một rừng gươm dao. - Thủy biết đấy, đối với Loan chuyện đó chỉ còn như một sự giao tiếp, sinh hoạt xã hội. Kìa Thủy! Đừng có thất thần đi như thế. Thủy phải tỉnh táo lại. Loan xin lỗi vì đã làm Thủy đau khổ. Nhưng Loan nghĩ Thủy nên biết sự thật... Ông ấy không yêu Thủy lắm! Thủy không sao đấy chứ? Đừng đau đớn quá thế!

- Đau đớn? Không! Tao chỉ thua thôi - Thủy buột miệng cay đắng mỉa mai.

- Sao lại thua? - Loan ngạc nhiên.

- À... - Thủy định giải thích rằng trong cuộc chiến giành giật tình yêu, cô đã thua Loan. Phải cô, một cô gái trong trắng, ngây thơ và chân thành, học hành giỏi giang lại thua một ả lẳng lơ, thập thành, học hành dốt nát... Trong cuộc chơi tàn nhẫn này Loan và Công thắng thì được một chút vui vẻ, thua thì chẳng mất gì. Còn cô có thắng thì mối tình đầu cũng đã trở nên kém thiêng liêng, nó đã bị hoen ố, còn khi thua thì cô mất tất cả. Cô đã thua. Cô đã mất tất cả sự ngây thơ trinh bạch lẫn tình yêu, cả đám cưới lẫn niềm tin vào cuộc đời. Chao ôi, giá cô có thể trở nên mất trí để đừng phải đối diện với thực tại thì hạnh phúc biết bao. Không thể như thế! Không thể như thế được.

Cô đã thua. Ôi người yêu! Ôi bạn bè! Ôi mối tình đầu! Cô bỗng cười phá lên như điên dại:

- Thủy đã thua. Thủy thua mất 5 hào kẹo lạc. Thủy đã ca ngợi Loan. Thủy đã tin tưởng Loan là một người từng trải, vậy mà sao Loan lại đổ một cách quá là dễ dàng

- Thủy nín thở một lát rồi trút ra một cách khoan khoái - Mình đã thách anh ấy cưa đổ Loan!

- Ơ kìa! - Loan sững sờ quắc mắt giận dữ - Sao mày lại dám làm như thế với tao. Tại sao? Tại sao hả? Trời ơi!

Giờ thì Thủy cảm thấy trái tim mình đã bớt đau đớn đi nhiều, như thể những chuyện cô vừa nói hoàn toàn là sự thật. Không biết sự nhẫn tâm chưa từng xảy ra của cô có độc ác bằng sự vô tâm tàn nhẫn của họ không?

Loan bỏ chạy trong khi miệng vẫn lẩm bẩm: "Tại sao? Tại sao hả?" Có vẻ như cô ta vẫn chưa hết bàng hoàng. Chỉ khi đó Thủy mới chui vào buồng tắm, vặn nước xối xả cho át đi tiếng nức nở nghẹn ngào. Bây giờ cô có thể để mặc cho nước mắt tuôn rơi xót thương cho tình cảm thiêng liêng nhưng lầm lạc của mình.


***

Tối hôm đó Công vẫn đến rủ Thủy đi chơi như thường lệ vào những tối thứ bảỵ Thủy cố gắng giữ bình tĩnh như không có chuyện gì xảy ra, nhìn thẳng vào mắt Công.

- Thế nào, chiều qua anh vui không? - Thủy bắt gặp một thoáng thảng thốt khi Công nghe câu hỏi, nhưng anh ta bình tĩnh được ngay.

- À, chiều qua anh gặp Loan. Nó cứ nằng nặc đòi đến nhà anh chơi. Nể nó là bạn thân của em nên anh đành phải chịu. Hì, hì, con bé đó tự nhiên quá cứ vô tư như ở nhà... Lại còn đòi anh phải vẽ một bức chân dung cho nó nữa chứ... Có mà dở hơi, thóc đâu mà đãi gà rừng... - Công cười vẻ lấy lòng.

- Anh này! - Thủy cười buồn, giờ thì cô hiểu chẳng ai xứng đáng để cô phải buồn vì họ.

- Em đã biết hết rồi. Nó đã đến và kể cho em nghe. Chứng tỏ nó cũng không tôn trọng gì anh hết. Nó cũng chẳng yêu anh gì cho lắm. Em rất buồn cho anh và cho em. Cho nên để giữ thể diện cho cả hai chúng ta và vì những tình cảm thiêng liêng đã từng có của em, em đã nói dối nó rằng có chuyện đó là vì em đã thách anh cưa đổ nó. Rằng đó chỉ là chuyện đùa... Còn giờ đây thì mình hãy chia tay nhau. Em nghĩ rằng như thế sẽ tốt hơn cho cả hai chúng ta. Anh hãy đi đi. Đừng ngoái lại. Đừng nói gì hết. Như thế em sẽ tôn trọng anh hơn. Hãy để cho em nguyền rủa cái ngày mà số mệnh đã run rủi cho em gặp anh. Hãy để cho em căm giận cái phút giây em đã nhận lời yêu anh còn hơn phải căm hận anh. Hãy để cho em được vô cảm với quá khứ để còn có thể làm lại cuộc đời. Em vẫn còn yêu cái thế giới này, còn yêu bố mẹ, anh chị em của em, em chưa muốn chết. Vậy hãy làm ơn cho em một lần cuối, nếu anh còn một chút tình nghĩa nào với em, đó là hãy vĩnh viễn biến mất khỏi cuộc đời em. Thôi đừng nói gì cả... Em không bao giờ có thể tha thứ cho mình vì tội đã lầm lẫn yêu anh...


***

Chưa bao giờ như lúc này, Thủy bỗng thèm khát bộ ngực lực lưỡng của chồng, vòng tay ấm áp, âu yếm đầy che chở của chồng mình. Cô muốn về nhà - chốn nương thân - hang ổ cuối cùng nơi che chắn mọi bất hạnh của đời cô. Thủy cẩn thận bước ra đường ngó nghiêng. Một làn khí ấm mọng nước khẽ lướt trên đôi gò má nóng bừng của Thủy, để lại những bụi sương li ti chưa đủ để nhìn thấy trên làn da mỏng manh. Đôi trai gái ngoài cửa hiệu kính thuốc đã mất tăm giữa dòng người đông đúc. Đó đây, loáng thoáng những cành đào gần như trơ trụi, lác đác vài nụ hoa đỏ rực như những đốm lửa nhỏ thắp giữa búp lá xanh biếc, bên những mặt người hớn hở ngược xuôi trên dòng xe cộ. Thủy bỗng nhận ra: Mùa xuân đã đến! Cả cái mùa đông rét buốt của đời cô vĩnh viễn trôi qua rồi. Hơn Mười năm đã qua đi, cuộc đời của Thủy ba năm nay thật yên ấm. Chồng cô là một người tuyệt vời, tuyệt vời trên cả mong ước của cô. Nhưng cô vẫn sợ. Sự xuất hiện của Loan, ai dám bảo sẽ không là một nỗi nguy hiểm cho gia đình đang hạnh phúc? Cô cần bảo vệ tổ ấm của mình. Cô không muốn gặp lại Loan. Dù rằng cô đã tha thứ. Dù về một khía cạnh nào đó cô biết ơn Loan. Nếu không có "trò đùa" nghiệt ngã ngày hôm ấy, không biết đời cô rồi sẽ trôi đến đâu bên một người chồng lang chạ như Công. Chỉ biết rằng sau "trò đùa" ấy, không phải chỉ có cô không muốn gặp lại hai người đó, mà họ cũng không bao giờ dám nhìn lại mặt nhau .

196

Chờ đợi những mùa tôm



Chờ đợi những mùa tôm


     Cứ mỗi lần gặp, bác lại nhắc ba, hỏi thăm ông bạn già ra đi từ mùa chuyển dịch. Ba bỏ phố về đồng, đào vuông, nuôi tôm. Con thưa, Ba con khỏe, nhưng ốm nhom, đen thui thùi lùi, cằn cỗi người đi. Như cây dừa Xiêm đầu liếp, khi nước bắt đầu thấm vào thớ đất mặn mòi, con người cũng khác.

Khi nào rảnh, con mời bác về thăm ba con chơi.

Chỗ ba con ở không xa nhà mấy, qua cây cầu có con đường nhỏ dẫn xuống mé sông, qua chuyến đò ngang, men theo cái bờ đã lở như cá chốt rỉa sẽ đến đập Bộ Phát. Lần theo mé kinh nhỏ, bác sẽ gặp ba con. Không biết bây giờ ba con đang làm gì. Nắng này, chắc ba con đi trồng cỏ nước mặn cho cỏ bò che phủ mặt nước, để nước đừng nóng lên. Chắc ba đang đóng lại cái cống tháo nước bằng gỗ. Chắc ba đang hì hụp xúc sình bồi lên cái bờ vuông vừa lở chiều qua… Mà có thể, bây giờ ba con đang ngồi uống trà, má con nấu bữa cơm chiều, con cá phi kho khô tỏa mùi mặn nồng trên bếp, má kể sáng này thấy được con tôm rồi, nó bằng ngón tay cái vầy nè. Hai ông bà cười, mơ về những giấc mơ xa xôi lắm.

Con tin rằng, bác sẽ giật mình khi nhìn thấy ba má con như chính con giật mình khi nửa tháng, mười bữa mới gặp. Ông bà già đi nhanh, cái già tranh thủ từng ngày, từng giờ, mót máy từng khoảnh khắc của cuộc đời. Chỉ mới một mùa tôm thôi, bác à, nhưng đó là mùa tôm người nông dân vùng chuyển dịch vắt kiệt mình ra trước bao nỗi cực nhọc, buồn vui.

Con vẫn tin rằng, làm vuông nuôi tôm làm cho người ta sống cùng, sống tận với cảm xúc của mình nhất. Vui thôi là vui cái hồi bắt đầu cất căn chòi nhỏ. Mỗi chuyến đi về, ba má con xách theo nào nồi niêu xoong chảo, nào là mùng mền chiếu gối. Ba con nói vui "cảnh nầy y chang tui với bà vừa mới cưới, được ra riêng". Một mái ấm dựng lên trên góc đất, nằm cặp mé kinh. Một chiếc xuồng nho nhỏ buộc đằng trước nhà. Dưới ruộng, đất đang cắt, đang đào, bờ bao ngạn lờ mờ hiện ra trong làn nước. Dọc theo xóm, nhà nào, người nào cũng hồ hởi. Nửa đêm, gió thổi hiu hút, trở mình nhớ nhà, nhớ đám con cháu ở nhà, tụi nó lúc nào cũng cười giỡn, cãi vả eo xèo, cãi cũng vui thiệt là vui. Rồi ba hỏi má, mình bỏ nhà, lặn lội vô đây để làm cái gì bà ha ? Má không nói vì cái gì, má chỉ an ủi, cùng lắm hai mùa tôm, có chút vốn kha khá rồi mình sẽ về. Cái hồi đó sao mà hy vọng tràn đầy, hy vọng lênh láng. Phải chăng vì niềm hy vọng khao khát vươn lên nên khổ cực tới đâu ba má con cũng chịu. Một đêm vài ba lần, ba má con thức dậy, đi rảo một vòng vuông, canh con nước ... Mức nước ngoài sông không cao, kinh cạn, đón con nước nửa đêm, hai ông bà ì ạch khiêng máy ra tát vô đầm nuôi. Chập chờn một chút, má choàng thức, rủ ba hì hụi đem máy vô chòi. Bác cũng biết, chuyện tiếp nước cho tôm từ cơ sở hạ tầng trồng lúa cũ đang là một trong nhiều khó khăn của chương trình chuyển dịch ở tỉnh mình. Nên chuyện nước ra nước vào ở chỗ ba con như một tiểu tiết, một chấm nhỏ mờ mịt trong 200ha chuyển từ đất trồng lúa sang nuôi tôm trong tỉnh. Không ai bảo ai, bà con ở xóm kinh tự lo, tự xoay xở riêng mình như hồi nào giờ vậy, nhà nước lo được bao thì hay bấy nhiêu. Có tủi thân, tủi phận thì lủi thủi than thở với nhau chơi, vậy thôi. Nhà nước còn phải lo tỉ tỉ chuyện lớn, chuyện mất còn khác.

Những đêm mưa, sợ nước dâng ngập bờ, dầm mình đi tháo nước, những ngày nắng, lặn lội xúc từng gàu sình từ đáy đầm lên… Ba má con an ủi nhau, hồi trước giờ có khi nào nhà mình hỏng cực. Nào là trồng cải, trồng ngò đội đi chợ, nào là mua so đũa về làm nấm rơm, nào là đi mua lúa hàng xáo, rồi làm hai ba vụ lúa… Có làm gì mà không cực khổ, dậy sớm thức khuya.

Nhưng không làm nghề gì khắc nghiệt như nuôi tôm, y như trên chiến trường, "thắng làm vua, thua làm giặc", mà là giặc nghèo, giặc đói mới chết. Ba tháng nhọc nhằn, ba tháng rót vào lòng đầy hy vọng, tôm chết. Lúc đầu còn chết từng vuông, từng chòm, sau chết cả vạt đồng, cả xóm, cả vùng. Tôm chết như người ta trở một bàn tay. Lẹ ghê, ngủ một đêm sáng dậy thấy tôm lụi vô bờ, nằm dại khờ trên gờ đất, ngọn cỏ, ngọn rong. Vớt từng con tôm nhỏ bằng ngón tay út lên lòng rưng rức, đứt ruột. Tở phở hỏi nhau làm sao mà tôm nó chết vậy kìa ? Có ai làm gì nó đâu mà nó chết, mình quý nó còn hơn mạng mình nữa mà? Tôm chết rồi làm sao cứu đây ? Cho nó uống thuốc gì, chích thuốc gì ? Ý trời, Anh là cán bộ ngoài tỉnh vô làm vuông, bộ không biết sao ? Làm sao biết được. Bụng xót như xát muối, te tái chạy đầu trên đầu dưới hỏi nhau những câu ngớ ngẩn mắc cười.

Tôm chết rồi, cũng hệt như bà con ở xứ mình, ba má con mới biết mình hỏng nặng về kỷ thuật. Lăn lộn cuộc đời nông dân ngót năm mươi năm không có chút kinh nghiệm nào có thể đem vào chuyện này, má con nằm gác tay trên trán, thở dài, rút ra kết luận. Má tá hỏa khi biết hầu hết tôm giống trên thị trường không hề được kiểm dịch, đúng quy trình phải quăng cả trăm ký vôi bột mà mình xài có hai ba chục ký… Báo chí than bà con mình thiếu thông tin, thiếu hiểu biết rầm trời, các chú "ở trên" nhằn, bà con mình nóng vội quá. Nhưng bà con họ chờ bao lâu rồi hở bác, lâu quá là lâu rồi, từ đời cày cấy này qua đời trồng tỉa khác, họ kỳ vọng cái ngày vươn lên. Tôm chết, giống như một luồng nước lạnh tạt vào ngọn lửa trong lòng của mỗi người. Nhưng ngọn lửa ấy không tàn lụi, nó vẫn rạo rực cao ngọn từ tro ướt. Đã tắt hy vọng đổi đời từ cây lúa, người ta chờ đợi những mùa tôm.

Ba má con chắc là bị "sốc", bác cũng biết, gì thì má con làm ruộng cũng giỏi có tiếng tăm mà. Bà cảm thấy buồn lắm. Hai ông bà gầy rộc, sọp người đi. Ba con thôi làm thơ. Con không biết tại sao. Con vẫn thầm mong ba làm thơ lại. Trời đất ơi, bây giờ ba mà làm thơ được chắc là hay lắm. Những bài thơ không chỉ có tình yêu nam nữ, không chỉ có bức bách đời thường, mà nó còn mang nặng những niềm vui nỗi buồn lớn lao, đông đúc của người nông dân. Ba con kể chuyện vui. Ba nói có chú nào ở đầu kinh dưới hồi thả tôm tới giờ không thấy nó nổi lên chơi ch52

Oct 25, 2005

Bay qua thời gian



" Xin trả về cho nhau những dấu yêu cuối cùng. Vì thời gian trôi mau không giữ được tình ta. Dù lòng còn yêu nhau đã nói yêu mãi hoài..."



Buổi chiều xuống rất nhanh. Chúng được báo hiệu bằng vạt mây đỏ sẫm cuối trời. Chen chúc xung quanh là những tảng mây lớn nặng nề màu hạt dẻ, trên đó bám theo những vẩy mây trắng như những cụm lông cừu nhỏ. Không nghe được tiếng chim kêu. Chỉ nhìn thấy những cái bóng bé nhỏ của đàn chim chậm rãi bay về phương Nam. Bây giờ rõ hơn một chút, phía dưới kia những ngọn cây nhọn hoắt bắt đầu ngả sang nâu đen, những con sông sáng ánh thiếc, những tòa nhà cao tầng như những bệt màu trắng sổ mạnh trên cái nền lờ nhờ xám của bóng tối đang dần phủ xuống thành phố.

Máy bay sắp hạ cánh. Tiếng máy bay ầm ì nhọc mệt đè nặng lên trái tim tôi một cảm giác bất an và lo lắng. Tôi tưởng tượng ra một sân bay mênh mông đông nghẹt người. Những người to cao, tóc vàng mắt xanh. Những người không nói cùng ngôn ngữ. Những người xa lạ. Chắc chắn họ sẽ không để ý đến tôi. ( Thật khủng khiếp là họ sẽ không để ý đến tôi). Điều đó càng mang lại cảm giác cô độc ghê gớm giữa thế giới to rộng này.Rồi người ra đón tôi và tôi sẽ lạc vào trong đó mà không tìm được ra nhau. Tôi sẽ làm gì nếu chúng tôi không gặp nhau.

Ở cuối chân cầu thang máy bay, cô gái trẻ có mái tóc hung đỏ đi cùng chuyến với tôi đã gặp được người yêu- một anh chàng nhỏ nhắn đeo khuyên ở mũi và tóc nhuộm một chút đỏ ở mái như một cái mào Vẹt. Họ ôm nhau, hôn nhau say đắm. Tôi đi ngang qua, len lén nhìn họ. Vô tình lúc ấy tôi trông thấy cô khóc. Nước mắt không chảy thành dòng mà viên lại thành từng giọt to, đục. Những giọt nước mắt của cô, mùi hương lài có lẽ tỏa ra từ những nếp váy nhàu nhò của cô làm tôi cảm động. Tôi liền vẽ ra trong đầu mình một câu chuyện tình lâm li bi đát. Tất nhiên không phải cứ gặp nhau, ôm nhau, hôn nhau và khóc là những tình tiết của một câu chuyện buồn. Nhưng rõ ràng bất cứ giọt nước mắt nào trong hoàn cảnh này cũng dễ dàng gợi lên sự thương cảm và sầu nhớ. Trong tình trạng hiện thời của tôi, không gì hay hơn là tưởng tượng ra một câu chuyện như thế. Bởi ngay lúc đó tôi thật sự muốn mình được khóc.

Phòng nhận hành lý, trần thấp lè tè và tăm tối. Những chiếc bánh xe lăn kêu kót két. Hành lý đổ xuống băng chuyền ồn ĩ. Bỗng nhiên ánh sáng từ trên cao, qua những lỗ hổng trên tường, đồng loạt ào xuống. Trong ánh sáng xanh nhợt nhạt đó, tôi nhìn thấy một người đàn ông to lớn, tóc bạc, mặc áo sơ mi trắng, đeo một chiếc xà cột bằng da nâu cứng. Trên tay ông cầm một tờ giấy ghi nguệch ngoạc hai chữ " Miss Giang" và trên ngực áo đeo một tấm bảng nhỏ đề tên của ông " Robert Palmer- người dẫn đường". Chúng tôi bắt tay nhau. Bàn tay ông mập mạp và ấm áp. Đôi mắt ông ánh lên những tia lửa nhỏ màu vàng. Từ chiếc áo khoác cũ kĩ dài chấm đầu gối của ông phả ra mùi bánh mì ủ lâu ngày lên men và mùi rượu hoa quả.

Ông đến từ New York, một thành phố ồn ào, náo nhiệt và hiện đại nhất của nước Mỹ rộng lớn. Nhưng ông hoàn toàn không cho ta cái vẻ gì là một người đã từng sinh ra, lớn lên và trải qua mấy mươi năm cuộc đời ở nơi đo,ù ngoại trừ sự nhanh nhẹn và năng động ít khi thấy có ở một ông già. Ông chỉ đi duy nhất một đôi giày to bằng da đen sờn vàmặc chiếc áo choàng cũ ngả vàng mỗi khi trời trở rét. Mỗi khi áp mặt vào tấm áo choàng, như lần đầu gặp ông ở sân bay, thoảng nghe mùi hương bánh mì và rượu quả lên chua từ chiếc áo, thậm chí từ đôi bàn tay khô nhám của ông, tôi lại tự hỏi sao mà nó quen thuộc và ấm áp. Có lẽ vì nó luôn thường xuyên gợi lại trong trí tôi những hình ảnh thân thương của ông tôi và ba tôi, trong những căn phòng tối thơm mùi mì nấu cải xanh.

Tôi thường nghĩ về nước Mỹ qua ông. Trong cái cách đi bộ hối hả, sải chân bước dài đến cả mét, đầu chúi về trước, tay giữ chặt chiếc xà cột để nó không đập bồm bộp vào đùi. Trong cách ông luôn chọn những quán hàng ăn rẻ tiền nhất và sục sạo vào những cửa hiệu bán các đồ lặt vặt tuồng như đã tồn tại cả hàng trăm năm. Trong cách ông cười tươi tỉnh với tôi vào buổi sớm mai và dáng ngồi cô độc của ông trên ghế đá ngoài bờ sông Iowa.

Bằng cách đó tôi đã hiểu rằng nước Mỹ không phải là thiên đường. Đằng sau bộ mặt xinh đẹp đến mê đắm của nước Mỹ còn có những cuộc đời cô đơn và buồn thảm. Sự đào thải khắc nghiệt trong công việc làm ăn, sống và tồn tại luôn làm con người căng thẳng. Họ sống lạnh lùng với nhau một phần cũng là vì đã quá mệt mỏi.

Chúng tôi rời sân bay, bắt đầu cho chuyến viễn du dài một nghìn bảy trăm năm mươi hai giờ. Bắt đầu cho một giấc mơ có thực trong cuộc đời. Chiều vẫn còn phảng phất hơi nóng của một ngày mùa hè tràn ngập ánh mặt trời. Nhưng lúc này phía ngoài bờ sông Potomac đã thổi vào những làn gió mỏng và mát, đủ làm lay động những tàn cây xanh biếc và thổi dạt những đám mây mỡ gà trên trời xa.

Chúng tôi ở trong một khách sạn nhỏ nhưng rất xinh đẹp số 2000 trên đường N. Nó giống như một ngôi nhà cổ nằm trầm mặc giữa vườn cây xanh với những chiếc lá con li ti ánh bạc, với những chú sóc nâu đuôi dài chỉ tìm cách leo lên cửa sổ, giương đôi mắt tròn đen nhánh tò mò nhìn vào trong phòng một cách không giấu giếm. Thỉnh thoảng chúng để lại trên bệ cửa những vỏ hạt dẻ bị cắn nham nhở hay những bông hoa lạ màu trắng xanh, bé như những cái khuy. Máy lạnh chạy rầm rĩ suốt đêm. Chẳng mấy chốc nó đã làm căn phòng có những tấm rèm hoa sặc sỡ lạnh ngắt như trong tủ lạnh.

Trong cầu thang máy của khách sạn, tôi thường hay gặp một anh chàng người Mexico phục vụ ở phòng ăn. Nhưng đáng lẽ đứng thường trực ở phòng ăn thì anh ta luôn tìm cách chạy lăng xăng đâu đó, lên lầu xuống lầu, trong tay lúc nào cũng cầm một chiếc khay bằng bạc và một bộ nĩa cũng bằng bạc lấp lóa. Đó là một anh chàng lực lưỡng, điển trai với nước da vàng, mái tóc đen chải keo bóng nhẫy và có một bộ ria mép của Ret Butler. Mỗi lần gặp tôi anh chàng lại cười một nụ cười đẹp mê hồn và hỏi, cô thấy thoải mái chứ. Tôi thường không hy vọng gì ở trí nhớ của những người phục vụ hoặc bán hàng. Không phải vì tính đãng trí hay vô tâm mà vì những cuộc gặp gỡ trong cuộc đời họ nhiều đến độ, nó giống như một hộp thư điện tử quá tải, phải delete bớt trước khi nhận thêm thư vào hộp. Nên khi anh chàng bảo sẽ nhớ tôi lắm thì tôi bật cười thành tiếng. Điều đó làm phật lòng anh. Mặt anh ta đỏ lên và anh ta đưa ngón tay cái lên miệng tỉ mẩn gặm nó.

Nhưng quả thật anh chàng đã không quên tôi. Sau một tháng rưỡi rong ruổi khắp mọi nơi, tôi quay trở về khách sạn. Tôi gặp lại anh ở trong cầu thang máy, tay vẫn cầm chiếc khay và bộ nĩa bạc, bàn chân nhịp nhịp như luôn muốn nhảy theo một điệu vũ nhạc nào đó trong đầu. Trông thấy tôi, miệng anh ta vo tròn lại và kêu lên bối rối, cô về hồi nào vậy. Cô trông chẳng khác chút nào cả.

Vậy là buổi sáng đó, trong vườn hoa cúc kim nở rộ, tôi được ăn một bữa sáng khá thịnh soạn với sự phục vụ tận tình của anh ta, mặc dầu cả hai chúng tôi đều biết rằng điều đó vi phạm vào luật của khách sạn. Nhưng dù sao, đây cũng là bữa ăn sáng cuối cùng của tôi trong khách sạn Cánh đồng mùa hè số 2000 đường N.

Anh ta luôn luôn hỏi, vậy là cô sẽ ra đi thật sao. Tôi nhìn ra ngoài hồ bơi. Có hai đứa trẻ đang nghịch trên bờ. Trời lạnh, chúng khoác những chiếc áo ấm dày và đầu đội mũ len. Một đứa mặc áo len đỏ. Một đứa khoác áo da xanh nhạt. Chúng nói gì đó và cười, và đuổi bắt nhau vui vẻ. Tôi biết chắc tôi sẽ không khóc. Nhưng vì cảm động mà tôi phải quay mặt đi hoặc chúi đầu vào dĩa thức ăn. Khi bên tôi, anh bạn vẫn lặp lại những câu hỏi buồn rầu bằng một giọng tịt mũi, cô sẽ đi thật sao. Chúng ta sẽ không còn gặp lại nhau nữa phải không? Có ai đó yêu cầu sự giúp đỡ của anh ta. Anh miễn cưỡng ra đi, sau khi để lại một nụ cười mê hồn của Alaine Delon làm tim tôi thổn thức. Từ giây phút đó trở đi, chúng tôi không còn cơ hội gặp lại nhau nữa.

Những giờ rảnh rỗi, trong khi đợi bạn từ Virginia lên đón đi chơi, tôi thích ra ngồi ngoài ban công của khách sạn. Không khí thơm ngây ngất mùi hoa cỏ dại. Những đám mây chạy đuổi bắt nhau tung những cuộn mây nhỏ trắng xóa như những bọt sóng. Khu vườn bé có những bộ bàn ghế bằng sắt xinh xắn sơn trắng kê dọc lối đi rải sỏi, trên những bờ cỏ xanh ngắt, yên tĩnh và vắng người. Phía sau hàng rào sắt bao quanh khu vườn là con đường rậm rạp bóng cây, những chiếc xe hơi đậu một hàng dài vô tận. Phía sau đó nữa, có thể lắm chứ, là một cái hồ xanh trong như con mắt biếc hoặc chính là dòng Potomac lững lờ trôi như một chiếc băng đô bằng lụa xám cột ngang mái tóc xanh của thành phố.

Tôi ngồi đó cho đến khi chuông trong phòng kêu lên những tiếng rụt rè. Lần này là những người đến mua tranh. Chúng tôi ngồi xệp xuống sàn trải thảm, bày tranh trên chiếc bàn gỗ nhỏ. Anh chị Trịnh Thục có vẻ xúc động. Họ mỉm cười bối rối. Và ngượng nghịu đi lại, từ phòng khách vào đến căn bếp nhỏ ( trong khách sạn này, mọi phòng đều được bố trí như một căn hộ nhỏ) và từ đó lộn trở lại phòng khách. Sự xúc động của họ đến từ nỗi nhớ Việt nam da diết. Mặc dầu mới gặp tôi cách đó vài tháng ở Sài Gòn vào những ngày nhiều mưa nhiều nắng, nhưng họ vẫn háo hức nghe những tin tức về Việt nam, tựa như họ đã không được nhìn thấy quê hương hàng chục năm trời và nghẹn ngào kêu lên, trời ơi, những bức tranh này làm tôi nhớ Việt nam ghê gớm.

Buổi chiều, tôi đến thăm nhà anh chị ở khu Fair Fax. Trong những căn phòng ấm áp thơm mùi hoa cỏ dại và nến, những bức tranh lồng khung mạ vàng được treo trang trọng trên tường. Những bức tranh này một thời gian dài cũng đã được treo trang trọng trên tường nhà tôi. Tôi thuộc lòng từng ngày tháng, hoàn cảnh và nơi chốn ra đời của mỗi bức tranh. Chúng lưu giữ trong hồn giấy và sắc màu lung linh ấy những kỷ niệm vô cùng tươi đẹp đã đi qua cuộc đời tôi.

Tôi đứng lặng trước chúng, lòng xao xuyến. Niềm vui sướng kỳ diệu vì không ngờ lại được gặp mặt lại những đứa con tinh thần của mình, ở một nơi cách xa nửa vòng trái đất và sự đau đớn sâu sắc vì biết chắc rằng tôi đã vĩnh viễn mất chúng làm ngực tôi nghẹn lại. Nhưng cùng lúc đó, tôi hiểu rằng mình đang được hạnh phúc. Vài chục năm nữa, vật đổi sao dời, xa cách không một lần gặp mặt tưởng có thể quên hết đi chuyện ngày qua, nhưng khi nhìn những bức tranh, họ sẽ thấy rằng Việt nam luôn bên cạnh họ và thấp thoáng sẽ có hình bóng tôi ở một nơi sâu thẳm nào đó trong nỗi nhớ da diết của họ.

Vì lẽ đó, sự vô giá của bức tranh, ngoài giá trị nghệ thuật, còn nằm ở tính vĩnh cửu của thời gian. Trước khi vẽ một bức tranh tôi chỉ mơ hồ cảm giác được điều đó. Nhưng khi đứng giữa những căn phòng rộng lớn có mái vòm lấp lánh những chùm đèn pha lê và lộng lẫy những khung tranh phết vàng đồ sộ của các viện Bảo tàng, tôi hiểu nó rõ ràng hơn.

Hơi thở của không khí và thời gian thổi tràn ngập trong phòng. Tôi nghe thấy tiếng kẹt cửa khe khẽ và Van Gogh lách mình bước ra ngoài phố , đầu đội một chiếc mũ dạ màu xanh dương có viền lông đen trước trán nhàu nhò và cũ bẩn. Một giờ sau ông quay trở về căn phòng nghèo nàn của mình, trên tay ôm một bó lèo tèo vài bông hướng dương sắp héo rũ. Ông cắm hoa vào lọ, ngồi vào chiếc ghế gỗ cũ kĩ đến độ nó chỉ muốn sụp xuống vào bất kì lúc nào, vừa vẽ vừa chống lại cái đói, cái rét. Sự u ám của đời sống làm sáng rực lên những mảng màu trên tranh. Sự yếu đuối và bất định trong tâm hồn làm những nét bút thêm đầy đặn và mạnh mẽ. Đó dường như là cách để chống lại nỗi đau đớn và cô đơn của tâm hồn và thể xác. Đó dường như cũng là lúc, tận cùng của nỗi thống khổ hoạ sỹ lại tìm gặp được một niềm hạnh phúc vô biên không thể nói thành lời. Nó như một tia chớp sáng rạch ngang bầu trời đêm. Và chỉ có hội hoạ mới đủ sức để nuôi dưỡng nó.

Nếu chỉ có tài năng mà không có lòng yêu mãnh liệt đối với cuộc sống, con người và thiên nhiên, hẳn niềm hạnh phúc ấy không thể nào đến để tạo ra những tuyệt tác và đám hậu sinh chúng ta có được sự xúc động chân thành đến như vậy khi đứng trước chúng.

Kì lạ thay là tình yêu vĩ đại ấy. Nó biến sự chết lặng của những miếng màu bẹp dí trên vải thành sự xao động của hoa lá trong vườn đêm, thành tiếng sột soạt của tơ lụa óng mịn, thành mùi hương mê đắm của biển và ánh mặt trời rực rỡ…

Những bức tranh diễu hành qua mặt tôi. Trái tim nức nở và mắt nhòa lệ. Ngay lập tức tôi thấy mình đang đi giữa ánh sáng mờ ảo của những phòng tiệc lớn vào cái thời cách đây vài trăm năm với những chiếc lông chim và tà áo lụa dài chạm vào da mát rượi, với những bờ vai nõn nà và những lọn tóc giả bằng tơ óng, thậm chí đôi khi còn như rơi vào giữa một cuộc chiến đẫm máu với giáo mác gươm đao sáng lòe. Hoặc tự nhiên thấy mình đang lạc bước trên những đường phố tuyệt đẹp của Paris hay nằm dài trên những đụn rơm thơm nồng nàn của xứ Provence ngắm mây trời bay…

Ai là người có thể cùng một lúc đưa lại cho ta những cảm giác tuyệt vời như thế ngoài Hội họa?

Ở những bảo tàng Mỹ thuật hiện đại như Moma ở San Francisco hay New York, tôi đã đến mà không phải để tìm thấy những cảm xúc êm ái và ngọt ngào như vậy. Thường ở những nơi này, họ trưng bày những bức tranh trừu tượng hoặc nghệ thuật xếp đặt và Video. Chỗ dòng đề chất liệu, luôn là từ "mixed" ( trộn lẫn). Kết quả của mỗi một tác phẩm là sự trộn lẫn giữa âm thanh, ánh sáng, mùi vị, đồ vật, kĩ thuật, cảm xúc…Nó bề bộn như cuộc sống hiện đại với đủ thứ lo âu và khao khát. Nó thảy chúng ta vào một cái túi tối đen rồi đột ngột lôi chúng ta ra ngoài ánh sáng chói chang. Nó dồi chúng ta trên những ngọn sóng dữ tợn nhất của bão tố, quất vào mặt ta những ngọn gió buốt nhất của giá rét, gõ vào tai ta những tiếng động ầm ĩ nhất…cho đến khi tim ta rướm máu, tay chân ta mỏi nhừ và đầu óc ta căng ra như một quả bóng thì nó tống ta ra cửa. Ấy vậy mà bỗng nhiên, như một phép màu xảy ra, khi hít thở khí trời và đối mặt với cuộc đời thực, ta bỗng thấy cuộc sống tươi đẹp lên bội phần. Đáng để cho ta yêu và sống thực đàng hoàng với những năm tháng sẽ đến. Và chúng ta ra về. Lòng tràn ngập niềm biết ơn vô hạn.

Một lần, tôi và Vinh ghé thăm Bảo tàng Mỹ thuật ở San Francisco. Vinh là bạn cũ của tôi từ năm lớp Tám. Đến khi lên cấp Ba mỗi đứa mỗi nơi. Trong trí tôi Vinh vẫn chỉ là một cậu bé con nhỏ người, ngồi bàn cuối cùng trong một lớp học tăm tối, ẩm thấp, thỉnh thoảng bay lên mùi phân mèo và mùi mưa ướt át. Nhưng Vinh bây giờ đã khác. Cậu to cao, đẹp trai hơn với mái tóc đinh chải keo bóng loáng, với áo sơ mi trắng và áo khoác ngoài bằng da nâu thoang thoảng mùi nước hoa ( trong đêm lạnh và sương mù của San Francisco, nó trở nên vô cùng quyến rũ). Nhưng quan trọng là trông cậu tự tin hơn. Sự tự tin đó tỏa ra từ ánh mắt sáng và tiếng cười giòn giã.

Cậu nhìn đời bằng đôi mắt háo hức của kẻ muốn chinh phục và chiến thắng. Điều đó có thể lý giải được vì có thể gọi cậu là một trong những người Việt Nam trẻ tuổi có những bước đầu thành công trên một đất nước xa lạ không phải là quê hương của mình khi được nhận bằng kỹ sư vi tính và có chân trong hãng Microsoft. Để xua tan cơn buồn ngủ, trên đường xuống Los Angeles, trong khi tôi bắt đầu gà gật, cố gắng dấu đi những tiếng thở dài cứ chực bật ra thì cậu có thể nói không biết mệt mỏi về cái mớ bòng bong giữa triết học và chính trị. Tham vọng làm chính trị của cậu không bị che giấu nên cứ sáng rực lên trong mắt, dù cậu hiểu rằng, cơ hội cho cậu ở đất Mỹ là hoàn toàn không thể.

Giờ đây chúng tôi thay đổi vị trí cho nhau. Tôi say sưa với những tượng và tranh bao nhiêu cậu trông lại càng thảm hại bấy nhiêu. Cậu ngồi trên một ghế băng dài, mặt thẫn ra và luôn tay đưa lên che miệng ngáp, nước mắt chảy dàn dụa trên mặt. Rồi cậu thốt lên yếu ớt " Trời ơi mình đói quá. Đói đến run cả tay chân" như một lời bào chữa cho sự uể oải của mình.

Ngoài sân, một cái sân rộng lót gạch xám dựng đứng những cây cột bằng thạch cao trắng cao vút, một đám cưới đang diễn ra dưới chân tượng " Suy tư " của Rodin. Những cô nàng phù dâu mặc những chiếc áo dài lụa xám như sương khói. Nắng tỏa một lớp bụi vàng óng ánh lên người các cô, biến các cô thành tiên nữ và khung cảnh đẹp như thần tiên. Vang trong gió những tiếng cười hồn nhiên và những chiếc chuông bạc đính trên thắt lưng của họ rung lên những tiếng trong trẻo, chúc phúc cho đôi vợ chồng son.

Tôi ngồi xuống bậc tam cấp đá mát lạnh. Trong không khí bay lên những bọt tròn nhỏ đầy màu sắc. Chúng đột ngột vỡ ra làm bóng tối màu nâu đất phủ quanh bức tượng người đàn ông đang ngồi trầm tư chuyển sang xanh non và lấp lánh những tia lửa nhỏ. Tôi cảm giác người đàn ông sắp cử động. Chàng sẽ hạ bàn tay chống cằm xuống, đầu chàng sẽ ngẩng cao và từ khóe mắt sẽ rỉ ra hai dòng nước.

Chàng đang nghĩ gì? Ngồi giữa trời đất bao la, trầm mình qua mưa gió, chàng nghĩ về một tình yêu bất tử hay một hạnh phúc dài lâu của đời người? Chàng nghĩ về sự bất hạnh hay nỗi đau khổ đời đời của nhân loại?

Hay chàng đang nghĩ thời khắc thật ngắn ngủi và ngày trôi qua như gió như mây, mọi thứ danh lợi đều là phù du. Sao người với người không biết thương yêu mà cứ mãi dằn vặt nhau cho đau khổ?

Chúng ta đứng dưới chân chàng, nghĩ về những điều chàng đang nghĩ. Bỗng nhiên từ một nơi xa xăm nào vọng lên một tiếng thở dài buồn bã. Chúng rền rĩ chạy trên đầu tôi như ngọn gió ướt đẫm sương mù từ ngoài cầu tàu Người Đánh Cá thổi lại. Thứ gió này tôi thường cảm thấy mỗi khi đi dạo ngang qua Đài tưởng niệm chiến tranh Việt Nam, nằm trong công viên Washington DC mặc dù ở đây không có biển, không có cầu cảng, không có sương mù. Chỉ có dòng Potomac trong xanh và những hàng cây xinh đẹp tỏa vào không gian hương thơm mát. Những đám đông thường đến đây đi dạo trên những đường lát ximăng xám rậm rạp cỏ hoặc đến ngồi trên những ghế đá trong ánh nắng của ban mai hay chiều tà đột ngột chuyển sang màu xanh nước biển.

Buổi sáng đầu tiên ở nước Mỹ, Mary dẫn chúng tôi tới đây. Mary vâm váp, tóc vàng óng. Chiếc váy đen hai dây dài ngang đầu gối lộ ra đôi vai to khỏe và nước da nâu óng lốm đốm tàn nhang. Mary làm hướng dẫn viên du lịch, cô nói nhiều, nói nhanh, hàm răng sáng lên lấp lánh. Các từ cứ ríu ríu vào nhau, lại được thể hiện bằng một giọng hơi thé, cuối câu không hạ xuống thấp mà cứ mải bay lên cao nên rất khó nghe. Mỗi lần ngừng lại, cô lại thở dốc, uống một ngụm nước to và đưa khăn lên thấm mồ hôi rịn đầy trên trán. Khi biết tôi đến từ Việt Nam, cô có vẻ hào hứng, cô thường dành cho tôi những nụ cười âu yếm và những cái xiết tay mạnh mẽ trong suốt chuyến đi. Cô chỉ bức tường đá khắc tên những người lính Mỹ đã nằm xuống trong cuộc chiến tranh Việt Nam, hỏi tôi nghĩ gì?

Tôi đã đứng nhìn những bức tường ấy rất lâu. Mặc dầu nắng lên lấp lóa trên mấy tàn cây, rọi xuống những đốm hoa nắng vàng óng như những đóa cúc nhỏ nhưng màu đen của đá lạnh vẫn mang lại cho tôi một cảm giác nặng nề. Giữa khung cảnh thanh bình, trời rất xanh, gió lại dịu dàng và không khí trong trẻo, bức tường dựng lên đột ngột như một cái gai khổng lồ, luôn sẵn sàng làm tứa máu ký ức.

Hơn hai mươi bốn năm đã trôi qua, nhưng không phải tất cả mọi điều đều đã trôi qua. Chắc chắn rằng những vết thương trong lòng những cựu binh Mỹ và Việt Nam không bao giờ còn lành lại được nữa. Ngày hoặc đêm, nó đều đã trở thành nỗi ám ảnh. Bên những bức tường như thế này, tất cả đều là những người bại trận. Bại trận trong quá khứ và đời sống bất an của mình.

Giờ đây, những bé em đang chạy đuổi theo quả banh trên luống cỏ, những cặp tình nhân khoác vai nhau thả bộ trên đường và ngay cả tôi cũng đứng ngoài nó, không thuộc về những mất mát và đau khổ đã khắc sâu trên bức tường đồ sộ của nước Mỹ, trên những bức tường mà nếu dựng lên ở Việt Nam, sẽ cao bao nhiêu, dài bao nhiêu và rộng lớn biết bao nhiêu.

Trong đám đông người dự buổi tham quan ngày hôm đó, không hiểu sao tôi thấy rất quí mến cô Plack vợ của David Plack, nhân viên chương trình Viết văn quốc tế dù tôi và cô không nói chuyện với nhau nhiều, thậm chí cả tên của cô tôi cũng không kịp hỏi. Cuộc sống của tôi, tôi vẫn thường ngẫm ngợi, thấy thật lạ kỳ. Có một vài việc chỉ thoảng qua mà không cách nào quên được. Chúng day dứt và trở thành sự ám ảnh trong trí.

Cô Plack không đẹp, giọng nói nhỏ và hơi thé, không chuẩn âm vì cô người Tây Ban Nha. Mái tóc hạt dẻ cắt ngắn, lộ khuôn mặt xương với đôi mắt to màu thép xanh có những ánh nhỏ đen thẫm nở xòe như một đóa pháo bông tí hon và hàng lông mi rậm rạp tựa bóng một hàng cây phủ xuống mặt hồ phẳng lặng. Trong chiếc váy vải hoa xanh nhạt cũ mỏng, tưởng chỉ cần vò mạnh tay chúng cũng bở vụn ra như cám, cô mảnh mai dịu dàng như những cây liễu mùa thu mọc quanh hồ công viên quốc gia Iowa. Mỗi một nụ cười của cô, mỗi một cử chỉ của cô đều rụt rè bối rối, e thẹn như một cô gái nhỏ chưa chồng.

Mỗi lần quay lại nhìn cô, bắt gặp ánh mắt trìu mến của cô nhìn chồng, lòng tôi thấy nhẹ bỗng. Tôi hay mơ hồ về một thứ tình yêu vượt biên giới. Nó có vẻ chắp nối và không thật, ít nhất là trong sự khác biệt về ngôn ngữ và sâu xa hơn là sự khác biệt về cội nguồn dân tộc. Có thể bởi vì chúng ta là người Châu Á, chúng ta vốn thấy những điều đó là lạ lẫm. Nhưng nhiều khi chúng ta quên mất rằng tình yêu có tiếng nói bí ẩn và ma lực của nó thì vô cùng. Chúng ta là những linh hồn nhỏ lang thang cô độc trong thế giới mênh mông này. Duyên cơ may gặp nhau thật vô cùng quí hiếm. Lại cứ như gió như mây thản nhiên bay đi mất. Trong đêm khuya, cuối một ngày của sự gặp gỡ và chia ly, tôi vẫn thường một mình nhẩm đọc bốn câu thơ của Bùi Minh Quốc " Có khi nào trên đường đời tấp nập. Ta vô tình đã đi lướt qua nhau. Bước lơ đãng chẳng ngờ đang để mất. Một tâm hồn ta đợi đã từ lâu...". Khi tôi chợt nghĩ rằng đi bên cạnh David bây giờ không phải là cô ấy, mà là một người con gái Mỹ, cũng nhỏ nhắn đáng yêu, không phải như đám liễu thu bên hồ thì cũng như đám xa trục thảo trên cánh đồng và David vẫn thấy hạnh phúc thì trong sâu thẳm của tôi có một cây kim nhỏ nhô lên và cọ quạy. Tự nhiên mà thấy tình yêu có vẻ giản đơn, lớp vỏ bọc lấp lánh muôn sắc màu quanh nó giảm đi mười phần đẹp đẽ.

Thật chẳng hay ho gì khi đứng ngắm họ mê mải để nghĩ ngợi những điều mà mọi người cho là vô lý. Nhưng tôi vẫn một mực nhất quyết rằng, trong đời có thể yêu nhiều lần nhưng trong những lần yêu đó vẫn chỉ có duy nhất một tình yêu có thể vượt lên trên hết mọi sự tầm thường của sự sống và cái chết khi gặp được đúng một nửa còn lại của mình.

Ôi lại là cái câu "một nửa còn lại của mình", xem có vẻ sách vở và buồn cười. Nhưng chẳng phải có người suốt một đời chỉ sống trong cô đơn mặc dù đã qua nhiều lần yêu và cưới, lại có người mãi mãi hạnh phúc bền lâu với chỉ một người?

Chúng ta xem như những nửa bóng xanh đỏ tím vàng... bay trong không trung. May mắn thì nửa vàng gặp được nửa vàng hòa hợp. Kém may mắn hơn thì nửa vàng ghép với nửa đỏ, nửa xanh ghép với nửa tím, cũng thành bóng tròn nhưng sắc màu đối chọi. Vô duyên thì nhìn thấy nhau đấy mà lại bay trượt qua nhau, hoặc suốt đời chẳng bao giờ gặp mặt nhau.

Với những điều này, đôi khi thời gian lại chiếm một vị trí quan trọng. Trong những ngày ở Virginia, tôi được xem bộ phim Video " Cánh cửa trượt"với cô đào Gwyneth Paltrow xinh đẹp thủ vai chính- Helen, một cô gái bị mất việc làm và bạn trai ngoại tình. Nhưng số phận của Helen lại được quyết định bởi những cánh cửa trượt của chiếc tàu điện ngầm ở Luân Đôn. Từ sở làm về, nếu như lên được tàu trở về nhà, cô sẽ phát hiện người yêu đang ngủ với người con gái khác, cuộc sống của cô sẽ rẽ sang một con đường mới. Còn nếu như bị trễ tàu, tương lai của cô sẽ hoàn toàn khác hẳn. Sẽ lại sống trong sự dối trá và chán chường. Hai câu chuyện song song với nhau trong phim mô tả hai cuộc sống của Helen theo hai hướng khác nhau: nếu trễ tàu và nếu không trễ tàu...Chỉ cần một giây đồng hồ cũng có thể thay đổi cuộc đời chúng ta. Cũng có thể biến chuyện không thành có, biến sự va chạm bất hạnh này thành niềm hạnh phúc mới mẻ, tinh khôi.

Tôi nằm vục đầu trong chiếc chăn bông thơm mùi hồ dán, nghĩ mãi về hai từ " khoảnh khắc" mà không sao ngủ được. Ngoài cửa sổ bình minh lên loang lổ sau những rặng cây màu tím nhạt. Con chim bé xíu có chiếc mỏ đỏ hung hăng gõ tóc tóc vào mặt kính cửa sổ đẫm nước, tóc tai dứng đứng cả lên. Trời mưa nhẹ, phủ một lớp bột xám lên những đám lá phong đang nhuộm vàng. Một sớm thu thường bắt đầu trong trẻo và ướt át như thế.

Vào những ngày tháng này đêm rất đẹp. Trờiø đôi khi xanh màu lá vì ánh vàng lấp lánh từ những rừng thu hắt lên. Đêm xanh xao thơm mùi lá và đất ẩm ướt. Gió thổi rầu rĩ qua những vòm cây. Sương bay chập chờn trong không khí thành những đám khói xám trắng, ánh lên một chút phấn hồng nhờ ánh đèn xe. Tôi thích ngồi trên xe, xuyên qua đêm, xuyên qua những con đường mòn đến tận ba bốn giờ sáng mới quay về nhà. Qua ánh đèn xe mù mịt tôi nhìn thấy những vụng nước nhỏ đọng đầy ánh trăng nằm lặng lẽ dưới những thân cây tím sẫm, sáng lên trong bóng tối như những miếng gương vỡ tráng bạc. Thấy vài chiếc lá phong màu huyết dụ hoặc vàng chanh đâm xuyên qua đám khói như một cánh bướm nhỏ rồi dịu dàng chạm đất. Thấy cả nỗi buồn mơ hồ và sự cô độc của đêm tràn ngập trong lòng.

Trong những chuyến đi này thường có Ma ( Minh Anh) đi cùng tôi. Đó là một cậu bé già dặn trước tuổi, gầy và cao với những nét đẹp hơi lạnh và đôi mắt dài đa cảm. Sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, cậu sang đây theo chương trình du học tự túc. Vậy mà sống giữa một đất nước của quần Jean áo thun, cậu chỉ mặc quần Tây, áo sơ mi dài tay. Mùa hè xắn lên trên khuỷu tay, mùa đông cài măng séc. Tất cả mọi người ở nơi đó và chính cậu cũng tự nhận mình là người lập dị.

Ma để tóc dài ngang vai, những sợi tóc mềm dính bết vào nhau được cột túm một chùm sau ót bằng dây thun ( nhưng nói cách nào đi nữa, nó vẫn làm cậu trông đáng yêu và lãng mạn hơn). Cô nàng da đen to béo ở Costco của Tuấn và Phú rất yêu mái tóc của cậu. Cô ấy đứng gác ở cửa ra vào, đắm đuối nhìn theo mái tóc của Ma mỗi khi cậu đi ngang qua và bối rối mỉm cười. Giây phút đầu tiên nhìn thấy cậu, mái tóc đã như là khởi đầu của một chuỗi hồi ức tươi đẹp về sau này của tôi khi nhớ đến cậu.

Nhớ một cậu bé hè cũng như đông, chỉ đi lẹt quẹt một đôi dép lê, hở những ngón chân có lớp da hồng nhăn nheo vì lạnh và gót chân bám đầy đất. Nhớ một cậu bé thông minh nhưng lười biếng, có thể bỏ hàng chục giờ đồng hồ để chơi game nhưng chỉ cần nửa giờ đọc sách. Nhớ một cậu bé đãng trí đến độ suốt một học kì đến lớp, thi đạt điểm giỏi mà không biết mình học nhầm lớp trên. Nhớ một cậu bé với năm trăm lẻ bốn giờ của yêu thương dịu dàng êm ái. Tình cảm cậu dành cho một người con gái từ xa đến có gì thật cảm động và khác người. Và đẹp vì cậu hồn nhiên dám phơi bày nó trước mắt mọi người tình cảm của mình, mặc cho những lời chọc ghẹo và mặc cho nó đầy tuyệt vọng. Cậu chải tóc gọn gàng, chân rửa sạch sẽ, đi giày bata cột dây lịch sự, nhịn tiền tiêu vặt để mua một chiếc vé xem hát giá bốn mươi lăm đô, nấu những món ăn người con gái đó yêu thích, đứng hơn hai giờ bên một cây phong lá đỏ để chọn hái những chiếc lá đẹp nhất, rực rỡ nhất tặng cô và gần ba giờ sáng vẫn còn ngồi bên đàn dạo khúc nhạc tình của Bethoven, để đầu dây bên kia, ở một tiểu bang cách Virginia hai giờ đồng hồ, cô gái nằm ôm điện thoại ngủ ngon lành.

Cái tình của cậu mới thật lạ lùng. Nó đắm say nhưng tỉnh táo. Nó mơ hồ như buổi chiều đầy mây mù nhưng lại rõ ràng như buổi sáng mùa hè đầy nắng. Trong cùng lúc, nó được sống rạch ròi khi như tình chị em khi như tình trai gái. Nó làm cậu đau khổ nhưng nhẹ nhõm. Nó làm người con gái cảm thấy lúng túng nhưng thật sự hạnh phúc.

Hạnh phúc ấy đến từ sự biết ơn nên trong trẻo và dịu dàng. Mỗi khi nghĩ về nó tự thấy lòng thật ấm áp. Như là những lúc ngắm nhìn lại những chiếc lá phong ép khô còn giữ được sắc đỏ tươi, để hiểu rằng người đã xa nhưng tấm chân tình ấy vẫn còn nguyên vẹn.

Có thể bây giờ là mãi mãi, không còn ai nhặt lá thu phong, chơi đàn giữa đêm khuya vắng. Không còn ai giận hờn, an ủi. Tóc cũng không còn dài đến ngang vai. Trên cây tình yêu hoa lại một lần nữa nở rộ. Những kỉ niệm sẽ vì thế phai nhạt dần đi. Nhưng trong trí tôi thỉnh thoảng lại vang lên hai câu thơ của cậu "Minh nguyệt mỏi mắt tìm ngọc cũ . Anh hùng khổ dạ nhớ sông xưa". Đôi mắt của cậu, người em, người bạn của tôi đêm cuối cùng mới thật to và xanh trong.

Tôi nhớ cậu, là nhớ lại tất cả những kỷ niệm đã có với Tuấn, Phú, Nhơn, Tèo, Sơn trong một căn hộ cho thuê trên tầng một của tòa nhà số 7 300 khu Monticello. Chỉ có Phú và Tuấn là theo cha mẹ sang đây định cư. Những người còn lại, cũng như Ma, du học tự túc tại trường Nova ( riêng Sơn học ở trường Mason).

Một phần ba thời gian của chuyến viễn du tôi trú chân tại đây. Căn phòng có hai phòng ngủ, một phòng khách, một bếp, một công trình phụ giá chín trăm đô một tháng và có khung cửa kính lớn trông xuống bãi để xe. Đứng ngoài ban công sẽ nhìn thấy được những cây cành đang trút lá và một bầu trời đêm đen thẫm lấp lánh trăng sao trong khi gió thổi như giông bão. Chỉ có một điều phiền toái là đêm khuya, việc đóng mở cánh cửa gặp khó khăn. Chúng cứ kêu lên ken két và lập tức sáng hôm sau, một cái đầu bù xù ngái ngủ sẽ thò vào cửa càu nhàu vì đêm qua bị quấy rối.

Chỉ vào buổi tối chúng tôi mới gặp mặt nhau đầy đủ, ăn những bữa ăn nấu vội nhưng thật sự là những bữa ăn vui vẻ, ấm cúng. Thời gian đó tôi ngốn một số lượng phim khổng lồ và chỉ chịu đi ngủ khi đồng hồ chỉ ba, bốn giờ sáng. Những phim này, có cuốn tôi đã xem ở nhà, nhưng giờ coi lại, với những người bạn của tôi, bỗng nhiên tươi mới và sâu sắc hơn hẳn. Là vì sau mỗi lần coi như vậy, tôi vẫn thường hay tranh luận với Phú, cậu bạn nhỏ thó có nụ cười rất tươi làm sáng gương mặt ốm nheo, người đã bỏ hàng mấy giờ đồng hồ lái xe từ Philadelphia về Virginia để kịp gặp tôi, vào buổi tối đầu tiên tôi đặt chân lên nước Mỹ.

Phú không đẹp trai, lại hiền lành, nhút nhát và hay khóc. Hoặc chỉ bởi vì cậu tốt quá, làm gì cũng muốn dành điều tốt đẹp nhất cho bạn bè, làm gì cũng nhường nhịn, lo lắng sợ bạn bè phật ý, thường đến cuối cuộc chơi mới tự mình lùi vào trong một góc tối, trái tim run rẩy vì tiếc nuối những điều lẽ ra phải làm thì lại để vụt bay qua mất. Vì thế mọi người chơi với cậu, cảm thấy cần cậu nhưng trong thâm tâm có chút gì coi thường cậu. Tội nghiệp cậu. Nhưng tôi không biết nói gì. Tôi chỉ ngồi im lặng bên cậu, xiết nhẹ bàn tay nóng ran như lên cơn sốt của cậu, hy vọng sẽ làm lòng cậu nhẹ nhõm hơn.

Đôi khi tôi đột ngột quay lại và như trong bóng tối mênh mông thơm mùi bắp rang của rạp chiếu phim " ABM" bên thành phố Crystal, khi chỉ có độc hai chúng tôi ngồi coi cuốn phim " Những cậu con trai đừng khóc", tôi nhìn thấy những giọt nước mắt nóng hổi sáng long lanh trên gò má cậu.

Tôi hiểu sự cô đơn là nỗi sợ hãi trong lòng cậu. Đó là lý do vì sao cậu không muốn mất bạn bè, vì bất cứ một lý do nhỏ nhặt nào.

Cũng vì sự cô đơn ấy nên mỗi lần cầm điện thoại, Nhơn có thể nói chuyện hàng ba bốn giờ liền không ngừng lại được. Bọn bạn thường hay kể về Nhơn, bằng một giọng bông phèng nhưng âu yếm, về giấc ngủ và nhu cầu nói điện thoại của cô. Chỉ cần ngồi lên xe trong vòng năm phút, dù nhạc bật rock muốn vỡ cả loa, sau vài cái nhún nhảy là cô đã ngoẹo đầu ngủ ngon lành. Thỉnh thoảng cô nhỏm đầu dậy, đôi mắt đen láy nhìn không chớp qua cửa kính, thốt lên thảng thốt, trời ơi đẹp quá. Người bạn đường vội quay lại bắt chuyện, khen trời xanh mây trắng bay thật đẹp thì cô đã lại lịm sâu vào giấc ngủ. Trong cách cô bình yên ngủ, trong cách cô cười dòn khoe hàm răng sáng bóng, trong cách cô chọc ghẹo mấy cậu bạn trai, trong cách cô bạo mồm buông ra câu chửi thề đầy tự nhiên và nhẹ nhõm, chẳng ai nghi ngờ gì nữa, cô sống vô tư và đơn giản. Thậm chí đôi khi nó còn làm người ta bực cô.

Nhưng bình minh của một ngày ấy, ánh lấp lánh màu hồng ngọc của những tia nắng rọi qua cửa kính phủ lớp bụi mỏng đã vô tình làm vỡ vỏ bọc bên ngoài của cô.

Cô nằm run rẩy trên giường, bé bỏng và yếu ớt như một con chim non bị trúng thương. Gương mặt xinh đẹp và đôi mắt thiên thần ướt đẫm nước. Vì cố kìm tiếng khóc nên ngực cô chỉ phát ra những tiếng nấc nghẹn. Tôi ngồi bó gối nhìn cô, trên một chiếc nệm nhỏ bề bộn sách vở, không biết nói gì. Tôi chỉ biết là nên để cô khóc. Khóc cho một tuổi thơ cơ cực và mất hết tương lai. Khóc cho những ước mơ bị gãy cánh khi bước chân vào đời. Khóc cho những năm tháng cũ phải trả một giá khá đắt để có một ngày mai sáng sủa hơn. Khóc vì một tình yêu đầy tuyệt vọng. Khóc vì những điều phiền muộn này không thể nói được cùng ai. Chỉ có tôi. Nhưng tôi không ở bên cô mãi. Một vài ngày nữa tôi sẽ phải ra đi.

Nên khi tất cả mọi người đều thấy cô cười, cười rất nhiều rất tươi thì tôi chỉ luôn thấy những giọt nước mắt ngập ngừng lăn trên gò má mịn màng của cô. Và tiếng cô thì thầm bối rối "Khóc được rồi tao thấy nhẹ như không. Ngày mai lại có thể đùa vui. Mặc ai bảo mình hời hợt cũng được. Sống ở đây, ngày nào thần kinh cũng căng ra, không biết tự làm vui mình thì chỉ suy sụp mà chết".

Về sau, khi cô rời Virginia sang Texas học, mùa đông dường như dừng chân lại rất lâu trong căn phòng nhỏ. Mọi người không thể ngờ sẽ nhớ cô nhiều đến thế. Đôi khi lại thảng thốt bắt gặp mình đang đợi tiếng kẹt cửa và mong chờ cánh cửa sẽ mở ra. Cô sẽ bước vào mang theo ngọn gió xuân ấm áp và tiếng cười giòn tan vô tư lự.

Lúc đó mọi người hiểu rõ ràng hơn, không phải chỉ lần này, mà rất nhiều lần khác nữa, vì vô tình họ đã đánh mất những khoảnh khắc lý ra đã rất ấm êm và hạnh phúc trong đời sống vốn đầy bất an của mình.

Tôi thường ở nhà hoặc vào Washington DC một mình. Sáng sớm họ đã ra khỏi nhà và chỉ trở về trong buổi tối muộn. Người đi học ban ngày buổi tối về lại đi làm thêm ngoài quán ăn Nam Việt đến mười một, mười hai giờ khuya. Công việc nặng nhọc là đứng bếp, rửa chén. Nhẹ nhàng hơn như Nhơn và Tèo, làm phục vụ bàn. Tiền tip vừa đủ trả tiền nhà, tiền học. Buồn ngủ cũng chỉ dám chợp mắt một lát rồi ngồi vào máy, hì hụi học bài đến ba, bốn giờ sáng. Ngày mai sẽ lại tiếp tục như một ngày đã qua. Buồn ngủ và mệt mỏi trở thành bệnh kinh niên. Có dịp nó bùng lên, làm đảo lộn mọi sắp xếp đã có sẵn.

Anh chị họ tôi cũng ở trong một căn hộ cho thuê ( và có lẽ suốt đời họ sẽ ở như vậy), nhưng nó nhỏ và rẻ tiền hơn trên đường Parkwood. Buổi tối hôm gặp chị, trời giá lạnh và lây rây mưa. Những sợi mưa bạc xuyên qua những tàn lá xanh sẫm, bay vướng vào người như tơ. Những kính cửa run rẩy. Mùi bữa ăn chiều vẫn còn phảng phất quanh phòng khách. Dưới ánh đèn vàng, chị nhỏ bé, xinh xắn trong chiếc áo đầm đỏ rực rỡ của một cô thiếu nữ. Hương nước hoa, có lẽ từ mái tóc nâu của chị thoảng qua rất nhanh. Chỉ khi ngồi sát bên cạnh chị tôi mới trông rõ quầng thâm dưới lớp phấn dầy và những nếp nhăn chạy vòng quanh mắt. Thời gian quả thật là chẳng tha một ai. Chị ấy đã già rồi. Chẳng mấy chốc nữa sẽ lại đến lượt tôi.

Hầu như tất cả mọi thời gian trò chuyện của chúng tôi đều dành cho riêng chị. Thời khóa biểu của chị bảy ngày như một. Sáng tám giờ rưỡi chị đến làm việc cho một tiệm làm móng tay của người Mỹ. Tối chín, mười giờ mới về đến nhà, tay chân rã rời. Tối thứ bảy, chủ nhật lại đi hát cho những đám cưới của người Việt. Bệnh cũng không dám nghỉ vì sợ mất khách. Còn anh làm thợ hớt tóc, lượng công việc có ít hơn nhưng cũng trải dàn đều khắp tuần. Hẹn một ngày chở chị vào Washington DC xem hội hoa đào bên dòng Potomac, nhưng bảy mùa xuân qua vẫn chỉ là lời hứa với nhau. Dần dần chị tự cảm thấy mình như một cái máy. Giận dỗi, yêu thương...mọi cảm giác dường như đông cứng lại. Chỉ có nỗi lo sợ không có tiền để trả nợ nhà, xe... cùng tất cả các chi phí khác trong cuộc sống của hai vợ chồng và gửi về Việt Nam phụ giúp bố mẹ chồng đốt nóng cơ thể, giúp cho chị không quỵ ngã.

Cho đến bây giờ, trong trí chị, Việt Nam vẫn như ngày chị đi. Cuộc sống vẫn bần hàn. Nhà cửa vẫn lụp xụp. Sợ nhất là nhà vệ sinh chật hẹp và hôi hám. Khi tôi bảo Việt Nam giờ khác nhiều. Có nhà ở còn sang hơn cả nhà Mỹ thì chị ngẩn người, luôn miệng hỏi "Really?". Rồi chị buồn bã bảo, Việt Nam bây giờ xa cách chị nhiều.

Chị có điều gì muốn giấu tôi. Mỗi lần định nói ra lại lúng túng dừng lại. Đôi môi run rẩy. Mắt hoe đỏ như sắp khóc đến nơi. Những ngón tay xanh xao của chị níu chặt mép váy cho đến kì nổi gân lên mới thôi. Đêm cuối cùng chia tay nhau trên những bậc tam cấp tối mờ dưới sân rụng đầy lá, chị ôm tôi trong vòng tay mảnh dẻ của mình, nói khẽ, anh chị chắc sẽ chia tay nhau. Chị phát hiện ra ảnh có bồ. Tha thứ bao nhiêu lần rồi vẫn vậy. Em bảo, sống cùng nhau làm sao được nữa khi nằm bên nhau tâm trí lại thơ thẩn đến với người khác. Mà em về đừng cho ba má ảnh biết.

Chị chỉ ngạc nhiên, chị đã làm hết tất cả mọi việc để lo toan cho cuộc sống của anh chị, lo cho cả gia đình bên chồng mà anh ấy vẫn phụ chị. Thôi để chị đi. Chị ước gì có em ở mãi đây bên cạnh chị. Hai chị em tâm sự với nhau cho đỡ buồn.

Dùng dằng mãi chúng tôi mới chia tay. Chị đi rồi. Xe của chị đã lao vào trong đêm, nhưng mùi hương từ mái tóc chị vẫn vương vất ở lại. Nước mắt của chị bám trên má tôi thành những giọt hương mát lạnh. Tôi tưởng tượng ra một căn phòng nhỏ suốt ngày vắng bóng người. Năm này sang tháng nọ. Sự vắng lặng đó làm cho lửa cũng trở nên nguội lạnh chứ nói gì đến tình người.

Những ngày ở Mỹ tôi bỏ thói quen dậy muộn. Thời gian bây giờ đối với tôi thật hiếm hoi và đáng quí. Tôi luôn cảm thấy tiếc mỗi giờ phút sắp trôi qua. Tôi thường dậy khi trời còn mờ sáng. Sau tấm rèm cửa nắng xanh màu lá nõn uyển chuyển bay trên những nóc nhà cao tầng của thành phố New York và những tấm kính cửa bắt đầu sáng lên lấp lánh. Tôi mặc vội áo khoác, mở cửa bước xuống con đường vắng vẻ. Lúc này Lola vẫn ngủ say, mặt dúi vào gối. Hai cánh tay, hai cẳng chân trần to béo và đen bóng dang rộng, thò hẳn ra ngoài chăn.

Lola không phải là một cô gái đẹp nhưng biết làm điệu. Lại hồn nhiên, vô tư mặc dù đã có đứa con trai bốn tuổi và cuộc hôn nhân lần thứ Nhất gãy đổ, tiếng Anh cũng rất chuẩn nên tất cả mọi người đều yêu quí cô.

Tôi và Lola thuê chung phòng để tiết kiệm tiền đi chơi những nơi khác. Căn phòng nhỏ với hai chiếc giường nhỏ luôn luôn bề bộn quần áo, sách vở và tràn ngập mùi dầu thơm đặc biệt của nước Nigieria, rõ nhất là sau khi cô bước ra từ nhà tắm. Vì những cánh cửa sổ thường được khép lại nên cái mùi này không bay đi mà luẩn quẩn trong phòng cả ngày. Hôm đầu tiên nó làm tôi khó chịu, nhức đầu. Sau thành quen, thành nghiện. Những hôm về phòng đã được dọn dẹp sạch sẽ, mùi nước hoa xịt phòng át đi mùi hương của Lola, lại thấy nhớ.

Lola thường bôi nó lên mái tóc xoăn tít. Lên bộ váy sặc sỡ. Lên nước da đen nhẫy. Tôi không thể hình dung được nếu Lola dùng một loại nước hoa nào của Lancôme hay Christine Dior sẽ ra sao. Rõ ràng với một người như cô mọi chuyện đều có thể. Nhưng tôi không mong muốn điều đó và không tin điều đó. Cho dù tháng mười này cô sẽ cưới chồng ở NewYork và trong tương lai sẽ chuyển tới Luân Đôn.

Trong khi tất cả mọi người không thích thì tôi lại có cảm tình đặc biệt với nó. Bởi vì mùi hương này như là Nigieria của cô vậy. Người ta không thể quên hay lầm lẫn Tổ quốc được.

Nó thơm vị hắc, đặc quánh và béo ngậy. Nhấm nháp một chút, nó bắt đầu ngọt lên dần dần. Đến khi vị ngọt đã đông lại trên đầu mũi thì đột ngột tan ra, dịu dàng trở về vị hăng hắc ban đầu. Lần này nhẹ nhàng chứ không dồn dập như lúc đầu. Thêm vài lần đặc lại và tan ra như thế, nó đưa lại cảm giác nhẹ nhàng khó tả. Trong hơi lạnh của những ngày đầu thu nó làm không khí ấm lên và đầy quyến rũ.

Lola ồn ào và náo nhiệt. Cô ít buồn, thích ăn ngon, uống rượu mạnh, đọc thơ và hát ầm ĩ ngoài đường phố với một phong cách rất Mỹ. Mỗi khi có chuyện gì làm cô hứng thú, đôi môi dầy màu hồng nhạt lại trề xuống và đôi mắt vốn dĩ đã to của cô mở lớn, như một cái hồ sâu thẳm ai chẳng may trượt chân rơi xuống sẽ khó bơi vào được đến bờ.

Thỉnh thoảng Lola về lại mang theo một đống áo quần hoặc sách đại hạ giá. Cô tống chúng vào trong một cái túi kéo khổng lồ. Giá cả của những thứ vật dụng tốt và đẹp ấy rẻ đến độ làm cho tôi, một người luôn nhạt nhẽo với chuyện mua sắm cũng phải phát thèm và rối rít hỏi cô cửa hàng nằm ở đâu.

Nhưng phải may mắn mới gặp được đợt hàng giảm giá đặc biệt của các cửa hàng. Đó thường là vào những dịp lễ như Lễ Lao Động, Halloween, Giáng sinh... hay sắp tung ra một đợt mốt mới. Thời kỳ này, thời trang của các cô gái Mỹ vẫn là kiểu áo tay lỡ và đầm xẻ hai tà Hàn Quốc, màu tro, ruốc hoặc đen trắng. Ngay cả những cô nàng to béo cũng diện những chiếc áo Hàn Quốc ôm sát người, tự tin đi lại trên đường phố, mặc dù trông các cô giống một khúc giò thơm phức mùi nước hoa đang chuyển động. Trong tiệm Gab, một cái thắt lưng Ý giá hai mươi mốt đô có hôm hạ xuống giá bốn đô rưỡi, một cái mũ lưỡi trai mười lăm đô còn hai đô bảy mươi lăm...Hàng vẫn còn mới và thơm mùi hồ. Ngày nào trong siêu thị cũng có khách, nhưng vắng. Họ chỉ đi dạo theo kiểu "Window shopping" ( mua sắm qua cửa kính) như một cách để giải trí. Người Mỹ cũng như người Việt, không phải lúc nào cũng sẵn tiền để vung tay. Đợi đến đợt giảm giá họ mới mua hàng. Và mua nhiều.

Chị họ tôi hồi mới sang, thời gian đi shopping còn nhiều hơn thời gian ở nhà và làm việc cho tiệm Mac Donald's. Vui cũng đi. Buồn cũng đi. Rảnh rỗi cũng đi. Mà bận rộn lắm cũng phải nhín chút thời gian để đi. Không đi thì nhớ. Giống như lên cơn ghiền. Nó nhiều thứ đẹp quá mà, chị ngượng ngùng phân bua, lại to rộng đi cả ngày không hết, không chán. Mình không có được cái đẹp đẽ sung sướng thực chất của nó thì hưởng nó trên bề mặt cũng được. Tôi nghe chị nói, thấy thật thương, thật xót. Cái câu của chị hiểu rộng ra có nhiều ý. Ngẫm lại mình, trong vạn sự, trong đời sống, trong tình yêu, trong sự cô đơn, trong thời gian... đều không thể nắm bắt được thực chất của nó.

Tôi ngồi trên một ghế băng nhỏ bằng đá trong một siêu thị nhỏ của Iowa chờ Sandy mua bánh mì. Giá cả ở Iowa so với Chicago hoặc New York giống như ở Hội An với Sài Gòn. Người dân ở đây cũng hiền lành, dễ thân thiện hơn. Hai tuần ở đó hầu như ngày nào chúng tôi cũng có một bữa tiệc tổ chức tại nhà của các nghệ sỹ hoặc giáo sư trong trường. Tôi không thích đến những buổi tiệc đông người. Nhưng chính ở đây, trong những căn nhà thơm mùi vỏ cây sấy khô này, trong những bữa tiệc của bia vàng óng và rượu vang thơm phức tôi tìm được những tình cảm vô cùng đáng quí.

Một bà già bé nhỏ mặc một chiếc áo dài trắng bằng vải thô, trên vai khoác chiếc khăn lụa màu vàng, không hiểu sao chúng cứ sáng lên lấp lóa, hai mút khăn như hai bàn tay vẫy, đứng đón chúng tôi dưới chân cầu thang gỗ ẩm và tối. Bàn tay bà nhỏ nhắn, ấm nóng và thơm mùi dầu. Bà tên là Hualing Nieh Engle, người Mỹ gốc Hoa, sáng lập viên của chương trình viết văn quốc tế trường Đại học Iowa.

Chúng tôi theo bà lên lầu. Trong bóng tối những nếp váy chạm vào nhau loạt soạt. Mùi dầu nóng làm tôi thấy dễ chịu, như đang được về nhà mình.

Người đã đến rất đông, ngồi trên những ghế nệm bọc nhung đỏ trong phòng khách hoặc đứng ngoài ban công đầy gió. Họ lịch lãm và duyên dáng trong những bộ lễ phục trong khi chúng tôi áo quần xộc xệch, thậm chí Gleb còn đánh một chiếc quần cộc ngang đầu gối màu xanh lá mạ. Bà Hualing nhỏ bé, gần như là lướt đi trên sàn với tiếng loạt soạt của áo lụa mới, mời mọi người dùng bữa bằng một giọng nhẹ và trong vắt.

Cho đến lúc này tôi đã quen với kiểu ăn của Mỹ. Thức ăn thường béo ngậy vì pho mát, vì hương vị được tổng hợp từ đủ loại thịt trộn rau quả ướp lạnh, vì màu sắc lờ nhờ không gây được cảm tình và nó nhiều bằng gấp ba lần suất ăn của một người bình thường. Có lẽ vì thế người ta bảo dân Mỹ phàm ăn và số lượng người béo phì ngày càng tăng lên đáng kể.

Nhưng thật sự là chúng tôi đã có một bữa ăn ngon tuyệt vời ở nhà của Sandy. Đó là đêm cuối cùng ở Iowa, sau hai tuần thân thiện và gần gũi, nên ai cũng có vẻ buồn buồn. Trời bắt đầu vào thu. Những rừng sồi bao quanh khu nhà của Sandy lá vẫn xanh biếc nhưng trên các bờ dậu, những chiếc lá thon nhỏ đã bắt đầu chớm đỏ như những cặp môi son thiếu nữ. Gió thổi hơi ẩm vào nhà đánh thức những bông cúc kim vàng nhạt đang thiếp ngủ trên bệ cửa. Ánh sáng dịu dàng từ chùm đèn pha lê tỏa xuống làm bữa ăn thêm trang trọng và cảm động.

Mọi thứ đều giản dị nhưng tao nhã như chủ nhân của nó. Trên bàn người ta bày khoai tây hấp ăn với kem pho mát trắng tươi. Sườn heo rô ti màu huyết dụ theo kiểu Ấn đặt trên một chiếc đĩa sứ có viền vàng và chân bằng bạc. Một ít xà lách trộn với những quả ô liu tím thẫm đựng trong thố thủy tinh dùng với trứng luộc. Bơ chảy vàng óng trên những khoanh bánh mì nóng hổi. Có tới hai ba loại rượu trên bàn, như trong các bữa ăn Pháp. Sandy nói tiếng Pháp rất giỏi và yêu nước Pháp. Bà thường hay mơ màng về dòng nước xanh biếc trong lòng sông Seine, về ánh mặt trời màu hoàng yến khô ráo trên nóc nhà thờ Đức Bà Paris và mưa phùn ướt đẫm khu đồi Mongmac của các nghệ sỹ. Tôi không biết Paris đẹp và thơ mộng ngần nào, nhưng nhìn vào mắt bà tôi dám chắc chắn rằng trời Paris phải có màu xanh sâu thẳm như thế.

Bữa ăn chỉ có tôi, Sandy, Gleb và Kote. Chồng của Sandy đi công tác đã hơn một tuần. Hai đứa con trai đều đang làm việc ở Boston. Lâu lắm rồi bà không gặp chúng . Cái cảnh sống một mình, ăn một mình, ngủ cũng một mình thế này quen rồi. Đến khi ở với chồng, với con lại thấy lạ lẫm. Lại thấy gò bó. Ở đây, con cái lớn lên là đi chỗ khác. Sandy nói bằng một giọng nhẹ nhàng. Coi như nghĩa vụ của cha mẹ con cái đối với nhau chấm dứt.

Trong lúc dùng trà, một người Nga xa xứ đến đón Kote về nhà ông. Chúng tôi cũng dọn dẹp bàn ăn. Tối nay ở Hancher có biểu diễn ba lê. Nhưng khi chúng tôi đến nơi, màn cuối đã hạ. Gleb biến đi đâu mất hút. Sandy cười ý nhị, các cậu thanh niên bao giờ cũng thế. Có khi trong buổi tối này, cậu bé ấy sẽ gặp được một người trong mộng. Thấy tôi tỏ vẻ không tin, bà cười lớn, hãy đợi mà xem. Tình yêu đến với các nhà thơ rất nhanh và ra đi cũng rất nhanh. Cậu bé ấy lại là một người tình cảm...Mắt Sandy mơ màng. Điếu thuốc trên môi bà tỏa ra những vòng khói nhỏ xíu, cay cay ở mắt.

Mười hai giờ khuya tôi đang ngồi gà gật dưới phòng khách đợi bạn thì cánh cửa khách sạn bật mở. Gleb mặt đỏ bừng, đầu hơi chúi về trước làm đôi vai gồ lên như bị gù ( cái dáng đi này làm anh có vẻ buồn rầu và khổ sở), bước xăm xăm tới cầu thang máy. Theo sau anh là một cô gái cao ốm, tóc vàng, trang điểm nhợt nhạt, mặc bộ áo quần bằng lụa đen, trông ra còn cao hơn Gleb cả một cái đầu. Gleb không thấy tôi. Chẳng mấy chốc thì họ đã biến mất.

Sáng hôm sau, Gleb ngồi ở một góc xe, buồn thiu. Tôi quay xuống, nửa đùa nửa thật, đêm qua anh ngủ ngon chứ ? Gleb chớp chớp hàng lông mi dài sau cặp kiếng cận, mặt đỏ bừng lên, lúng túng, ôi Khê- đek, Khê- đek. Miệng cười một nụ cười như mếu.

Khê- đek là tên Gleb đặt cho tôi. Không hiểu sao Gleb không bao giờ nhớ và gọi được tên tôi. Chúng tôi vốn ít chuyện trò với nhau. Nhưng dường như có một lúc nào đó chúng tôi đã phải lòng nhau.

Bởi vì Gleb là một anh chàng rất đẹp trai, tóc hung, da trắng, môi nhỏ và đỏ như con gái, ngoại trừ chiếc mũi hỉnh rất Nga xô viết và toàn thân ướp nồng mùi thuốc lá. Gleb giống như một sợi dây tình cảm gắn liền vào quá khứ, vào cái thời chúng ta say mê hát những bài hát Nga, đọc những tiểu thuyết Nga bằng một tình yêu đắm đuối và mạnh mẽ. Mỗi lần nhìn Gleb, lại thức dậy trong lòng tôi hình ảnh của những hàng thùy dương hát, của những đàn sếu bay và những đêm trắng tươi đẹp ngự trị dài lâu trên thành Leningrad.

Bởi vì ngay buổi đầu gặp mặt, anh chàng mặt lạnh như tiền, đưa tay cho tôi bắt mà không nói tiếng nào, không cười với tôi một lần nào. Đã thế tôi cũng làm lơ, không cần bắt chuyện nữa. Cho đến buổi tối trong sân nhà Slam ở Chicago, tôi phát hiện ra một anh chàng Gleb khác: hóm hỉnh, tinh tế và hồn hậu hơn nhiều vạn lần ấn tượng ban đầu của tôi.

Năm ngày liền ở Chicago tôi không gặp được một người Việt nào, đi đâu cũng thui thủi môt mình. Giờ ngồi giữa khu vườn nhỏ có chiếc cổng gỗ bám đầy dây trường sinh xanh biếc, trông những ngọn đuốc nhỏ cháy sáng trong các góc tối, nghe tiếng đọc thơ trong phòng vẳng ra, tôi thấy nhớ nhà không sao chịu nổi. Có một bàn tay đặt lên vai tôi nặng trĩu và một giọng nói ấm áp vang lên " Cô thấy cô đơn à?" . Tôi ngẩng lên. Trước mặt tôi là anh chàng Gleb với nét mặt vẫn khó đăm đăm. Tôi bảo, phải, tôi thấy cô đơn. Tôi nhớ nhà. Gleb choàng vai tôi, cười dịu dàng " Vậy thì đi vào uống bia đi. Bạn sẽ thấy dễ chịu hơn". " Nhưng tôi sẽ nhức đầu". Gleb bảo, à bạn sẽ bị Khê-đek và khăng khăng bắt tôi phải phát âm cho kì được chữ này trong khi tôi chẳng hiểu nghĩa của nó là gì. Về dò từ điển không có, tôi đành cho rằng đó là một từ tiếng Nga đã được bỏ quên lâu lắm từ ngày tốt nghiệp Phổ thông Trung học. Buổi sáng gặp lại, Gleb hỏi tôi vồn vã " Khow-are you?" . Thế là tôi đã hiểu. Khê- đek là headache. Ở tiếng Nga không có chữ H mà chỉ có chữ X (khờ), nên bất kì chữ nào có mẫu tự H đều được Gleb đọc trại ra thành Khờ hết. Từ đó trở đi, gặp Gleb ở đâu, Lola cũng kêu ầm lên " Khow are you, Gleb?" làm anh chàng đỏ mặt tía tai.

Từ đó chết tên tôi là Khê-đek. Còn tôi gọi anh là Xlep ( khờ lép)- Bánh mì.

Sự tinh tế và ân cần của anh lúc đó đã làm tôi sửng sốt và ấn tượng. Giống khi anh nói cộc lốc " Đây là mùi vị Nga" khi hai chúng tôi dùng món salad gà với vốt ca trong quán ăn nhanh ở Maryland để lấy sức tìm đường về nhà. Anh cúi mặt xuống đĩa thức ăn. Tôi để ý thấy tay anh run lên nhè nhẹ. Anh nhìn chằm chằm vào mắt tôi, nài nỉ, đây là tối cuối cùng. Hãy uống một ly với tôi. Vì ly rượu này mà cả đoàn phát hoảng tưởng tôi đã mắc phải một căn bệnh nóng sốt trầm trọng. Sau đó suốt buổi tối là sự im lặng đến khó hiểu. Thậm chí chúng tôi cũng không nhìn nhau một lần nào. Cho đến khi chúng tôi ôm h194

Oct 24, 2005

Phong cách chữa bệnh tự tin



Bác sĩ Christ vừa mới chuyển lên một bệnh viện ở Detroy. Sau vài hôm, một số bệnh nhân bắt đầu xì xào về phương pháp chữa bệnh của bác sĩ mới. Ông không bao giờ hỏi han bệnh nhân về bệnh tình hoặc triệu chứng mà bắt tay vào chữa trị ngay. Một đồng nghiệp nói chuyện với vợ ông:
- Chồng bà có phong cách chữa bệnh tự tin hiếm thấy!
- Ồ! Phong cách này hình thành từ mấy chục năm ông ấy làm bác sĩ thú y đấy!
2328

Lắp Ghép Hạnh Phúc





1.

Thưa cô Lê,

Tôi viết thư này cho cô theo sự giới thiệu của ông Adam Thompson ở trường đại học X. Tôi sắp đến Việt Nam vào cuối tháng này và rất mong được gặp cộ Tôi là một giáo viên tiểu học, và vốn là sinh viên trong lớp ngôn ngữ của ông Thompson. Tôi rất mong nhận được hồi âm của cộ Xin gởi đến cô những lời chúc tốt đẹp nhất.

Carol Mesrime.

2.

Mỗi ngày tôi ngồi vào bàn làm việc ở văn phòng công ty, mở máy tính, nối mạng, lấy thư điện tử, và thông thường nhận được cái này: " Trích ngôn trong ngày" của một người tên là Jim ở đâu đó, mỗi ngày gởi đến tất cả những địa chỉ có trong danh sách gởi thư của y trích ngôn đại loại như " Tôi nhận thấy truyền hình mang tính giáo dục cao, vì mỗi lần có người mở truyền hình coi là tôi đi qua phòng khác cầm sách đọc" . Tôi không biết làm sao mà địa chỉ của tôi có trong danh sách của Jim, nhưng không thấy ngạc nhiên cũng không lấy làm phiền. Mỗi thư đều có kèm theo một câu là " Nếu bạn không muốn tiếp tục nhận thư này nữa thì chỉ cần hồi âm với mấy chữ rút ra. Và nếu bạn thích những câu trích ngôn này thì hãy giới thiệu cho một người bạn" . Tôi không chắc người bạn nào đã giới thiệu tôi, cũng không hẳn lười đến nỗi không buồn rút ra, chẳng qua có những ngày mở hộp thư ra chỉ nhận được mỗi cái " trích ngôn trong ngày" đó, đọc cũng đỡ buồn. Thỉnh thoảng mới có thư của người này, người kia, quen hoặc không quen.

Carol Mesrimẹ Họ gì nghe lạ. Adam Thompson là ông giáo sư dạy khóa tiếng Anh hiện đại ở trường ngoại ngữ mà công ty đã cử tôi đi học.

3.

Thưa cô Mesrime,

Tôi rất sung sướng nhận được thư cô và biết tin về ông Thompson. Tôi vui mừng khi biết cô sắp đến thăm đất nước của tôi. Nếu tôi biết cô sẽ đến bằng chuyến bay nào vào ngày giờ nào thì tôi sẽ hân hoan đón cô ở phi trường. Tôi sẵn sàng làm tất cả trong khả năng của mình để những ngày cô lưu lại đất nước tôi là thời gian thú vị bổ ích. Tôi trông mong đến lúc chúng ta gặp nhau. Bây giờ xin gởi đến cô những lời chúc tốt lành.

Lê.

4.

- Chiều thứ sáu tôi có mời một người bạn nước ngoài đến nhà dùng cơm.

- Cần gì nói cho tôi biết?

- Chủ nhật tôi đưa bạn tôi về quê chơi. Tôi dắt luôn mấy đứa nhỏ đi.

- Mắc mớ gì đến tôi?

- Tôi nói với anh bởi vì trên danh nghĩa anh còn là chồng tôi.

- Khốn nạn!

5.

Đây là một con sông. Đây là những vườn cây ăn trái. Bây giờ cây không có trái. Nhưng mùa hè thì cây có nhiều trái. Kia là cái nhà. Đó là cái nhà của ông bà ngoại tôi. Tôi có ông ngoại, bà ngoại, cậu và dì. Tôi cũng có nhiều anh chị em họ. Chúng đều là học sinh. Chúng tôi rất thân nhau. Chúng thích đi thành phố thăm tôi vì chúng thích thành phố. Tôi thích đi thăm chúng vào mùa hè vì chúng trèo cây hái trái cho tôi ăn. Đây là con đường đất. Cô có mệt không cô Mesrimẻ Hoan nghênh cô đến nhà ông bà ngoại tôi. Xin mời vào!

6.

Cô Mesrime đúng là một cô giáo tiểu học nhiều kinh nghiệm. Cô tỏ ra chăm chú và thích thú nghe những câu nói tiếng Anh ngắc ngứ của thằng con hướng dẫn viên du lịch nghiệp dư của tôi. Nó mười hai tuổi học tiếng Anh được hai năm. Tôi thỉnh thoảng mời người nước ngoài mà tôi quen biết, như bà Mesrime, đến nhà ăn cơm hay cùng đi chơi, để các con tôi thực tập tiếng Anh. Bé Châu còn nhút nhát, chỉ ấp úng đáp khi được hỏi. Thằng Ninh tự tin hơn. Nó và cô Mesrime đã làm quen và trở thành đôi bạn trong bữa cơm gia đình ở nhà tôi. Cô Mesrime làm cho nó tin là tiếng Anh của nó lưu loát, cô hiểu hết điều nó nói và rất thích nói chuyện với nó. Cả ngày thứ bảy nó loay hoay thu thập từ vựng trong mấy cuốn từ điển và chuẩn bị bài văn giới thiệu làng quê của nó. Tôi thấy nó toát mồ hôi với chữ nghĩa. Cảm ơn cô Mesrimẹ Cô không bật cười sau mỗi từ mỗi câu thằng nhỏ rặn ra, thì đúng là một người rất tử tế.

7.

Nhưng mà tiếng Anh của thằng bé rất khá, thật mà. Ở trường tôi dạy có nhiều học sinh là di dân từ các nước thuộc địa châu Mỹ Latinh, châu á, châu Phi... có nhiều em không nói được tiếng Anh tốt như con trai của chị. Đứa bé này rất lanh lợi thông minh, và những điều nó nói thật là thú vị. Có thể với người khác thì thật buồn cười khi chỉ một con sông và nói đó là một con sông. Nhưng tôi biết người ta dạy tiếng Anh như vậy. Họ giơ một cuốn sách ra và bảo đây là cuốn sách.

8.

Đây là một gia đình. Đây là gia đình của tôi. Ninh chỉ vào từng người trong tấm ảnh cả nhà nó chụp chung vào Tết năm ngoái và được bà ngoại lộng kiếng treo giữa nhà. Hai đứa bé ngồi lọt thỏm trong lòng cha mẹ, đầu Ninh chạm cằm cha nó, nhưng đôi bờ vai rộng của người cha như bức tường thành che chở, cả nó và em nó trong vòng tay người mẹ, bé nhỏ hiền thục ngồi bên cạnh. Gương mặt của từng người đều rạng rỡ niềm vui, ánh mắt của hai đứa trẻ trong veo và sáng như những vì sao.

Đó là hai tháng trước khi tất cả vỡ vụn, như tấm kiếng bị nghiến dưới bánh xe. Điều không thể tin được là kết thúc của mười lăm năm hạnh phúc là cuộc tranh chấp cái nhà. Ngôi nhà của cha mẹ tôi, và tôi muốn giữ nó cho các con. Anh ta cho là mười mấy năm qua anh làm như trâu bò để sửa sang xây dựng ngôi nhà, biến nó từ một căn nhà xộc xệnh thành phố lầu trị giá 200 lượng vàng. Anh ta đòi chia 100 lượng để mua một căn phố khác cho một người đàn bà khác. Chi tiết cuối cùng anh ta không nói ra nhưng tôi biết.

Tôi chưa bao giờ nói với các con là chuyện gia đình mình đang chờ tòa án giải quyết. Nhưng hai đứa nhỏ chắc chắn biết cái " gia đình mình" ấy đang bên bờ vực thẳm, nhất là từ khi anh ta không cần đóng kịch nữa. Anh ta nổi điên lên vì người đàn bà kia cần gấp một mái nhà cho đứa con sắp sinh, mà tòa thì cứ lần lữa không xử dứt khoát được. Anh ta vẫn về nhà để khẳng định quyền sở hữu căn nhà, tuyên bố nếu tháng sau tòa lại không xử được thì anh ta vẫn cứ chia hai căn nhà ra mạnh ai nấy sống. Tôi thách anh ta làm điều đó. Từ một năm nay tất cả trao đổi ngôn ngữ giữa tôi và anh ta đều kết thúc bằng hai tiếng " khốn nạn" anh ta văng ra. Mỗi tiếng như một cái đinh tàn nhẫn đóng vào chiếc quan tài bên trong là một tình yêu nồng nàn. Giờ đây trái tim tôi chỉ nhói đau khi nhìn hai đứa trẻ. Cái " gia đình mình" đã là một cỗ xe lao tới đáy vực thẳm rồi. Tấm hình gia đình mình ở nhà đã bị xé nát trong một cuộc tranh cãi xô xát. Nên mỗi lần về nhà ngoại thấy tấm ảnh trong khung kính trên tường, hai anh em nó đều cầm xuống ngắm nghía.

Đây là ba tôi. Ông ấy rất yêu thương chúng tôi. Vẫn bằng thứ tiếng Anh đớt đát, Ninh gân cổ thực tập đàm thoại với cô Mesrimẹ Tôi ngạc nhiên là Ninh có thể nói rất thản nhiên cái điều ngược lại điều nó biết và tôi đã nói với nó nhiều lần: Ba con không còn yêu thương các con nữa. Có lẽ đó chỉ là những câu thực tập tiếng Anh. Đâu cần cảm xúc khi thực tập ngôn ngữ. Cô Mesrime nói đây thật là một gia đình hạnh phúc. Tôi bất giác muốn nhìn vào mắt cô Mesrime, tự hỏi là một phụ nữ phương Tây trên bốn mươi như cô có cảm nhận được không cái gọi là hạnh phúc trong gia đình tôi vào buổi tối chị đến nhà ăn cơm, và tôi nói là chồng tôi bận làm tăng cạ Nhưng cô Mesrime mãi nhìn tấm ảnh. Nếu là cái gia đình trong ảnh thì quả là hạnh phúc.

9.

Một phần ba học sinh của tôi là con trong một gia đình ly dị nhau hay một người mẹ độc thân. Nhưng khi miêu tả một gia đình chúng đều nói về cả cha và mẹ, thậm chí về một người cha tưởng tượng hay một người mẹ đã bỏ chúng đi từ lâu. Một phần ba công việc của tôi là lắng nghe chúng, trò chuyện với chúng, và cùng chúng cầu nguyện cho một phép mầu xảy ra: gia đình chúng đoàn viên êm ấm. Tôi đã từng nghĩ rằng tôi sẽ chấp nhận mọi cái giá phải trả để cho con tôi không bất hạnh. Nhưng cuối cùng chúng tôi đã ly dị vào tháng trước. Cho đến bây giờ tôi cũng không biết tại sao và như thế nào.

Tôi muốn đưa đứa con gái 10 tuổi của tôi cùng đi du lịch, nhưng nó nói: Không. Con biết mẹ cần một mình để suy nghĩ. Con chỉ xin mẹ một điều. Mẹ đưa con về trang trại của ông bà nghỉ qua mùa lễ này, nhưng xin mẹ khoan nói với ông bà là cha mẹ đã ly dị. Khi tôi trò chuyện với bé Ninh, tôi nhớ con gái của tôi làm sao. Và thực tình buổi cơm tối ở nhà chị rất vui vẻ đầm ấm, nhưng tôi nhìn trên gương mặt những đứa trẻ và qua cách cư xử nói năng của chúng, tôi thấy cái mà tôi đã thấy trên gương mặt con gái tôi: một thiên đàng đã sụp đổ. Tôi hiểu được chị cảm thấy thế nào khi nhìn đứa con bám víu lấy tấm ảnh chụp gia đình xa xưa để tiếp tục thêu dệt về một hạnh phúc mà nó đang khát khao. Tôi cũng cảm thấy chị mạnh mẽ biết bao. Một triệu gia đình trên thế gian này đổ vỡ vì một triệu lý do khác nhau. Tôi thật không ngờ là mình đi nửa vòng trái đất để gặp mình trong một phụ nữ khác, để xem lại một bi kịch đã hạ màn ở nhà mình. Tôi cám ơn chị về tất cả những gì chị đã làm cho tôi trong những ngày quạ Đó là những ngày rất có ý nghĩa đối với tôi, và tôi sẽ còn suy ngẫm về nó nhiều hơn nữa trên quãng đường sắp tới của mình. Tôi tin chị có đủ sức mạnh để vượt qua mọi trắc trở cuộc đời. Nhưng cũng xin chúc chị may mắn. Hẹn gặp lại.

10.

- Cô Mesrime bay rồi hở mẹ?

- Ừ. Cô ấy bay qua Bangkok để bay tiếp đến Nepal.

- Cô ấy vui vẻ dễ thương ghê mẹ há? Mà cô ấy đi Nepal chi hở mẹ?

- Cô ấy đi tìm một tu sĩ dạy cô ấy cách nhìn vào tâm hồn của mình.

- Để làm gì hở mẹ?

- Mẹ nghĩ là cổ muốn biết tại sao tình yêu chết đi và làm sao cho nó sống lại.

- Cô Mesrime hứa với con là sẽ viết thư cho con. Nếu cô ấy biết được tại sao, con sẽ xin cô ấy nói cho con biết.

Đứa bé ấp bàn tay tôi giữa hai lòng bàn tay của nó. Bàn tay của đứa con trai 12 tuổi, mà tôi cảm thấy rắn rỏi nhiệt thành. Nó nói tiếp, khẳng định: Cô ấy sẽ biết được, và con sẽ nói cho mẹ biết. Tình yêu vẫn ở trong lòng mình, chỉ cần mình biết làm cho nó sống lại, phải không mẹ?

2131