Trang

Mar 28, 2006

Chửi là phải



Hai người bạn cùng làm thuê, lâu ngày gặp nhau, trò chuyện:

- Mình đi làm công cho người ta đã nhiều mà chưa thấy ông chủ nào chửi bới công nhân thậm tệ như ông này. Thằng cha nào cũng bị ổng chửi. Trong bữa ăn ông ta cũng chửi.

- Còn bà chủ?

- Ồ! Bà chủ thì hết chê, trẻ hơn ông chủ đến cả vài chục tuổi, tính tình cởi mở. Thằng nào cũng thích.

- Nếu tớ là ông chủ ấy, tớ cũng chửi.

1044

Mar 27, 2006

Gói từng mảnh



Người đàn ông keo kiệt nhất trên đời đã đi sắm quà giáng sinh. Nhưng mọi thứ mà anh trông thấy đều quá đắt ngoại trừ một bình hoa giá năm mươi đô la được giảm xuống còn hai đô la vì cái quai của nó bị gãy mất rồi. Anh ta mua nó và bảo người bán gửi về cho bạn mình qua đường bưu điện để bạn anh ta ngỡ rằng anh ta đã mua nó với giá năm mươi đô la và nó đã bị gãy quai lúc chuyên chở.

Một tuần lễ sau lễ Giáng sinh, anh ta đã nhận được thư cảm ơn của bạn mình, thư viết:

- Cảm ơn bạn về chiếc bình hoa xinh đẹp. Và cảm ơn bạn đã cẩn thận gói riêng từng mảnh gởi cho mình.1999

Một Thuở Riêng Em



Bốn năm qua rồi, đến giờ, anh nào biết, trong em vẫn còn lại một nỗi nhớ về anh đến vẹn nguyên. Em chẳng thể nào quên có một thời mình đã là của nhau - một thời anh là của riêng em.


*
* *


Ngày ấy, anh là sinh viên năm thứ ba, đẹp trai, học giỏi, lại đa tài. Anh nổi bật lên hẳn giữa đám bạn bè cùng lớp. Và dĩ nhiên, anh trở thành trung tâm của mọi sự chú ý và là đề tài bàn tán của cá cô nữ. Em cũng biết không ít cô trong số họ rất thích anh. Nhưng anh thì phớt tỉnh Ăng-lê trước những ánh mắt ngưỡng mộ của họ để đến với em. Ðiều đó làm em thật ngạc nhiên bởi em chưa từng nghĩ đến điều này.

Lúc đầu em chỉ cảm thấy vui vui khi mỗi lần tan trường có anh đưa về. Buổi tối anh thường đến nhà em chơi. Thỉnh thoảng anh gởi tặng em những món quà nhỏ đầy ý nghĩa và em đã nhận nó như một lời tỏ tình của anh. Rồi em không biết mình đã bắt đầu yêu anh từ bao giờ, chỉ biết rằng hình ảnh anh đã đi vào trong những giấc mơ hồng của em ngày ấy... Ðó là chuổi ngày hạnh phúc nhất trong em.

Nhưng trong cuộc đời hình như luôn có những khoảnh khắc của định mệnh. Chỉ cần một sự kiện đột ngột bất ngờ xảy đến khuấy động mọi trật tự thường ngày là sự kiện đó đùng một cái đảo lộn cuộc sống bình lặng của ta. Vâng, định mệnh đã không mỉm cười với em. Ðịnh mệnh có quá khắt khe không khi chỉ bằng lòng ban phát cho em một tình yêu quá ngắn ngủi và một hạnh phúc không trọn vẹn. Em còn nhớ ngày ấy mình đã đau khổ như thế nào khi anh vội vã quay lưng.


*
* *


Tối. Anh không đến (anh bảo với em là anh đi xa). Buồn. Em xách xe ra phố. Một mình em lang thang trên con đường mà hằng ngày em và anh vẫn thường hay qua. Con đường không lá me bay, cũng không mùi hoa sữa mà sao em nghe thân thương đến lạ! Em thầm ước giá như giờ này có anh bên em. Rồi bất chợt tay lái em run run khi trông thấy anh chở cô bạn gái đang đi ngược về phía em. Nuốt ực một cái gì đó đang dâng lên nghèn nghẹn nơi cổ họng khi em nhận được cái nhìn hờ hững của kẻ xa lạ mà anh gởi lại khi phóng ào qua em. Trông anh lúc ấy thật hạnh phúc. Em lặng người, nghe cay cay nơi khóe mắt và trái tim dường như trĩu nặng.

Những ngày sau đó em sống trong nổi nhớ anh dày vò đến nhức nhối. Em chờ đợi và hy vọng sẽ nhận được ở anh một lời xin lỗi. Em biết chỉ như thế thôi là em sẽ sẵn sàng bỏ qua tất cả để mình vẫn là của nhau. Một ngày, hai ngày, rồi một tuần, hai tuần... sắp hết. Em đếm thời gian ào ạt qua đi. Lòng nôn nao, run sợ nghe tiếng những chiếc xe máy lao qua cửa nhà... Anh vẫn không đến! Cái cảm giác thất vọng đến não nề cứ cuộn lên trong em từng đợt, từng đợt. Em đã quá hy vọng để bây giờ phải đau khổ khi ôm lấy một chùm thất vọng. Hụt hẫng, đau đớn nghe tình yêu òa vỡ trong em.

Ðến bây giờ thì em đã hiểu, cái mà em ngỡ là tình yêu đầu đời, có lẽ sẽ chẳng bao giờ tồn tại. Em cay đắng nhận ra rằng: tình yêu mà anh dành cho em ngày ấy chỉ là một trò đùa không hơn không kém.

Ngày ấy em tự bảo mình hãy cố quên anh đi như quên một kỷ niệm buồn. Người ta không thể bám vào quá khứ để mà sống. Rồi đến một lúc nào đó em sẽ quên anh thôi và trái tim em lại ngân lên một tình khúc khác.

Thế nhưng con người ta không thể dễ dàng quên đi những gì mình đã có. Cũng như em đã không thể nào quên được anh dẫu biết trăm ngàn lần về tình yêu không thật của anh. Trong em vẫn mãi tiếc nuối một thời mình bên nhau.707

Mar 26, 2006

Tài thuyết phục



- Tôi kết hôn với một nữ luật sư, nàng có tài thuyết phục thật kinh hồn. Khi tôi quyết định ly dị để làm lại cuộc đời với một cô gái mà tôi yêu thắm thiết thì nàng đã thuyết phục được tôi ở lại với nàng vì hạnh phúc của các con.

- Đó là điều thông thường, phụ nữ vẫn dùng cách này để cứu vãn hôn nhân của mình.

- Vâng, mãi về sau tôi mới nhớ ra rằng chúng tôi chưa bao giờ có con.1037

Mar 25, 2006

Vẫn chưa tìm ra



- Hôm nay ở trường học gì thế con? - Ông bố hỏi con trai.

- Dạ thầy giáo bảo con tìm chủ ngữ và vị ngữ trong câu. Thật là khó!

- Hồi bố đi học, người ta cũng bắt bố tìm những thứ ấy! - Ông bố nói giọng an ủi - Thế mà đến bây giờ người ta vẫn chưa tìm ra!



o O o


- Mày học toán mãi mà chỉ đếm được từ 1 đến 10. Dốt thế thì sau này làm gì được hả con!

- Bố yên tâm. Con sẽ là trọng tài quyền anh!1141

Cô Gái Gọi Mặt Trời



     Bấy giờ Út mới mười lăm tuổi. Mỗi khi rảnh việc, Út thường chạy đến xem tôi vẽ. Út tỏ ra thích những bức tranh tôi thể hiện cảnh đồng quê bằng cách chấm phá những đường nét giản dị trên các mảng màu thật nhạt. Như cảnh bờ ao với một vài con vịt đứng rỉa cánh, cảnh dòng kinh với một con bói cá cắp mồi bay vụt lên, còn để lại dưới nước một vòng tròn lan tỏa.

     Vẽ chán những cảnh quanh quẩn ở nhà, tôi xoay qua vẽ cảnh mặt trời mọc trên đồng nước nổi. Sáng nào tôi cũng dậy thật sớm. Khi tôi lịch kịch chuẩn bị các thứ bảng màu, giá vẽ... thì Út cũng thức. Tôi ở trên nhà chuẩn bị đồ lề của mình, Út ở dưới bếp nấu nước châm trà cho ngoại. Ánh lửa rưng rức hắt vào mặt Út, bật lên những viền sáng, tự nhiên gợi cho tôi đề tài về thiếu nữ giữa đồng đưng gọi mặt trời thức giấc.

     Tôi nghĩ đến đồng đưng, bởi trước giải tỏa tôi chiến đấu ở vùng Tháp Mười. Những cánh đồng đưng ngút ngát, vào mùa nước nổi bị nhận chìm, trên mặt nước chỉ còn lất phất những đọt lá nào thật cao. Khi mặt trời lên, mặt nước của cánh đồng đưng có màu sắc riêng lạ lắm. Tùy theo sự dày đặc khác nhau của lớp đưng bị nhấn chìm mà sắc màu chuyển động, chuyển động liên tục theo sự phản quang của tia mặt trời ban mai chiếu xuyên qua mặt nước, rọi xuống những cọng đưng tua tủa bên dưới mà dội lại theo những góc gãy khác nhau. Nếu đặt trên nền ấy một chiếc xuồng, một thiếu nữ... biết đâu tôi sẽ được một tác phẩm về sức trỗi dậy hoang sơ đầy lãng mạn.

     Vậy là tôi hăm hở ra đi, hết ngày này qua ngày khác, cố gắng quan sát thật kỹ để nắm bắt cho được thần thái của sắc màu. Tôi kiên trì thể hiện bằng màu trên giấy không biết bao nhiêu lần. Chừng thấy tàm tạm, tôi mới bắt tay vào thể hiện hình tượng cô gái và mặt trời. Lấy ai làm mẫu bây giờ? Tôi nghĩ ngay đến Út. Tôi mới dạm hỏi, Út đã cười bẽn lẽn:

     - Em xấu thấy mồ, làm mẫu hư tranh anh thì sao?

     Ngoại Út ngồi uống nước, hút thuốc nghe vậy gõ gõ ngón tay xuống bàn, nói:

     - Con nhỏ này thiệt! Mày không giúp thì còn ai giúp?

     Út lại cười. Đôi mắt cũng cười. Mái tóc cũng cười. Cái lúm đồng tiền tròn vo cũng cười.

     Đường từ nhà Út ra đồng đưng phải vượt cả một cánh đồng chừng năm bảy cây số; để khỏi mất thời gian của Út tôi bắt đầu vẽ Út với mặt trời vào mỗi sáng ngay trước cửa nhà. Tôi ngồi sau lái, Út ngồi ở mũi xuồng. Tôi phải sắp xếp cho chiếc xuồng nằm hơi xéo tia chiếu của mặt trời. Còn Út thì ngồi xếp hai chân về phía sau, người hơi đổ về phía trước, mặt xoay về hướng mặt trời. Một tay cầm mái dầm thả một cách hờ hững trên đùi. Một tay đưa lên trán như kiểu sắp hất cho mái tóc dài xõa về phía sau. Nội chừng ấy thôi, tôi đã mất đến bốn năm buổi sáng với bảy, tám phác thảo mà vẫn chưa thấy hài lòng.

     Mỗi lần thấy tôi vẽ xong mà lắc đầu, Út lo lắm. Út nhìn tôi, hỏi một cách vô tư:

     - Tại em ngồi mẫu kém phải không anh Ba? Em mắc tật cứ hay ngọ ngoạy chân tay làm anh vẽ không được, phải không anh Ba? Để mai em ráng ngồi thiệt êm cho anh vẽ nghen!

     Tôi giải thích cho Út hiểu rằng cái chính không phải là đường nét mà là sắc màu. Tôi thất bại vì chưa diễn tả được cái đẹp hồn nhiên trong sáng của ánh nhìn trong mắt Út khi những tia mặt trời đầu tiên chiếu vào. Tôi nói với Út:

     - Út biết không, khi tia mặt trời đầu tiên chiếu vào mắt em, ánh nhìn của em ngời lên ánh sáng rất diệu kỳ, đẹp không thể tưởng được; sang năm, sang năm nữa anh quyết vẽ bằng được mới thôi.

     Sau nhiều lần phác thảo chân dung tại chỗ, tôi quyết định cùng Út ra đồng để xây dựng bố cục giữa thiếu nữ, mặt trời và đồng đưng ngay tại không gian tôi đã chọn. Ba bốn ngày liền, tôi với Út chống xuồng ra đồng đưng để dựng phác thảo. Điều làm tôi quay quắt nhất là chọn tông màu. Thiên nhiên ngời ngợi màu sắc, tôi không làm việc sao chép lại màu sắc ấy. Cái tôi cần thể hiện là phải tìm bằng được linh hồn của sắc màu, sao cho nói lên được sự yên ổn, hoang dã bật thức dậy trong đôi mắt thiếu nữ gọi mặt trời.

     Một hôm, khi đang loay hoay pha màu, tôi bỗng nghe tiếng Út reo lên sung sướng:

     - Sếu về! Sếu về rồi anh Ba ơi!

     Tôi ngoái lại nhìn. Đẹp quá! Đẹp tuyệt vời! Những cánh bay dìu dịu, nhẹ nhàng như đan vào nhau mà chớp ngọn nắng hừng đông. Cả một bức tranh hoành tráng chuyển động sắc màu nâu nhạt trên nền trời xanh xám, ửng lên phơn phớt sắc hồng. Phải rồi. Tìm được tông màu rồi. Tôi cảm động đến lịm người.

     - Sếu về rừng tràm, về đồng năn đó anh Ba. Vô rừng tràm coi chim đi anh Ba!

     Tôi gật đầu với Út. Hai chúng tôi lúc bơi bằng dầm, lúc chống bằng sào, phải gần ba tiếng đồng hồ mới vô đến tràm chim. Những con sếu cổ trụi đứng dầm chân dưới nước như những chấm màu. Thấy người, chúng vỗ cánh bay dựng lên, tạo ra những âm thanh xao xác. Bay được một quãng, chúng lại đáp xuống, điểm màu cho đồng năn buổi sáng. Chúng tôi say sưa ngắm đàn sếu cổ trụi hết cả buổi. Con nào cũng to lớn và đẹp một cách duyên dáng. Con thì cần mẫn dùng cái mỏ dài đào củ năn. Con thì ngẩng cao đầu nhìn mặt trời. Nhiều con vỗ cánh nhảy múa những vũ điệu gọi mời hết sức lạ mắt. Tới trưa, bất chợt một cơn mưa ập xuống. Tôi với Út phải tấp vô rừng tràm, căng tấm vải nhựa ra đụt mưa.Trời cứ mưa mãi, mưa muốn hết cả buổi chiều. Lạnh và đói. Út nói: - Dứt mưa, em lên bờ bao đập rắn mối đãi anh nghe anh Ba!

     Út đập được một xâu mười mấy con. Tôi gom lá tràm khô đốt lên nướng trui. Thịt rắn mối trắng, thơm và ngọt, ăn không biết chán.

     Khi chúng tôi ngồi vào xuồng thì đã xế chiều. Bầu trời vần vũ những đám mây mọng nước. Út giục: - Bơi lẹ anh Ba! Tối là hết thấy đường đó.

     Ai đã sống ở đồng nước mới biết khi tối trời đồng nước mênh mông ngút mắt, không còn biết hướng nào ra hướng nào. Quay phía nào cũng chỉ nước là nước, nước quây chóng mặt. Chúng tôi đã lâm vào cảnh đó giữa lắc rắc mây mưa, giữa mịt mùng bóng đêm vây bủa.

     - Út ơi! Lạc đường rồi phải không?

     - Chớ còn gì nữa. Đâu, ta bơi về hướng có ánh đèn kia kìa. Có gì mình hỏi đường người ta.

     Ngọn đèn coi chập chờn, tưởng gần mà đến được đến đó cũng mất gần cả giờ. Đó là ngọn đèn dầu hôi của một thằng nhỏ thắp lên canh chừng vịt. Thấy chúng tôi, nó ngạc nhiên hỏi:

     - Ủa, anh Hai bị lạc đường sao cà?

     Tôi kể cho nó nghe mọi chuyện. Nghe xong nó nói:

     - Hai anh em từ sớm đến giờ chưa bỏ bụng miếng nào mà chịu thấu sao? Để tui nấu cháo vịt cho ăn.

     Tôi chưa kịp ngăn lại, nó đã vọt lẹ ra gò đất quây vịt, vặn tréo cổ một con. Bầy vịt giật mình kêu quàng quạc. Ăn uống xong xuôi, thằng nhỏ hấp háy con mắt, nói với tôi, giọng tỉnh queo:

     - Tui ngủ xuồng cho, tui có nóp. Anh Hai với đứa em ngủ giường đi. Hồi chiều mắc mưa, ngủ ngoải bịnh à nghen! Tôi từ chối cách mấy nó cũng không chịu. Cuối cùng, tôi đành phải làm theo lời nó, bảo Út lên giường ngủ. Còn tôi, tôi ngồi hút khan hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, chong mắt chờ trời sáng.

     Quá nửa đêm, Út giật mình thức dậy, nói:

     - Anh Ba nằm ké đây mà ngủ. Ngồi đó muỗi ăn thịt à.

     Quả là muỗi nhiều thật. Muỗi cỏ trong đồng nhỏ lăn tăn, li ti, bay xám quanh mình, kêu ve ve như sáo thổi; chúng đốt đau nhoi nhói và ngứa muốn phát điên lên được. Mệt quá, chịu hết xiết, tôi buộc phải phủi chân chun vô mùng ngủ chung với Út. Gần sáng, tôi thức giấc thấy mình đang ôm Út trong lòng; mắc cỡ quá, tôi lật đật ngồi dậy, bước ra khỏi túp lều. Mình thật kỳ, may mà Út ngủ say không biết, chứ không... dám độn thổ cho rồi. Sau bữa đó mấy ngày, tôi hoàn thành tác phẩm. Ngoại Út đứng chống nạnh, dòm dòm một hồi rồi nói:

     - Chú Ba vẽ y chang con nhỏ. Mà coi bộ còn giống hơn con nhỏ. Dòm vô thấy nó man mác như xa như gần. Giỏi thiệt!

     Hết hạn thực tế, tôi chép lại một phiên bản tặng Út. Út mừng húm, đòi ngoại mua khung kiếng lộng bức tranh treo lên vách nhà. Trên vách nhà cặp bằng lá dừa nước xé, còn nguyên sống lá chạy đổ song sóng từ trên xuống, bức tranh nổi lên rất sống động, mặc dù nó chỉ là phiên bản. Cô gái trong bức tranh như đang chớp mắt gọi mặt trời. Mái tóc bay xõa như suối mây, vờn vào không gian thấp thoáng bóng chim, bóng cá, nhòa nhạt bóng nước, bóng trời.

     Bảy năm sau, hội mỹ thuật tổ chức cho tôi một cuộc triển lãm chung với hai họa sĩ khác. Hằng ngày chúng tôi thường đến phòng tranh, ngồi uống nước quan sát người xem, coi họ nhận định tranh ra sao. Một hôm có mấy nhà doanh nghiệp nước ngoài đến, họ dừng lại trước bức Cô gái gọi mặt trời của tôi. Một người nói: - Rất sống động. Tông màu biến hóa kỳ ảo như huyền thoại. Thiếu nữ trong tranh phải là một người sống rất chân tình. Giá mái tóc được bật sáng thêm chút nữa...

     Ông ta đặt cọc để mua bức tranh cao hơn giá treo tranh của tôi rất nhiều. Số tiền đó với gia đình chúng tôi là cả một tài sản. Biết tin này, không hiểu sao vợ tôi lại hỏi:

     - Này anh, cô Út của anh chắc có chồng rồi nhỉ? Bảy năm rồi còn gì!

     Nghe vợ hỏi, tôi sực nhớ đến Út. Nhớ đến buổi sáng chia tay với Út. Út bơi xuồng đưa tôi ra chợ xã. Dọc đường Út kể đủ thứ chuyện về đồng nước. Gần đến chợ, Út chợt hỏi tôi:

     - Anh Ba về thành chắc nhiều con gái đẹp, dám quên ngoại, quên Út lắm nghe.

     Tôi nói đùa với Út:

     - Con gái thành thị coi màu mè sặc sỡ chứ hơn sao được Út mà quên. Đợi ra trường làm ăn có tiền, thể nào anh cũng về nông thôn cưới vợ.

     Út gác mái dầm, nhìn tôi, nói:

     - Dóc tổ! Anh Ba mà chịu cưới vợ quê!

     - Thiệt chớ! Anh sẽ tìm cưới được một cô vợ giống hệt Út vầy nè!

     Út đỏ mặt mắc cỡ, hứ một tiếng rồi từ đó không nói chuyện nữa, chỉ lặng lẽ chèo. Mãi đến khi đã cặp xuồng vào mé chợ, Út mới lại lên tiếng:

     - Anh Ba cho Út tấm hình được không?

     Nghe tôi nói không có tấm hình nào, Út buồn xịu xuống, mắt rưng rưng muốn khóc. Để an ủi Út, tôi rủ Út vô tiệm chụp hình chụp chung hai anh em một tấm làm kỷ niệm.

     Bây giờ nghe vợ tôi nói vậy, tự nhiên tôi thấy mình có lỗi. Tôi ăn ở nhà Út cả tháng trời, vậy mà khi trở về thành đến một lá thư cảm ơn, thăm hỏi cũng không viết được. Đã vậy khi chia tay tôi còn hứa hươu hứa vượn. Lòng đầy ân hận, ngay chiều đó tôi tìm mua mấy món quà, ra bến xe mua vé về thăm Út.

     Tới nơi, cảm giác đầu tiên làm tôi lạnh cả người. Căn nhà vắng đến kỳ lạ. Bức tranh vẽ Út từ vách lá đã chuyển lên bàn thờ. Trời ơi! Út mất rồi sao? Tôi đau đớn lặng người, nước mắt trào ra. Thắp một nén nhang, tôi đứng chết trân trước bức tranh tôi vẽ cô gái gọi mặt trời.

     Sau đó, bà hàng xóm tính tình xởi lởi chạy qua, kể với tôi: - Chú biết không, con nhỏ lạ lắm. Ba bốn đám đến hỏi mà nó không ưng, không chịu đám nào. Với ai nó cũng nói nó có chỗ rồi. Chừng nó bịnh, thấy thương lắm chú Ba ơi! Hễ nằm thiêm thiếp thì thôi, còn thức dậy là ứa nước mắt, hỏi: "Anh Ba có về thăm chưa ngoại?." Lúc đầu ai cũng tưởng nó hỏi thăm thằng Ba anh ruột nó, chừng thằng Ba về, mới biết không phải. Lúc nó chết, thay bộ đồ cho nó, lục trong túi áo cũ thấy có tấm hình chú Ba chụp chung với nó. Chèng ơi! Con nhỏ trông chú Ba mỏi con mắt. Chú thiệt là tệ! Đi gì đâu biệt tăm hơi, không biên cho nó được lá thư!

     Trở về nhà, tôi kể lại mọi chuyện cho vợ tôi nghe, vợ tôi buồn bã nói:

     - Anh ạ! Đừng bán bức tranh nữa. Cả hai đứa mình đều có lỗi với Út. Bán bức tranh đi, mình mắc tội với Út không biết bao nhiêu lần mà kể.

289

Mar 24, 2006

Đàn Ông Khóc



Đêm nay, căn phòng khách này được sắp xếp lại. Bộ salon, cái tủ chè, cùng những bức tranh sơn mài phải mang cất vào các buồng trong. Nhường chỗ cho chiếc áo quan kê ở giữa phòng. Ánh sáng của hai ngọn đèn neon trên trần nhà, được thay bằng ánh sánh của nhiều cây nến. Trong không khí trộn trạo những mùi nhang khói, trầm hương, hoa tươi, nước thánh, vải xô, gỗ mới, vẹc ni, là những bóng người mặc đồ tang trắng toát. Giữa những cái bóng đứng, ngồi, quỳ, phủ phục đó, có anh. Trông anh vẫn rắn rỏi, như thể pho tượng đồng được gói trong lần vải tang sô chưa nhầu nếp.

Anh đang khóc. Ánh nến soi vào hai giọt nước mắt, trông lấp lánh tựa hai giọt sương ứa ra từ một phiến đá đen thẩm. Không nghe thấy tiếng nức nở, chỉ thấy đôi vai anh run lên nhè nhẹ. Tôi nghĩ, sống trên đời hơn ba mươi năm nay, chắc đây là lần thứ hai anh khóc. Lần đầu là khi anh mới lọt lòng sanh ra, lần thứ hai này là vì mẹ anh vừa qua đời.

Anh tuổi cọp. Nhỏ thó. Lì lợm. Như quả lựu đạn bọc thuốc nổ trong lớp thép đen đủi, lạnh băng. Một đêm mưa tháng tám, tôi mở cửa cho anh vào nhà sau nhiều tháng đi biệt. Anh cởi chiếc áo mưa, lộ ra một vết chém đầy máu. Anh không chịu đi bệnh viện, chỉ buông lời ngắn gọn: "Khâu lại cho tao!". Bàn tay đứa sinh viên năm thứ ba trường Y của tôi, vẫn còn run run trên những đường kim vụng về. Bởi đó là máu, thịt, vết thương, cảm giác của ruột rà thân thuộc. Mặt anh đẫm nước mưa lẫn mồ hôi, và lấm tấm vệt đỏ máu. Da thịt anh đanh lại, nhưng anh không phát ra một tiếng rên đau.

Anh là hình ảnh hoàn toàn trái ngược với tôi. Có lần Bác nhìn tôi, giọng trầm xuống: "Phải chi thằng Hải nó được một phần của con". Còn tôi lại ước có phần nào đó của anh. Hồi chúng tôi còn nhỏ, anh hơn tôi chỉ ba tuổi, người nhỏ con đen đủi, nhưng lại làm con ngáo ộp tôi mang ra dọa đám trẻ đồng trang lứa. Chẳng có đứa nào dám bắt nạt tôi. Cả những đứa to con lớn xác hơn, cũng ngán anh vì anh vừa lì lợm chịu đòn, vừa ngang tàng liều mạng. Anh đẽo cù, dán diều, bắt dế cho tôi. Anh thương tôi như một người em ruột. Rồi anh bỏ học, đi hoang. Thỉnh thoảng trở về, nằm nhà vài ngày, rồi lại đi. Mỗi lần anh trở về, tôi lại thấy anh rắn rỏi, lầm lì hơn. Khi anh ở trần, tôi thấy người anh phô ra đầy những vết thẹo ngang dọc, ghi dấu những chiến tích giang hồ. Vì anh, bác tôi khóc mãi. Nước mắt cứ ướt, rồi lại khô. Buồn lo trong lòng người mẹ kết tinh lại, như ngọc trong trong đá. Bác lại bảo tôi "Ông Trời công bằng lắm con ạ. Mang con đến cho ta, thay đứa con ruột". Khi tôi còn nhỏ, cha mẹ tôi cùng chết trong một tai nạn. Người thân chỉ có mỗi bà bác goá chồng, cưu mang tôi.

Nhưng Trời hào phóng hơn nữa, khi mang đến cho Bác thêm một đứa trẻ khác. Cũng vào một đêm mưa gió, anh trở về, bồng theo một đứa trẻ, nhỏ tẹo như con búp bê. Thế là, Bác đã hơn sáu mươi, lại phải bận rộn sữa tã cho đứa bé từ trên trời rơi xuống. Tôi hỏi anh muốn đặt tên nó là gì, anh bảo cứ gọi nó là Cúc. Tôi định hỏi, có phải mẹ nó là Cúc, như cái tên xâm trên cánh tay anh không, nhưng thấy mắt anh lạnh qúa, tôi không dám. Tôi ra phường, làm giấy khai sanh cho con bé lấy họ tôi. Và khi đi Mỹ, tôi tìm cách mang nó theo. Một hôm con bé hỏi tôi, cái tên của nó nghĩa là gì, tôi bảo đó là tên một loài hoa, người Mỹ gọi là Daisy. Nó bảo tôi đổi tôi đổi tên cho nó, vì người ta cứ gọi tên nó nghe như chữ cook - nghĩa là người đầu bếp. Thế là nó có tên mới, Daisy.

Daisy đang ngồi kia, cạnh người cha ruột của nó. Nhìn nó trong chiếc áo vải xô màu trắng, thật tội. Nhưng con bé không khóc, mọi thứ chung quanh đây có vẻ như xa lạ với nó. Chắc nó quên rồi những ngày xưa còn bé, quấn quýt bên bà nội. Ánh mắt lạ lẫm của nó đang dán vào con thằn lằn bám trên bức tường vôi trắng.

Bỗng tôi nghe anh nấc lên, khuỵu xuống bên chiếc áo quan "Mẹ ơi! ... tha lỗi cho con! Mẹ ơi ..." Daisy ngơ ngác, rời mắt khỏi con thằn lằn, nhìn sang cha nó. Có lẽ những lời thống thiết của anh, đã làm rung lên một sợi dây tình cảm vô hình thâm sâu, nối liền giữa cha và con. Khuôn mặt con bé chợt biểu lộ điều gì đó, tựa như một nỗi buồn - rất trẻ thơ.



CV1647

Mar 23, 2006

Chim đi xe đạp



Có một ông lão đạp xe từ nông thôn lên Hà Nội chơi. Đến Cầu Giấy, ông dừng lại hỏi thăm một cô gái bên đường:
- Cô làm ơn cho tôi hỏi từ đây đến Bờ Hồ còn bao xa? Cô gái õng ẹo:
- Nhưng mà còn tuỳ ông hỏi là đường đi bộ hay đường chim bay? Ông già thành thật:
- Không thưa cô, tôi hỏi là hỏi đường... chim đi xe đạp!
2389

Tới rồi



Một vận động viên nhảy dù thể thao quyết chí đạt kỷ lục thế giới. sau khi lao người vào không gian anh ta bình tĩnh theo dõi máy chỉ cao độ cầm trên tay:

- 5.000 mét... 4,000 mét... 2.500 mét... 1.000 mét... 500 mét... 200 mét... 100 mét... 50 mét... 20 mét... Ồ ! Sắp tới đất rồi còn mở dù làm gì!1945

Mối Tình "Chân"



Đó là một tiệm bán sách báo. Bên trong kê những kệ để cơ man đủ loại sách. Ngay bên hông cửa ra vào, kê một cái tủ kiếng bày biện những món đồ trang trí bằng crystal, bút, tượng Phật và những dụng cụ treo trong xe. Một ngày nắng thật đẹp, nhưng có vẻ...buồn. Hình như ngay cả những giải nắng ngoài bãi đậu xe cũng đang lang thang chờ đợi bóng dáng ai...

Cô đến thăm anh vào một buổi trưa ngập nắng. Lòng hớn hở, vì cô có rất nhiều truyện kể anh nghe. Đôi khi, cô trộm nghĩ, có lẽ ngoài vấn đề anh nghe truyện cô bằng tai, anh còn nghe cả bằng mắt, và thỉnh thoảng, bằng sự xúc chạm bàn tay anh nắm lấy tay cô nữa...

Nhưng khi tới nơi, "chạm" phải ánh mắt anh nhìn tha thiết quá, làm cô bối rối, cảm thấy...quê một cục. Khi không cô lại im như thóc, chẳng nhớ bất cứ câu chuyện nào để kể. Cô ngồi làm bộ ngó lơ ngơ ra ngoài khung cửa, ngó trời, ngó đất, hai tay đan lấy nhau đặt trên đùi.

"Sao. Em Khoẻ không?"

"Uh huh..."

Anh bỏ chiếc nghế ngồi đối diện. Đến ngồi trên chồng sách cạnh bên cô, nhưng vẫn tế nhị dành một khoảng không gian vừa đủ cho cô khỏi bị mất tự nhiên:

"Sao hôm nay nói ít vậy? Có chuyện gì kể anh nghe..."

" Hì...."

Cô ngượng nghịu nhếch mép cười. Sao kỳ. Khi không cô lại mất tự nhiên thế này?

Biết cô đã đánh rớt mất sự hồn nhiên ngay sau khi bước vào cửa tiệm. Với cử chỉ rất tự nhiên, anh nắm lấy tay cô kéo về phía tủ kính:

"Có muốn có một cái chuông nhỏ treo trong xe không? Anh cho..."

Mặt cô tươi lên. Líu ríu theo chân anh đến chiếc tủ kiếng bày biện cơ man những đồ trang trí nho nhỏ. Từ tượng Phật bà, chuông, tháp, và cả những sợi tràng hạt đeo tay nữa. Anh chọn ra một cái chuông nhỏ xíu, ngắm nghía một lúc:

"Thích cái này không?"

"Thích... Nhưng...."

"Nhưng....sao?"

"Cái này để bán mà?"

"Nhằm gì. Của anh mà. Lấy một cái đâu có sao!"

"........."

Anh chọn ra một chiếc chuông nhỏ, có cột thêm một giải đỏ phía dưới:

"Cái này nhé? Ừ. Cái này đẹp hơn nè..."

Anh đưa liên tiếp hai, ba cái chuông đủ cỡ để cô chọn lựa. Nhưng cô vẫn còn ngần ngừ. Anh lại lôi tiếp một chuỗi đeo tay, ngắm nghía:

"Muốn cái này không?"

Cô xua tay lia lịa:

"Thôi...thôi, đừng lôi ra nữa. Em chẳng muốn gì hết!"

Chẳng trả lời cô. Anh vẫn chăm chú nhìn chuỗi tràng đeo tay mà anh vừa lôi ra từ trong tủ. Nó được kết bằng những viên đá vuông nhỏ, trên mặt đá có vẽ ngoằn nghèo vài nét trông rất lạ mắt.

"Anh nghĩ đây là chữ Phạn đó"

Cô cũng tò mò ghé mắt nhìn, cãi:

"Không phải chữ Phạn đâu, hình vẽ mà!"

"Hưmmmm... Chắc là chữ Phạn!"

Cô bướng bỉnh, trêu anh:

"Ưm....Không phải mà!"

Anh nhìn cô một thoáng, chẳng thèm cãi với cô chi cho mệt:

"Nè. Lấy không?"

"Không lấy đâu. Nhưng, em nói không phải tiếng Phạn nha!"

Anh chẳng nói gì. Nhìn sợi chuỗi thêm một lúc, cố nhận diện xem có một nét chữ nào quen không, rồi bỏ lại trong tủ. Cô tính kiếm cách...gây sự mà anh chẳng thèm cãi, cô đành xoè răng...cười:

"Okay. Chữ Phạn!"

Cả hai cùng cười. Anh tự ý chọn ra một cái chuông nhỏ rồi kéo cô trở về chỗ ngồi:

"Nè. Cất đi. Nhớ treo trong xe nghe."

Cô đỡ lấy món quà. Thực tâm, cô chẳng muốn lấy làm gì. "Vô công, vô dụng hạnh mà".  Cô luôn nghĩ như thế khi nhận quà từ người khác. Nhưng đối với anh, có lẽ không nên câu nệ, nhận để anh vui, vì đôi khi, hành động nhận quà của mình cũng chính là để đem niềm vui đến người cho.

Anh ngồi trên thùng giấy bên cạnh, nhường cho cô cái ghế đẹp nhất trong tiệm. Cô ngó lơ. Nhìn tới, nhìn lui chẳng biết nói chuyện gì. Hai bàn tay đan lại với nhau, thấy ngứa, cô gãi gãi, để lại một vết đỏ ỡ kẽ ngón. Cô méc:

"Đỏ nè... "

Anh cười:

"Hồi nhỏ, đau chỗ nào, anh đều lấy...nước bọt làm thuốc, ngậm một lúc là hết... Đưa đây anh chữa cho..."

Rất nhẹ, anh đặt môi trên vết đỏ. Cô có cảm giác đầu lưỡi anh ươn ướt...

Thấy kỳ kỳ... Rụt tay về. Cô lại ngó lơ.....

Bỗng nhìn thấy đôi chân anh đi giầy sandal lòi mấy ngón chân coi ngộ ngộ, cô tinh nghịch dẫm lên chân anh rồi cười khúch khích. Phản ứng tự nhiên là anh rụt chân về. Nhưng cô cố bặm môi giữ lại. Cô ấn mạnh đôi giày bata của mình xuống chân anh. Anh hiểu ngay cô đang bắt đầu phát minh ra trò chơi mới. Anh hăng hái nhập cuộc chơi. Anh cố bặm môi kéo chân về. Hiển nhiên, anh kéo về được, và (chơi ngon) gác cả cẳng chân mình lên chân cô. Bốn bàn chân bắt đầu tranh giành ảnh hưởng, cô hăng hái muốn giành phần thắng về mình. Anh nghe tiếng cô cười lên khúch khích...

*

Buổi tối về. Anh lên giường với hình ảnh dễ thương của cô. Anh nhớ tới nụ cười ròn, ánh mắt ngó lơ... Mà kỳ ha! Sao bây giờ anh lại...nhớ thêm đôi cẳng chân với chiếc giầy bata đầy bụi đất!!

1099

Lây ngày



Một ả vừa mới ở cữ, ra vườn đi tiểu, nhìn xuống "cái kia" của mình, buột miệng nói:
- Chà, lâu ngày, hôm nay mới thấy, xem cũng không khác trước mấy.
Một anh thầy bói đi qua, tưởng người ta chào mình, cung kính đáp lại:
- Dạ ! Tôi đi làm mãi dưới huyện, mới về hôm nay, nhờ trời cũng mạnh khoẻ.392

Mar 22, 2006

Bí ẩn của làn nước



Các dòng sông trôi đi như thời gian, và cũng như thời gian, trên mặt nước các triền sông biết bao nhiêu là chuyện đời đã diễn rà.Nhất là về đêm, trên làn nước của dòng sông quê hương tôi lấp lánh hằng hà những đốm sáng bí ẩn, có cả điều bí ẩn của đời tôi. Năm ấy, nhằm trúng đỉnh lũ đêm Rằm tháng Bảy, một loạt bom Mỹ phá tan vệt đê canh giữ đằng trước làng tôi. Dứt dây nổ của bom và tiếng gầm ghê rợn của máy bay cường kích là chuỗi ầm ầm long lở của dòng sông phá bung đê tràn ngang vào đồng ruộng.

Từ trên điển canh tôi chạy lao về làng. Hồi chiều nghe tin vợ ở nhà trở dạ nhưng tôi không thể rời vị trí hộ đê. Bây giờ giời đất sập rồi, trong tôi chỉ còn con tôi, vợ tôì. Tôi dốc toàn lực bình sinh vào đôi chân. Ðằng sau, cơn đại hồng thủy đuổi bén gót. Nước đã ngập làng. Tôi về, kịp dìu vợ leo lên mái thì vừa đợt dâng nước thứ hai. Mái nhà tranh của vợ chồng tôi bị lôi đi trong đêm. Ðến khi mái rạ sắp rã tan ra thì ơn trời nó vương vào thân đa trước đình làng.

Ðã cả một đám đông bám trên các cành. Nhiều bàn tay chìa xuống giúp tôi đỡ vợ con trèo lên. Vợ tôi ôm khư khư đứa con mới sinh, nhất định không để tôi bế đỡ.

- Con trai ... con trai mà... yên tâm, con trai ... Ðể yên em ẵm, anh vụng lắm...

Nhiều giờ trôi quạ. Mưa tuôn, gió thổì. Mực nước không dâng cao hơn, nhưng chảy xiết hơn. Cây đa đầy người hơn. Tôi mỏi nhừ. Tay ôm chặt vợ, tay níu mình vào chạc cây. Vợ tôi yếu lả, ướt lướt thướt, lạnh ngắt.
Khoảng gần sáng, bỗng có tiếng quẫy nước ngay dưới cành đa của vợ chồng tôì. Một giọng nghẹn sặc với lên:

- Cứu mẹ con tôi mấy ... cứu mấy ... con gái tôi ...

Một bàn tay nhớt và lạnh như tay ma rờ vào chân tôi đang buông thõng. Tôi vội cúi xuống, đưa tay rà. Nhưng bàn tay của người đàn bà dưới nước truội đi, chìm nghỉm. Cành đa kêu rắc, chao mạnh. Vợ tôi "ối" kêu một tiếng thảng thốt, và "ùm", con trai tôi, đứa con sơ sinh tôi chưa được nhìn thấy mặt, tuột khỏi bọc ni lông trên tay mẹ nó, san xuống làn nuớc tối tăm.

- Trời ơi! Con tôi ...! - Vợ tôi hét rú lên và lao ngay lập tức xuống hòng chụp lấy con.

Tôi phóng mình theo. Nước lạnh, ngầu bùn, sâu hút và cuốn mạnh. Tôi vớ kịp thằng con, nhao vội lên, trao nó cho những bàn tayđang chìa xuống, rồi lại lặn tiếp ngay để cứu vợ. Nhiều người phi xuống theo để trợ sức tôi ...

Tôi tỉnh lại, thấy trời sáng rồi và đã tạnh mưa. Tôi nằm trong khoang một ca nô cứu nạn đầy ắp ngườì. Hồi đêm, tôi đã vật lộn điên dại quyết sống mái một phen với làn nước giết người, nhưng tôi đã thua cuộc, ứa ra cả máu tai máu mũi mà không những không cứu nổi vợ, đến thi thể cô ấy cũng bất lực không tìm thấỳ. Khi ca nô quân đội tới, mọi người đã phải dùng sức để buộc tôi rời mặt nước. Kiệt sức, tôi ngất đì. Khổ đau, tôi tỉnh dậy, nước mắt nóng rực, tê nhói. Một chị phụ nữ chen tới bên tôi, lên lời an ủi:

- Phận chị ấy đã vậy, thôi thì anh phải nén lòng lại, giữ sức khoẻ mà nuôi con. Ơn trời, anh còn kịp cứu được cháu. Chao ôi, vừa kịp khóc chào đời đã trải một cơn kinh hoàng hú vía. Anh coi con anh này. Cứ như không. Ðã bú, đã ngủ rồi đây nàỳ. Ngoan chưa này ...

Ôi chao, nó tè dầm rồi nàỳ.

Chị nựng nịu, và từ từ giở bọc chăn chiên đang ủ kín con tôì. Chị thay tã cho nó. Tôi nhìn. Choáng váng, chết lặng, tôi nén một tiếng kêu thất thanh.

- Con tôi ... - Tôi òa khóc, đỡ lấy bọc chăn. - Con tôi!

Từ bấy tới nay, thời gian trôi qua và triền nước trôi đi, tôi đã có tuổi và con gái tôi đã thành một thiếu nữ đẹp nhất làng. Nó là đứa con của làn nước, mọi người đều nói thế bởi vì chuyện nó sa xuống dòng nước lụt rồi được cha nó cứu lên thì cả làng ai cũng biết. Nhưng điều bí mật kia thì không ai hay, kể cả con gái tôi nó cũng không thể biết. Chỉ có dòng sông biết. Có ngày nào mà tôi không ra đê ngắm làn nước trôi. Vợ tôi, con trai tôi và người đàn bà vô danh nhìn tôi từ đáy nước. Thời gian, năm tháng cứ trôi, dòng sông và lịch sử, tất thảy đều đổi thay nhưng mà niềm đau của đời tôi thì khôn nguôi bởi vì ấy là một niềm đau không thể nói nên lờì.
208

Mar 21, 2006

Thuận cả hai tay



Vào một quán cà phê không đèn. Nàng hỏi chàng:
- Em ngồi bên phải hay bên trái anh đây?
- Bên nào cũng được, anh thuận cả hai tay.
2099

Hoa Xấu Hổ



Có một điều làm tôi trăn trở
Bao tháng ngày cắt nghĩa không ra
Rồi sớm ấy tôi thấy loài hoa
Người đời gọi là hoa trinh nữ
Những lúc bướm ong về bên hoa tình tứ
Hoa lại thẹn thùng khép lá tương tư
Tôi hỏi gió :"Hoa ngủ đấy ử"
Gió thì thầm bảo rằng : "Hoa xấu hổ"
À vậy đấy thật là rõ khổ
Có thế mà suy ngẫm mãi chẳng ra
Mà có đâu chỉ riêng mỗi loài hoa
Tất cả mọi loài khi yêu đều vậy cả
Tới bây giờ tôi mới hiểu được điều khó tả
Rằng tại saọ.. người ta nhắm mắt... lúc hôn nhau
1505

Mar 19, 2006

Người đẹp đông phương



Cách đây mấy năm, chúng tôi còn là một lũ học sinh ở trọ một căn gác tại Hà Nội. Một buổi tối thứ bảy trời mưa, chúng tôi ngồi nói chuyện đoán đến cách chết của mỗi người sau này.

Phát nói một cách khôi hài:

- Chắc chắn rằng mau hay lâu đây tôi cũng thua một trận oanh liệt với mấy đạo quân vi trùng lao đã một năm nay đi dạo trong phổi tôi.

- Tôi có thể tin ở bệnh đau ruột của mình.

Sau lời ý, đến tôi.

Thanh, họa sĩ nói:

- Tôi chết vì đàn bà.

Hạ cười:

- Thật không?

Thanh ngừng một lúc rồi thong thả:

- Không, tôi sẽ gãy đổ vì nghệ thuật.

Sự sống và cuộc đời đưa chúng tôi về một nơi xa khác nhau. Năm năm sau, tôi gặp Nam, Cử nhân luật ở Sài Gòn. Nam rủ tôi cùng đi ăn cơm tối. Khi tôi tỏ ý hỏi thăm các bạn cũ còn ở Hà Nội, thì Nam nói:

- Bây giờ họ không còn đủ hết đâu!

- Tại sao thế?

- Mấy người đều theo đúng lời bàn đoán trước của họ. Anh còn nhớ buổi tối chúng ta nói đến cách chết của mỗi người sau này?

- Phải, nhớ lắm. Nửa năm sau đó tôi về đây, rồi trôi dạt khắp nơi đến nay gặp anh.

- à, Phát là người đi trước, sáu tháng sau, hắn chết lúc gần kỳ thi.

- Chúng ta cả thảy là sáu - ba đứa đều đi theo mỗi cách chết riêng. ý thì lẽ tất nhiên vì bệnh đau ruột. Tứ thì vỡ não vì quá trụy lạc. Thần chết cũng chiều theo ý muốn của người đấy chứ!

- Còn Thanh họa sĩ thì thế nào?

- Thanh đã theo đúng lời hơn hết trong bọn chúng ta. Hắn gẫy đổ vì đàn bà và nghệ thuật.

- Hắn chết vì đàn bà?

- Đã mấy tháng nay Thanh ở trong nhà thương điên, thuộc vào hạng không chữa được. Người thiếu nữ làm kiểu mẫu của Thanh tan ra vì khoái lạc, dưới những cái hôn nồng cháy của hắn rồi bốc lên não làm cho hắn thành điên.

- Tôi tưởng Nam nên khôi hài một lúc khác thì hơn.

- Không, tôi có khôi hài đâu, sự thật là thế. Nam khẩy tàn thuốc, gọi thêm một cốc rượu rồi nói:

- Câu chuyện tóm tắt như tôi đã nói với anh: một thiếu nữ trẻ, đẹp chừng hai nghìn tuổi, mà Thanh vẽ rồi yêu, tan ra vì khoái lạc trong lúc Thanh âu yếm. Vì thế mà Thanh trở nên điên. Hết! Nhưng nếu muốn rõ ràng, tôi có thể kể lại cho anh nghe.

Rồi Nam thong thả tiếp theo:

- Lúc anh từ giã Hà Nội, bốn tháng sau Thanh đến vẽ cho "Cổ viện á Đông". Tìm một họa sĩ chuyên về lối phương Đông như Thanh không phải dễ dàng. Thanh là một thiên tài và cũng vì thế mới đưa hắn vào nhà điên.

Độ ấy viên hội trưởng "Cổ viện á đông" có mua được một thứ đồ cổ rất quý, ở miền bắc á châu, không thể định giá được là bao nhiêu, vì trên mặt đất này chẳng có một vật thứ hai như thế. Đó là một khối nước đá lớn, đã mấy nghìn năm nay đựng một người đẹp còn giữ được thân thể nguyên vẹn nằm trong đó.

Việc chở "Người đẹp Đông phương" về rất khó khăn. Cái phòng làm chỗ ở cho người đàn bà lại khác lạ lắm. Một tòa nhà hai mươi thước bề cao, bốn mươi thước bề ngang và khá dài. "Cổ viện á Đông" muốn giữ được vẻ đặc biệt, cho "Người đẹp Đông phương" ở một căn phòng xây dưới đất, cả một tháp nước đá, mà nhờ các máy, khí hậu ở đây luôn luôn giá lạnh. Hai lớp cửa sắt phủ nước đá phía trong ngăn cách một gian phòng ấm áp ở ngoài. ánh đèn khí đặt rất khôn khéo chiếu sáng cái tháp mùa đông.

Ai muốn vào xem "Người đẹp Đông phương" thì phải có giấy phép của viên hội trưởng "Cổ viện á Đông". Thế rồi một người đến, và sự gặp gỡ này tai hại cho cả hai.

Thanh là người đã được chứng kiến lúc rước người đẹp đến. Nhân dịp này, có người chụp vài tấm hình về cuộc đón tiếp, nhưng hư hỏng gần hết, vì tảng nước đá phản ánh sáng, một người đàn bà bị thay đổi, như ở trong một tấm kính trá dạng. Bởi thế viên hội trưởng nhờ Thanh vẽ nàng để gửi bức tranh ấy qua trường Bác Cổ Pháp. Thanh nhận lời.

Thế rồi một sự dị thường đi qua tâm trí Thanh. Về sau các người canh giữ nhà nước đá nói rằng lúc đầu họ không thấy gì lạ trong các cử chỉ của Thanh, nhưng mấy ngày cuối cùng phải để ý vì thấy có khi họa sĩ ngồi yên hàng giờ, mắt chăm chú vào người đẹp, không vẽ một nét. Một hôm lạnh, tay cầm bút họa run, Thanh thôi, và cũng vẽ xong một bức chứa chan tài nghệ.

Trong mấy ngày trước khi thôi vẽ, Thanh nói với mấy người canh giữ ra ở phòng trước. Ban đầu họ không lấy làm lạ và cho là lòng tử tế của họa sĩ muốn được ở gian ngoài ấm áp hơn là gần khối nước đá lạnh lẽo. Thanh còn cho họ tiền riêng để họ mặc yên một mình họa sĩ. Hai lần, ở căn phòng trước, họ nghe tiếng nói trong gian phòng nước đá, và nhận ra là giọng của Thanh.

Về độ này, một hôm Thanh nói chuyện cùng viên hội trưởng mượn các thìa khoá trong gian phòng để người đẹp. Thanh muốn vẽ một bức tranh lớn về nàng và cần phải được luôn luôn tự do vô ra. Theo trường hợp khác thì Thanh đã được nhận lời, nhưng trong lúc ấy, cử chỉ của Thanh và cách yêu cầu có vẻ khác thường làm cho viên hội trưởng nghi nan liền từ chối một cách lịch thiệp. Thanh run người lên, nói vài câu vô nghĩa rồi vội vã ra ngoài, không chào nữa. Lẽ tất nhiên thái độ lạ lùng ấy làm cho viên hội trưởng thêm nghi ngờ. Ông ta bảo cùng những người canh giữ "Cổ viện á Đông" không được để một người nào vào gian phòng nước đá nếu chẳng có giấy phép có chữ ký của ông ta.

Sau đó có tin ở Cổ viện rằng có người định đánh đuổi tên canh gác để vào trong tháp nước đá. Người ấy không ai khác hơn là Thanh. Ông hội trưởng hay tin, tìm đến nhà Thanh gặp lúc Thanh đang ngồi trước đồ vẽ, mặt úp trong hai tay. Thấy khó cắt nghĩa về việc đã xẩy ra, Thanh lễ phép mời viên hội trưởng đi ngay khỏi căn phòng mà Thanh là chủ nhân. Thấy họa sĩ có vẻ kỳ dị, ông nhún vai ra về và đặt thêm ba ống khóa bí mật ở cửa phòng "Người đẹp Đông phương" và giữ chìa khóa trong tủ sắt ở buồng giấy riêng. Trong ba tháng, không có sự gì xẩy ra. Mỗi tuần hai lần viên hội trưởng cùng hai người canh giữ coi về các máy lạnh tự mình vào thăm người đẹp.

Mỗi ngày, Thanh vào phòng họa nhưng không làm việc nữa, nước thuốc khô lại, bút vẽ bừa bãi không rửa. Có lúc, Thanh ngồi hàng giờ trước giá vẽ hay là đi lui tới luôn trong phòng không nghỉ. Cách nửa tháng, một buổi khuya, tôi gặp Thanh trong một tiệm cà phê bán sáng đêm. Lạnh lùng bơ phờ, Thanh bắt tay tôi, chỉ nói một câu:

- Tôi mới bán ba bức tranh cho một người Pháp được gần một ngàn đồng.

Rồi im lặng ngồi nhìn tách cà phê đậm đen cho đến lúc trời hừng sáng, Thanh đứng dậy nhìn tôi cười gượng đầy cả buồn rầu ra về.

Vắng Thanh khá lâu, một hôm tôi đọc thấy trên báo rằng Thanh và đồng lõa, một người thợ khóa, và tên canh giữ "Cổ viện á Đông" bị truy tố. Người thợ khóa có tiền án trốn thoát; tên canh giữ bị bắt thú nhận hết: Thanh năn nỉ nếu hắn ngủ yên trong đêm phiên gác thì sẽ cho một trăm đồng. Được món tiền lớn hắn nhận lời. Lúc chín giờ tối Thanh đến Cổ viện với một người thợ khóa, tên canh giữ mở cửa cho hai người vào phòng giấy của viên hội trưởng.

Tên thợ khóa mở cửa vào, rồi đem ra thử đủ các kiểu thìa khóa để mở tủ sắt. Hắn không phải khó nhọc lắm, vì ống khóa tủ sắt làm theo một kiểu xưa, Thanh lấy mấy cái thìa khóa để trong đó và đóng lại. Rồi cả ba người vào trong Cổ viện mở các ống khóa bí mật ở tòa nước đá để vào văn phòng trước.

Thanh bảo tên canh giữ đốt củi ở lò sưởi cho được ấm áp rồi bày thuốc màu và đồ vẽ đem theo. Thanh đưa cho tên canh giữ số tiền đã hẹn và cho tên thợ khóa ba chục rồi bảo đi ra để yên một mình Thanh. Hai đứa ra uống rượu mừng được món tiền lớn, rồi người thợ khóa đi, tên canh giữ ngả ra ngủ cho đến sáng.

Tình cờ ngày sau lại gặp hôm viên hội trưởng đến thăm người đẹp. Thấy cánh cửa sắt khóa ở trong, ông cho tìm một người thợ khóa và báo tin cùng sở cảnh sát. Sau một giờ phá, cạy, cái cửa sắt nặng rơi rầm xuống trong gian phòng ngoài. Một mùi thối ghê gớm hắt vào mặt bắt họ muốn nhào lui, long óc. Viên hội trưởng bịt mũi bằng khăn tay, chạy vào thì thấy khối nước đá đã tan vỡ và ở phía giữa, người đẹp biến mất.

Thình lình trong góc, một giọng rền rĩ, than vãn nghe như không phải là tiếng của người. Thanh đang cựa quậy trong đống nước đá bị ướp lạnh đến nửa người. Mặt và hai tay đầy máu, mình mặc sơ mi và quần áo rách hư. Hai con mắt của Thanh như lìa ra khỏi sọ dừa, nước bọt chảy đầy cả miệng. Người ta đem Thanh ra khỏi nơi này rất khó khăn. Trả lời cho những câu hỏi, Thanh chỉ lập cập nói không đâu. Khi muốn đưa Thanh ra căn phòng trước thì hắn la hét và vùng vẫy chống cự lại. Bốn người phải giữ lấy Thanh nhưng lúc đem ra gần cửa phía ngoài thì hắn giật thoát được, với một tiếng hét ghê gớm rồi chạy vào một góc trong xa. Một sự giày vò điên cuồng đưa lại cho cái thân hình đã giá cứng một sức mạnh lạ thường khiến những người canh gác phải bắt trói chân tay Thanh lại, khiêng đi như một con vật. Ra đến trước cửa Thanh còn cố gỡ thoát ra với một tiếng kêu rùng rợn, rồi rơi xuống đất, đầu gối trên một tảng nước đá, bất tỉnh.

Người ta mới chở Thanh vào nhà thương và ở đây, cách ba tháng sau, đưa vào nhà điên. Tôi có đến thăm Thanh một lần trông thảm hại quá. Hai lỗ tai và bàn tay mặt cứng giá lại, độ mười lăm phút, thì một cơn ho dữ dội làm run rẩy cả mình Thanh. Sau một đêm ghê rợn trong gian phòng nước đá, Thanh chẳng có một lúc yên. Một cơn mê sảng ghê gớm giày vò hắn cả ngày lẫn đêm.

Tôi sôi nổi giục Nam.

- Nhưng mà trong đêm đó tại "Cổ viện á Đông" đã xẩy ra những gì?

- Tôi đã hết sức chú ý, thu nhặt đến những tài liệu gần như vô ích để đi tới sự hiểu biết rõ ràng. Tôi sục sạo những tranh vẽ, các hộc bàn của Thanh; ở đây, một nét vẽ, chỗ kia một hàng chữ, cắt nghĩa cho tôi biết thấu những dây tơ tưởng, những giấc mơ của Thanh. Có lẽ tôi phải nghĩ ra nhiều trường hợp nữa, nhưng tôi chắc không đến nỗi phải lầm.

Nguyễn Thanh là một người khác thường. Thanh đi trên cuộc đời với một giấc mơ trong tâm hồn. Đối với Thanh cái gì rồi cũng ra tro bụi trong nháy mắt, cái xác con chó chết thối tha bên đường cũng như hình ảnh người đàn bà đẹp nhất bằng xương bằng thịt. Thanh muốn sự không bao giờ có thực hiện. Phải có một cái đẹp nữa, đứng trên cả thời gian và không gian: sự bất diệt.

Và sự vô vọng ấy đã thành sự thật: nhà nghệ sĩ đã tìm được nàng bất diệt, "Người đẹp Đông phương" - Một người đàn bà đẹp, đã sống mấy ngàn năm trước đây ở một góc trời á đến làm kiểu mẫu cho Thanh. Nàng đã đặt mình nằm trên sức mạnh của thời gian để gặp Thanh. Nàng đã chết. Nhưng cần gì? Thanh nói thế, dẫu nàng chết đi rồi, sao Thanh lại không có thể yêu? Người xưa đã yêu một pho tượng đá và pho tượng đã cảm động hóa ra người. Người đẹp phương Đông đã thắng được sức mạnh của thời gian trong khi loài người tiêu tan trở về với cát bụi. Nhà nghệ sĩ theo đuổi sự bất tử liền ôm ấp lấy sự phi thường ấy.

Cứ mỗi lần Thanh đến ở Cổ viện để vẽ người đẹp, thì trong hồn càng in sâu bức tranh tượng trưng sự thắng lợi của sắc đẹp trên thời gian. Và bởi đây, trí tưởng điên cuồng của nhà nghệ sĩ đã nẩy nở ra cái hoa đẹp nhất mà không bao giờ một người trần gian nào được hưởng: ái tình và Nghệ thuật hòa nhịp đời đời. Nhưng mà không phải Thanh vẽ người yêu ở trong khối óc đá. Nàng phải được tự do nằm ở gần chàng. Dưới chân nàng thời gian giết hại bất lực quỳ trước nhan sắc thắng thế.

ý nghĩ đem nàng ra khỏi khối nước đá ăn sâu trong tâm hồn Thanh và những sự khó khăn phải gặp chỉ làm cho Thanh thêm bồng bột muốn đi ngay đến định tưởng. Với số tiền đã bán được mấy bức tranh, Thanh đưa cho tên canh giữ và người thợ khóa, Thanh có thể thực hiện được ý muốn. Trong thời kỳ viên hội trưởng cấm không cho Thanh vào Cổ viện, sự ước muốn gần người đẹp càng sôi nổi trong đầu óc Thanh. Và chàng đã tìm đến "Người đẹp Đông phương".

Trong khối nước đá, nàng như muốn đi ra với Thanh. Hai mắt người đẹp như chăm chú nhìn Thanh, bàn tay nàng như ra dấu trước sự mờ loạn của Thanh.

Chàng rút cái rìu nhỏ đem theo trong túi ra bắt đầu làm việc.

Nhưng với một vật nhỏ như thế không phải là dễ dàng, Thanh đã phải làm việc rất lâu. Từng lúc người đẹp như thúc giục chàng với đôi mắt xanh biếc.

- Gắng lên, người yêu của em! Chỉ trong chốc lát là em sẽ ở trong tay anh!

Bốn bề nước đá vỡ vớt ra từng mảng. Thanh phá mãi, và bồng được người đẹp ra ở phòng ngoài ấm áp và tiếng nổ trong lò sưởi như hát một điệu nhạc lạ lùng.

Nhẹ nhàng, Thanh đặt nàng trên ghế dài rồi bắt đầu vẽ. Với một sự sôi nổi dị thường, một cảm hứng kỳ lạ, Thanh đặt hết thiên tài vào tác phẩm của mình. Trong khi ấy, lửa ở lò sưởi cháy rực làm không khí trong phòng trở nên nóng bức. Mồ hôi nhỏ giọt ở trán, Thanh tưởng là sự kích thích của linh hứng đã làm cho chàng nóng nảy nên cởi áo ngoài ra mặc sơ mi để vẽ.

Có phải môi nàng đã cử động không? Thanh chăm chú nhìn nàng, môi dưới của người đẹp như thoáng một nét cười. Thanh dụi mắt tưởng mình lầm lạc. Nhưng tay nàng se sẽ cử động như tỏ dấu cho Thanh lại. Thanh vứt bút vẽ vội vàng đến bên nàng. Chàng quỳ xuống, nắm lấy bàn tay xinh đẹp in mấy làn gân xanh nhạt Nàng để yên cho Thanh. Chàng ấp vào bàn tay, ngẩng đầu lên nhìn rồi ngả mình vào lòng nàng, nhắm mắt hôn má, môi, cổ, làn ngực trắng nõn nà.

Xác thịt tan rữa, hôi nồng nặc dính vào người Thanh. Chàng lùi vài bước. Những nét đẹp mất dần... Một mùi thối ghê gớm, không thể chịu nổi lấn át Thanh và theo hơi nóng của lửa càng tăng thêm. Xác người đàn bà đẹp chảy ra. Trước mắt Thanh, một cảnh tượng khủng khiếp đi sâu vào trí não chàng: thời gian, cái vĩ đại tàn ác trả thù.

Thanh muốn trốn thoát, chạy ra cửa... nhưng thìa khóa đâu? Trong lúc ấy, Thanh không còn lý trí nữa. Chàng đánh đầu đến chảy máu, nhưng cửa sắt vẫn đóng chặt. Và cứ mỗi lúc cảnh rùng rợn càng tăng thêm. Thanh cảm thấy mùi thịt rữa nát bấu cắn lấy mũi, miệng chàng. Thanh hét lên như một con vật bị cắn họng, chàng đâm mình vào trong phòng nước đá rồi ngồi yên trong một góc mặc cho sự hối hận vò xé, đay nghiến.

Và đây, ta thấy con người bé nhỏ rồ dại tưởng có thể giãy đạp thời gian ở dưới chân.
603

Mar 18, 2006

Thưa Mẹ








Kính tặng Mẹ
 
Thưa Mẹ, dẫu mai nầy nắng tắt
Vẫn còn hơi Mẹ ấm lòng con
Vẫn còn giọng nói thơm như nhạc
Như gió mùa Thu... như nhớ mong...

 


Huế những mùa xa, thương quá đỗi
Lo toan, Mẹ chẳng quản thân gầy
Chuyến xe, bụi vướng bao chìm nổi
Đôi mắt nhòa đi, con chẳng hay
 
Sông Hương vẫn chảy bên bờ Ngự
Lòng con vẫn vậy, gió bên trời
Cám ơn đời rộng, con còn Mẹ
Để lúc ngồi bên... để ngắm thôi...
 
Để nhìn Mẹ đẹp như trời đất
Nâng bước đời con, gió viễn khơi
Gió vẫn bay, vang lừng câu hát:
Ngàn Năm Nguyên Vẹn Mẹ Tinh Khôi
 
Thưa Mẹ, dẫu mai nầy bóng xế
Tà dương con đứng níu chiêm bao
Khói sương lạnh lắm, không còn Mẹ
Tóc trắng đời con bỗng nghẹn ngào...

2718

Kết quả của mối liên kết



- Cậu làm thế nào mà chỉ trong 3 năm đã có được một sản nghiệp đàng hoàng như thế này?
- Tớ liên kết với một doanh nghiệp có nhiều vốn.
- Tỷ lệ đóng góp thế nào?
- Anh ta lo vốn còn tớ góp kinh nghiệm.
- Kết quả ra sao?
- Như cậu thấy đấy, tớ thì có tiền còn anh ta tích lũy được kinh nghiệm.

2068

Mar 16, 2006

Dê đực chửa



Dê đực chửa


Tiếng tăm về cầu bé thần đồng ở vùng Thanh Hóa bay đến kinh đô. Nhà vua muốn biết hư thật như thế nào, bèn ban lệnh: Cả phủ Thanh Hóa, mỗi làng phải đem nộp một con dê đực đang chửa. Sau hai tháng, nếu làng nào không nộp sẽ bị trị tội. Dân chúng phủ Thanh Hóa hốt hoảng sợ hãi. Cả làng Quỳnh ở, ai cũng nhớn nhác lo âu. Tìm đâu ra dê đực chửa? Biết chuyện đó, Quỳnh nói với bố:

- Về việc ấy xin Thầy đừng lo. Thầy cứ bảo dân làng chuẩn bị cho con một trăm quan tiền và gạo ăn đường, con sẽ kiếm được dê đực chửa cho làng.

Nghe con nói, ông bố không tin, nhưng cũng thưa lại với dân làng. Không có cách nào khác mọi người đành làm theo lời yêu cầu của Quỳnh. Sáng hôm sau, hai cha con Quỳnh lên đường. Họ đến kinh đô đúng lúc nhà vua có việc đi qua cửa Đông. Quỳnh nép xuống cống sát vệ đường chờ. Khi xa giá nhà vua đến gần, Quỳnh khóc rống lên. Vua sai lính lôi đứa bé đang khóc lên hỏi nguyên do. Quỳnh vờ như không biết đãy là vua, càng gào to, kể lể:

- Mẹ tôi chết đã mấy năm nay, tôi nói mãi mà bố tôi vẫn không chịu đẻ em bé cho tôi bế...

Vua cho là đùa bé bị bệnh dại ngây, cười và nói:

- Mày thật là đần độn, đàn ông mà đẻ sao được!

Bãy giờ Quỳnh nín bặt, đứng chắp hai tay nói rất trang nghiêm:

- Thưa ông, vậy mà nhà vua bắt dân làng tôi phải nộp dê đực chửa.

Nghe nói, nhà vua giật mình, biết ngay đây là đứa bé ở Thanh Hóa mà bấy lâu nay mình vẫn nghe đồn.
45

Mar 15, 2006

Bất ngờ



Chuyên gia tư vấn tình yêu hỏi cậu khách hàng trẻ tuổi:

- Thế nào, lời khuyên của tôi về chuyện hôn bạn gái vào lúc cô ta bất ngờ nhất có giúp ích gì cho cậu không?

- Quỷ tha ma bắt nhà ông! Bị cốc lia lịa vào đỉnh đầu chứ ích gì.

- Ô hay! Cậu rúc vào đâu mà ăn cốc trên đỉnh đầu?

- Thế không phải là hôn vào chỗ cô ta bất ngờ nhất sao?2025

Cái gi`?



Cô giáo dùng ngón tay trỏ chỉ trên bản đồ một điểm rồi hỏi:


- Đây là cái gì?


Trò:


- Thưa cô, đấy là ngón trỏ của cô ạ...
 


***


Thầy giáo viết lên bảng câu: “Người đàn ông lang thang đã chết đói!”. Rồi quay lại hỏi học sinh:


- Này Tí, em cho thầy biết chủ ngữ ở đâu?”


- Ơ.. Có lẽ dưới mồ ạ!!!

440

Mar 14, 2006

Lời cầu nguyện đã linh nghiệm



Một sinh viên viết thư về nhà.

"Thưa bố mẹ,

Con cảm thấy rất đau khổ khi cứ phải viết thư để xin tiền bố mẹ. Con cảm thấy xấu hổ và không vui vẻ gì khi phải hỏi xin ba mẹ thêm 100 đôla nữa. Con quì gối cúi xin ba mẹ rộng lòng tha thứ cho con.

Con trai của ba mẹ,
Marvin.

Tái bút: Con cảm thấy quá đau khổ nên đã chạy theo người đưa thư để lấy lại. Con muốn lấy lại lá thư và đốt cháy nó. Con đã cầu nguyện là con muốn lấy lại nó được nhưng mọi việc đã quá trễ."

Một vài ngày sau chàng sinh viên nhận được một lá thư từ ông bố.

"Lời cầu nguyện của con đã được chấp thuận. Lá thư của con không bao giờ tới nơi!!!"1124

Từ khi lấy vợ



Hai ông chồng gặp nhau:


- Này cậu, sao dạo này cậu gầy thế?


- Vì mình cưới được nàng tiên!


- Cô ấy đẹp lắm sao?


- Nào có đẹp gì cho cam! Hình thức thì cũng thường thường bậc trung nhưng được cái ăn ngủ tốt nên bao nhiêu việc trong gia đình mình phải gánh vác tất.


***


Một anh chàng tâm sự với bạn nhậu ở quán bia:


- Từ hồi lấy vợ đến giờ, tôi thấy mắt mình có vấn đề...


- Vì sao vậy?


- Bởi vì từ lúc lấy cô ấy về, tôi chẳng bao giờ trông thấy tiền!

441

Mar 12, 2006

Phép Lạ



 khổ trong đời là điều không thể tránh, nhưng sầu thảm lại là vấn đề tự chọn của mỗi người.

Mỗi tháng người quản lý của nghĩa trang đều nhận được một số tiền từ bà mệnh phụ tật nguyền đang được điều trị tại một bệnh viện trong thành phố. Số tiền ấy dành để mua hoa đặt lên mộ người con của bà ta, một chàng trai trẻ đã chết trong một tai nạn ô tô hai năm về trước.

Ngày nọ, một chiếc ô tô đi vào nghĩa trang và dừng lại trước ngôi nhà phủ đầy dây trường xuân, đó là nơi bác quản lý nghĩa trang sử dụng làm văn phòng tiếp khách. Người tài xế bước xuống xe. Ở băng ghế sau, một người phụ nữ lớn tuổi ngồi nhắm mắt bất động, bà ta trông xanh xao như một xác chết.

“Bà ta yếu quá. Không thể ra khỏi xe được,” người tài xế nói với bác quản lý nghĩa trang. ”Xin bác vui llòng lên xe, đưa chúng tôi đến mộ thằng bé con bà ấy. Bà ta cũng muốn yêu cầu bác giúp cho một số việc. Bác thấy đấy, bà ta không còn sống được bao lâu nữa. Bà ấy đã yêu cầu tôi, một người bạn cố cựu của gia đình, đưa bà ấy đến đây để thăm mộ con trai lần cuối.”

“Có phải là quý bà Wilson đấy không?” Bác quản lý đưa mắt nhìn sang bà mệnh phụ ngồi trong xe. Ông tài xế gật đầu.

“Vâng, tôi biết bà ấy.” Bác quản lý gật gù. “Hằng tháng, bà Wilson có gửi tiền cho tôi để đặt hoa cho ngôi mộ của con bà ta.” Bác theo ông tài xế đến bên xe, bước vào hàng ghế sau ngồi cạnh bà mệnh phụ. Hai người lặng lẽ chào nhau qua ánh mắt. Bà ta trông mong manh như cánh hoa tàn úa và xanh xao như một xác ướp, bác quản lý nhận xét thầm. Trong con người của bà ta, tất cả đều đã buông xuôi và từ chối cuộc sống, ngoạit rừ đôi mắt; đôi mắt sâu thẳm mang nặng một nỗi đau thầm lặng và u uất.

“Tôi là bà Wilson.” Bà ta thầm thì. “Hai năm qua, mỗi tháng…”

“Vâng, đúng vậy. Mỗi tháng tôi đều nhận được tiền của bà.” Bác quản lý nhẹ nhàng đỡ lời.

“Hôm nay, tôi đến đây,” bà Wilson cố gắng nói tiếp, “bởi vì các bác sĩ trong bệnh viện nói rằng tôi chỉ sống được vài tuần nữa thôi. Trước khi tôi chết, tôi muốn được nhìn mộ con trai tôi lần cuối. Nhân tiện tôi muốn gặp ông để thu xếp việc gửi tiền đặt hoa cho mộ con tôi sau này.”

Bà có vẻ kiệt sức vì phải nói nhiều. Chiếc xe chầm chậm rẽ vào một ngõ hẹp, tiến dần đến ngôi mộ đứa con trai bà mệnh phụ ấy rồi dừng lại. Bà mẹ tội nghiệp cố sức ghé qua đầu qua ô cửa kính để nhìn ra ngôi mộ của con. Không gian tĩnh lặng, tiếng chim chíu chít đâu đó bên trên những tán cây.

Bác quản lí nghĩa trang lên tiếng phá tan bầu không khí im lặng. “Thưa bà, tôi luôn lấy làm tiếc vì món tiền bà đã thường xuyên gửi đến để đặt hoa cho ngôi mộ.”

Thoạt đầu bà mệnh phụ có vẻ không nghe được câu nói ấy. Sau đó bà chầm chậm xoay đầu lại.”Xin lỗi ông” bà ta thì thào.” Ông đang nói đến việc gì thế! Con trai của tôi…”

“Vâng, tôi hiểu” bác quản lí dịu dàng ngắt lời. “Bà biết không, tôi là thành viên trong nhóm cứu trợ nhà thờ. Hằng tuần chúng tôi đều tổ chức đi thăm bệnh viện, trại tế bần, nhà dưỡng lão, nhà tù…Ở những nơi ấy, có nhiều người sống cần được quan tâm, đa số họ đều yêu thích hoa. Họ còn có thể nhìn ngắm màu sắc và thưởng thức mùi hương của hoa. Còn ngôi mộ này…” bác quản lí đưa mắt về phía ngôi mộ”…không có sự sống trong đó, không có ai nhìn ngắm và thưởng thức nét đẹp và hương thơm của hoa. Vì thế, tôi…” Bác quay mặt đi và tránh cái nhìn của người mẹ sầu khổ, giọng của bác lạc dần rồi tắt hẳn.

Bà mệnh phụ không nói gì cả, mắt đăm đăm nhìn về phía ngôi mộ của cậu con trai. Dường như hằng tiếng đồng hồ đã trôi qua trong bầu không khí lặng lẽ và ngột ngạt ấy. Cuối cùng bà ta khẽ đưa tay ra hiệu, người lái xe cho xe quay trở về phòng tiếp khách của nghĩa trang.

“Mình đã xúc phạm bà ấy,” bác quản lý đưa mắt nhìn theo, lòng thầm nghĩ. “Đúng ra mình không nên nói cho bà ta biết điều ấy.”

Vài tháng sau, bác quản lí nghĩa trang không khỏi ngạc nhiên trước một cuộc viếng thăm bất ngờ và thú vị. Bà mệnh phụ ấy đã tìm đến gặp bác. Lần này không có tài xế, bà ta tự mình lái xe đến nghĩa trang. Bác quản lí không còn tin vào mắt mình nữa.

“Vâng đã nói đúng, ông quản lí thân mến!” Bà Wilson vui vẻ mở lời. “Về chuyện thưởng thức hoa đó mà! Đó chính là lý do tại sao tôi ngưng gởi tiền cho ông suốt mấy tháng vừa qua. Hôm ấy tôi trở về bệnh viện, không thể nào gạt được những lời của ông ra khỏi tâm trí. Sau đó tôi bắt đầu đặt hoa gởi tặng cho các bệnh nhân trong bệnh viện, những người không đựơc ai tặng hoa cả. Tôi cảm thấy vui khi họ yêu thích và thưởng thức chúng – những cánh hoa tươi đẹp đến từ một người hoàn toàn xa lạ. Điều đó đã khiến họ vui và tin tưởng hơn. Nhưng quan trọng hơn cả, điều đó đã làm tôi hạnh phúc và vui với cuộc sống.”

“Không có vị bác sĩ nào hiểu được,” bà ta nheo mắt, “phép lạ nào đã khiến tôi bình phục nhanh đến thế. Chỉ có tôi biết được điều ấy thôi!”



1010

Mar 11, 2006

Đang nghỉ ngơi đó.



Một du khách Anh đến đảo Corse. Ông thấy trên bến cảng một ngư dân trẻ đang nằm trên thuyền câu hút thuốc và nhìn trời. Ngạc nhiên, ông hỏi:
- Tại sao anh không làm việc để có chiếc thuyền thứ hai?
- Để làm gì?
- Với số tiền có được từ con thuyền thứ hai, anh sẽ mua chiếc thứ 3, thứ 4, rồi cả đoàn thuyền.
- Rồi sao nữa?
- Với số tiền có được từ đoàn thuyền, anh có thể nghỉ ngơi.
- Vậy ông xem, tôi đang làm gì đây?
1717

Mar 9, 2006

Truyện ngụ ngôn "Bốn con rắn"







Một ông Vua kia có nuôi bốn con rắn độc. Con thứ nhất tên "Rắn mỏ cây" (Kattha mukha) vì có cái mỏ cứng như cây, mổ đau lại có nọc độc. Rắn thứ nhì tên "Rắn mỏ thúi" (Puti Mukha) vì mỗi lần cắn ai thì thân thể người ấy sình thúi và tan rã ra nước. Thứ ba là "Rắn mỏ lửa"vì ai bị rắn này cắn thì nghe trong mình nóng như bị lửa thiếu đốt đến chết. Thứ tư là "Rắn mỏ khí giới" (Sattha Mukha) vì có răng thật bén, mỗi lần cắn ai thì cũng như dùng khí giới gây tử thương người đó. Vua giao phó việc chăm nom bốn con rắn ấy cho một ông quan cận thần. Khi nào có ai phạm trọng tội thì bị cho rắn cắn. Lúc có chiến tranh thì Vua thả rắn ra diệt trừ quân địch.

Hôm nọ có một tên trộm đáng bị tử tội. Vua truyền đem tội nhân cho rắn cắn. Ông quan dẫn tên tử tội đến chuồng rắn và mở nắp ra. Một trong bốn con rắn bò ra, quấn tay mặt tội nhân và gác đầu bên vai trái. Con thứ nhì quấn mình quanh tay trái và gác đầu lên vai mặt. Con thứ ba quấn ngang bụng. Con thứ tư quấn cổ và gác mỏ lên đầu tên trộm. Bị rắn quấn đầy mình mà anh không tỏ vẻ lo sợ chút nào. Vừa lúc ấy có một vị hiền nhân giàu lòng bác ái đi ngang qua thấy vậy hỏi:

- Anh không sợ chết hay sao?

Anh vừa chỉ rắn vừa đáp:

- Ðây là các vật trang sức của tôi. Tay tôi đeo neo, bụng thắt dây lưng, cổ có kiềng và dây chuyền, đầu lại đội mão.

- Không phải đâu, đó chỉ là bốn con rắn độc.

- Tôi có thấy đâu là rắn độc. Nó có vẻ hiền lành lắm và đeo trên mình tôi thế này là đẹp lắm đấy chớ!

- Bạn nên suy nghĩ lại kỹ càng và hãy bắt đầu lo từ bây giờ. Không nên lãng quên. Một ngày kia một con rắn sẽ bảo bạn đứng dậy nếu không thì nó không chịu. Nếu bạn làm theo thì ba con rắn kia bất bình. Rồi con thứ nhì sẽ bảo bạn đi tới. Rồi con thứ ba bảo bạn nằm, con thứ tư bảo bạn ngồi. Bạn không thể nào thoát khỏi ách nô lệ của chúng nó và bạn luôn luôn bị tai họa.

- Vậy bây giờ tôi phải làm thế nào?

- Bạn hãy lén lén bỏ rắn vào chuồng và mau chạy thoát ra khỏi chốn này.

Tên tội nhân làm y theo lời dạy.

Khi ông quan hay được thì vào triều tâu lại tự sự cho Vua. Vua truyền thả rắn ra rượt theo. Bốn con rắn cố sức chạy theo tên tội. Cùng một lúc ấy vua truyền năm tên binh sĩ theo phụ sức với rắn bắt cho được tên trộm, nếu thành công sẽ được trọng thưởng.

Vua cũng truyền gọi một người bạn chí thân của tội nhân đến dạy phải rượt bắt. Nếu bắt được tội nhân, vua sẽ phong cho làm đại tướng.

Nói về tên trộm, khi thoát ra khỏi chỗ nguy hiểm thì có ý dễ duôi hưởn đãi. Vị hiền nhân xuất hiện và nhắc nhở anh rằng tuy đại nạn vừa thoát khỏi nhưng anh chưa được châu toàn đâu. Hãy cố gắng, cố gắng tìm phương thoát nạn.

Anh vâng lời ráng sức chạy. Ðược một đỗi thì đến một làng nọ. Bụng đói, sức đuối, anh chạy riết vào làng tìm thức ăn và chỗ nghỉ nhưng đó chỉ là một làng bỏ hoang. Trong làng có sáu cái nhà mà nhà nào cũng vắng tanh. Chén dĩa nồi niêu đều trống không. Anh đâm ra chán nản, tìm một gốc cây dựa lưng vào nghỉ.

Vị hiền nhân lại xuất hiện và khuyên anh chớ nên trì hưỡn vì có thêm sáu tướng cướp đang chạy vào làng cùng bắt anh. Anh hoảng sợ bỏ chạy nữa. Một lúc sau anh đến trước một con sông rộng lớn. Từ bờ bên này qua bờ bên kia xa xa có một cù lao, có tất cả ba cù lao. Trong lòng sông, bốn giòng nước lũ gặp nhau xoay tròn thành một cái xoay rộng lớn. Bên kia bờ cỏ cây có vẻ yên tĩnh, nhàn lạc và an toàn. Còn bờ bên này thì chông gai đầy dẫy, phía sau lại có bốn con rắn, năm tên lính, người bạn thân trở mặt và sáu tên cướp đang rượt theo.

Nhưng làm sao qua sông? Không có cầu. Thuyền cũng không. Anh liền tìm cây và dây trong rừng kết lại làm một chiếc bè và hết sức cố gắng dùng cả tay lẫn chân bơi cho bè mau tách xa bờ. Khi đến cù lao thứ nhất anh ngoảnh nhìn lại phía sau thì thấy rắn, lính, người bạn và tướng cướp tất cả đều đến ven sông. Nhìn ra phía trước thấy còn hai cù lao và bờ bên kia. Anh lại nỗ lực bơi riết qua cù lao thứ nhì, thứ ba và rốt cùng đặt chân lên bờ bên kia, trên giải đất an lành tươi đẹp. Anh nghe trong người khoan khoái nhẹ nhàng, sẵn sàng bỏ lại sau lưng chiếc bè và bao nhiêu gian lao nguy khổn.

Bốn con rắn, năm tên lính, người bạn thân và sáu tên cướp biết rằng không thể nào bắt được tên tội nên buồn rầu. kẻ trước người sau, tất cả đều chết.

1228

Mar 8, 2006

Lịch sử và bạn gái



Giáo viên hỏi một nam sinh:

- Sao em không làm bài tập lịch sử?

- Xin lỗi cô, tối hôm qua em đi gặp bạn gái ạ?

- Lịch sử quan trong hay bạn gái quan trọng?

- Thưa cô, nếu em không đi gặp cô ấy thì cô ấy sẽ trở thành lịch sử mất ạ.
1328

Mar 7, 2006

Tán gẫu về xe cộ



Xe dừng hẳn, vợ hỏi chồng:
- Anh yêu, hãy nhìn xem em đỗ xe có xa lề đường quá không?
- Em định nói đến lề bên nào?



Nhìn thấy một chiếc Rolls-Royce lộng lẫy, chồng quay sang vợ tấm tắc:
- Em xem kìa! Xe thế mới gọi là xe chứ!
- Nhưng xe này không đi picnic, không ra rừng ngoại ô được.
- Ôi dào, nếu em đã có tiền mua chiếc xe như vậy, thì người ta sẽ mang cả rừng đến tận nhà cho em.
1782

Mar 6, 2006

Bài Thơ Mùa Thu



Bất chợt mưa về giăng lối
Trời xanh chen với cây xanh
Chiếc lá nào vừa ướm vội
Mùa thu đến đậu trên cành.

Lối cũ vội vàng áo trắng
Em qua tóc gió vờn bay
Sân trường rộn ràng hoa nắng
Niềm vui lan tỏa tháng ngày .

Bé ơi, vào năm học mới
Chân vui bé lại đến trường
Bài thơ mùa thu anh đợi
Gửi theo bé suốt mùa hương.785

Mar 5, 2006

Đẩy sang tỉnh khác



- Tỉnh anh còn hộ đói không?
- Dạ, hết.
- Còn hộ nghèo không?
- Dạ, cũng hết luôn!
- Ủa, làm cách nào mà nhanh vậy?
- Dạ thưa, em... đẩy họ sang tỉnh khác.
2247

Biển Tigôn



     Tôi đã viết nhiều truyện về nước mắm, chẳng phải tôi là người dân xứ nước mắm mà chỉ vì hằng ngày tôi thường ăn nước mắm. Chúng ta dễ quên đi những điều thường ngày. Tôi nghĩ nếu có lần bạn thử không quên và hết sức chú ý đến chúng, điều thường ngày sẽ có khối chuyện hay xảy ra.

      Hàng ngày thay mặt ông chủ, tôi thường liên hệ với các nhà lều sản xuất nước mắm ở Phan Thiết, nhưng đặt chân đến đó thì chưa bao giờ. Sáng nay, bận công việc đột xuất, ông chủ giao tôi theo xe tải từ Đà Lạt xuống Phan Thiết nhận hàng. Hàng của chúng tôi không phải là nước mắm mà là "xác mắm" - loại phân bón tối ưu cho các nhà vườn trồng légumes ở Đà Lạt. Bạn đã bao giờ thấy xác mắm chưa? Đó là xác những con cá nát bấy được vét từ đáy những thùng muối mắm. Thấy xác mắm, bạn sẽ quên nó ngay vì nó chẳng có gì đặc biệt. Nhưng nếu đã ngửi nó một lần trong đời, chắc chắn bạn sẽ không thể nào quên nó được.

      Xe tải đến Phan Thiết lúc hai giờ chiều. Trời nắng gắt. Nhà lều chúng tôi đến lấy xác mắm nằm sát bên bờ sông Mương Mán nhưng không có ngọn gió nào từ mặt sông thổi lên. Tôi lấy khăn lau những giọt mồ hôi lấm tấm trên mặt rồi bước vào văn phòng làm việc. Một người đàn ông tóc đã có những sợi bạc, đeo kính lão, đang ngồi xem sổ sách. Chếch về phía bên phải bàn làm việc của ông, một cô thư ký tóc dài đang ngồi đánh máy chữ lóc cóc. Tôi mỉm cười thầm nghĩ, ông chủ này chịu chơi, tuyển nữ thư ký "nhí" ghê!

      - Chào ông, tôi đại diện cho ông Quang ở Đà Lạt xuống nhận hàng.

      Người đàn ông đứng dậy, vồn vã bắt tay tôi:

      - Mời cậu ngồi. Tôi đã nghe điện thoại ông Quang dặn giao hàng chiều nay. Nhưng tôi gom chưa đủ số lượng. Vậy cậu hãy chịu khó đợi đến sáu giờ chiều, chúng ta sẽ cân hàng và chất lên xe luôn.

      Rồi ông già quay qua cô thư ký "nhí," nói:

      - Con lấy cho ba hai chai nước ngọt.

      Cô thư ký rời bàn máy chữ đi vào nhà trong. Tôi ngạc nhiên hỏi ông chủ:

      - Cô ấy là con gái của ông?

      Ông chủ cười hề hề:

      - Nó là con gái út của tôi. Nó đang học lớp 12 trường Phan Bội Châu. Những lúc rảnh, nó thường phụ giúp tôi đánh máy mớ giấy tờ. Cậu mới xuống Phan Thiết lần đầu?

      - Dạ phải.

      - Vậy trong khi chờ đợi nhận hàng. Tôi sẽ nói con gái tôi dẫn cậu đi coi phố xá hay đi tắm biển.

      - Cám ơn ông. Tôi thích tắm biển hơn, vì ở Đà Lạt chỉ có hồ với thác, không bơi lội được.

      Cô bé bưng ra hai ly nước đá và hai chai nước ngọt để xuống bàn. Ông chủ nói:

      - Ba phải đi lo giấy tờ chuyên chở hàng kẻo chiều tối công sở họ nghỉ việc. Con thay ba dẫn ông khách đây đi tắm biển, ông ấy mới ở Đà Lạt xuống chưa biết biển Phan Thiết nằm ở đâu.

      Cô bé quay qua nhìn tôi. Tôi cố gắng nở nụ cười thật tươi để em không từ chối. Và may mắn thay, cô bé đã gật đầu.

      Uống một hớp nước ngọt, ông chủ nói:

      - Cậu đi tắm biển vui vẻ nghe. Sáu giờ chiều mời cậu về đây ăn bữa cơm gia đình rồi chúng ta cùng cân hàng.

      Ông cầm túi xách đứng dậy, dắt chiếc xe Honda đỏ ra khỏi nhà. Cô bé hỏi tôi:

      - Ông có biết bơi không?

      - Em hỏi làm chi?

      - Để em biết nên dẫn ông đến chỗ bãi biển cạn hay sâu.

      - Tôi sợ chết đuối lắm. Em dắt tôi đến chỗ nào nước sâu đến... trái tim là được.

      Cô bé mỉm cười đi vào nhà trong sửa soạn. Tôi đi ra chỗ xe tải đậu, nói tài xế đợi đến sáu giờ chiều mới nhận hàng. Tôi với lấy túi xách có đựng quần tắm và khăn lông, tôi đã dự trù mang theo từ Đà Lạt xuống đây đợi có dịp là đi tắm biển bơi lội cho thỏa thích.

      Một lát sau cô bé chạy chiếc xe cúp màu xanh rêu đến bên chiếc xe tải. Tôi vội nhảy lên ngồi ở yên sau. Cô bé tắt máy xe, bước xuống:

      - Ngồi vậy kỳ chết. Ông ngồi trước lái xe đi.

      - Nhưng tôi đâu có rành đường. Chạy lạc thì sao?

      - Ông khỏi lo, em ngồi sau chỉ đường cho ông.

      - Trời đất! Đâu có ai ngồi sau mà "chỉ đạo" được người ngồi trước.

      - Có chứ. Mấy ông "sếp" thường ngồi ghế sau xe hơi chỉ đạo cho tài xế ngồi ghế trước.

      Tôi nhăn mặt ngồi lên yên trước, đạp máy xe nổ. Cô bé ngồi xuống yên sau, vỗ nhẹ vào vai tôi:

      - Ông cho xe quay lại.

      Theo sự hướng dẫn của cô bé, tôi cho xe chạy lòng vòng qua một vài đường phố chính. Thành phố này chưa xây dựng nhiều nhà mới. Những ngôi nhà cũ kỹ được quét lớp vôi mới nhưng những mái ngói vẫn để nguyên màu nâu đen. Xe chạy qua một cây cầu mới xây ra ngoại ô. Hai bên đường, nhà cửa cũng còn mới được xây dựng nên mái ngói còn đỏ tươi. Qua một đoạn đường đầy ổ gà, xe bắt đầu leo dốc lên một đỉnh đồi. Vừa lên đến đỉnh đồi, cô bé vỗ vai tôi.

      - Dừng lại.

      Tôi thở phào hỏi:

      - Đến rồi hả?

      - Đến rồi.

      Tôi lái xe vào một chỗ trống, tắt máy, đứng nhìn quanh. Trời đất! Biển xanh thẳùm ở tuốc phía xa dưới chân đồi. Trên sườn đồi cây cỏ dại mọc tùm lum không thể chạy xe được. Nếu muốn tắm biển phải đẩy xe xuống dưới đó rồi lại đẩy xe lên, chắc tôi sẽ bị "xụm bà chè."Trong khi tôi đang phân vân có nên tắm biển hay không thì cô bé lấy sợi thun cột mái tóc đang bị gió thổi bay tung lên. Em hỏi:

      - Ông có biết ông đang đứng ở đâu không?

      Tôi nhìn xuống chân mình, quan sát kỹ lưỡng rồi trả lời:

      - Tôi đang đứng trên vùng đất pha đá.

      Cô bé lắc đầu:

      - Ông đang đứng trên nền Lầu Ông Hoàng được người Pháp xây dựng từ năm 1920 và bị sụp đổ năm 1945. Địa danh này nổi tiếng với chuyện tình của thi sĩ Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm.

      Nóng mũi vì thấy kiến thức của mình thua cô học trò lớp 12, tôi nói gắt:

      - Tôi không cần biết Ông Hoàng là ai. Tôi cũng không cần biết thi sĩ Hàn Mặc Tử yêu ai. Tôi chỉ biết tôi đang yêu...

      - Ông yêu ai?

      - Yêu... xác mắm.

      Cô bé lững thững bỏ đi vào một vùng cây leo bò xanh rì mặt đất và nổi bật lên những chùm hoa đỏ hồng. Sợ cô bé bị rắn cắn hay bò cạp chích, tôi vội đi theo em để xem nếu có chuyện gì xảy ra, tôi sẽ về báo cáo với ba em thật chính xác: em bị rắn nào cắn hay bị loại bò cạp nào chích. Chứ nói vu vơ ba em sẽ coi thường tôi thiếu óc quan sát thực tế.

      Cô bé dừng lại bứt một bó hoa đỏ hồng rồi quay lại hỏi tôi:

      - Ông có biết hoa này tên gì không?

      Tôi lắc đầu:

      - Ở Đà Lạt tôi chỉ rành tên các loại rau củ, còn tên hoa thì chịu thua.

      - Đây là hoa Tigôn, được người Pháp đem qua trồng ở Lầu Ông Hoàng. Lâu đài đã sụp đổ nhưng loài hoa vẫn còn. Thi sĩ T.T.Kh đã tả "Hoa dáng như tim vỡ" ông thấy đúng không?

      - Không. Tôi thấy nó giống đầu con cá cơm bị vỡ khi làm mắm.

      Cô bé thở dài:

      - Đầu óc ông không biết mơ mộng.

      - Em thông cảm cho tôi. Một người buôn bán xác mắm mà mơ mộng thì xác mắm sẽ "thơm lựng," bán không được thì tôi sẽ bị chết đói.

      Cô bé trao bó hoa đỏ hồng cho tôi:

      - Em tặng ông.

      Tôi cầm lấy bó hoa thắc mắc hỏi:

      - Em nói "Hoa dáng như tim vỡ." Vậy em tặng tôi loài hoa này làm chi? Tim tôi đâu đã... vỡ.

      - Em tặng ông để cảnh giác ông đừng làm vỡ trái tim.

      - Bộ tôi khùng rồi sao mà tự làm vỡ tim mình?

      - Nhưng ông có thể làm vỡ tim người khác vì không biết mơ mộng.

      Nghe cô bé nói nhức đầu quá, tôi đề nghị:

      - Chúng ta hãy tìm chỗ gửi xe rồi đi bộ xuống dưới kia tắm biển.

      - Chúng ta đã tắm biển rồi thôi.

      Tôi trố mắt nhìn em:

      - Chúng ta tắm biển hồi nào đâu?

      Cô bé cười, vòng tay chỉ quanh mình:

      - Ông không thấy chúng ta đang tắm trong biển hoa Tigôn sao? Tắm ở đây ông không sợ chết đuối vì hoa Tigôn chỉ mọc cao đến tim ông. Thôi trời sắp tối rồi, chúng ta hãy về kẻo ba em đợi cơm.

      Cơm nước xong, chúng tôi bắt đầu cân những bao lát chứa xác mắm chất lên xe tải. Mãi đến tám giờ tối công việc mới hoàn tất. Xe nổ máy, tôi bắt tay chào ông chủ rồi leo lên xe ngồi bên tài xế. Tôi vừa đóng mạnh cửa xe lại thì cô bé chạy đến, trao qua khung cửa xe bó hoa Tigôn.

      - Ông để quên cái này.

      - Cám ơn em. Mong có dịp chúng ta sẽ lại cùng nhau đi tắm biển Tigôn.

      Xe chạy. Tôi buồn buồn nhìn bó hoa đỏ hồng. Tôi tưởng em sẽ đổi ý tặng tôi một lít nước mắm nhĩ loại đặc biệt hay một ký khô mực loại xuất khẩu để làm quà kỷ niệm, nào ngờ vẫn chỉ là bó hoa Tigôn.

      Xe chở xác mắm sẽ chạy suốt đêm để tảng sáng có thể giao hàng cho các chủ vườn légumes ở Đà Lạt. Thật kỳ lạ, khi xe chạy qua chỗ nào, những người đứng hai bên đường đều bịt mũi. Vậy mà tôi ngồi ngay trong xe lại ngửi thấy một mùi hương rất dễ chịu. Phải chăng hương hoa Tigôn đã át mùi xác mắm? Hay tại tôi đã biết... mơ mộng?
287

Chuyến Du Lịch Khó Quên



Chỉ còn có hơn tuần lễ nữa là vợ chồng chúng tôi du lịch sang Cuba, thế mà hầu như ngày nào, các con tôi cũng thay nhau phone về nhà, cằn nhằn cha mẹ,
Bộ bố mẹ không biết Cuba là xứ cộng sảo sao?
Bộ hết chỗ du lịch rồi hay sao mà bố mẹ lại chọn Cuba,?
Bố mẹ ham giá rẻ ?
Bố mẹ đổi vé đi Caribbean đi…..………
chúng nó làm tôi nản chí quá chừng, …nhưng chồng tôi thì không nao núng chút nào hết, có lẽ vì bản chất từ xưa đã thích mạo hiểm, nên chàng cứ tỉnh bơ và chàng đã muốn là “cọp” muốn……… ngày ra đi, chúng tôi lái xe ra phi trường Toronto gửi xe ở gần đó …..và lên máy bay , chuyến Canada 3000 chật ních đầy người, không còn một chỗ trống, tôi cũng lấy làm lạ, sao thiên hạ đi Cuba đông thế nhỉ? Và cũng cảm thấy yên lòng đôi chút, nhưng bản tính hay lo nên tôi quan sát những người chung quanh , và lại thắc mắc ghé tai chồng tôi hỏi nhỏ :
Anh ơi, sao không thấy có người á đông trên chuyến này, toàn là người da trắng….
Chồng tôi gạt đi : Vớ vẩn vừa vừa chứ “ bà cố ”……, …enjoy quyển truyện của bà đi. Tôi im ngay vì tôi biết , chồng tôi đã gọi tôi là “ bà cố “tức là chàng sắp bực mình rồi đấy , thế là tôi đành chú ý đến quyển truyện mà tôi đem theo, tôi đọc liên tục , thỉnh thoảng nhắm mắt lại và relax một chút cho khỏi mỏi cái mắt .Mãi cho đến khi tiếng cô chiêu đãi viên hàng không nhắc nhở seat belt thì tôi mới ngừng đọc. À, thì ra máy bay đã đến phi trường Holguin.
Em ơi, nhìn xem , tôi nhìn ra phía cửa sổ, chỉ thấy đồng không mông quạnh, …..xa xa một mái nhà thấp lè tè, có vẻ đơn sơ tựa như mái nhà bằng tôn , hoặc bằng lá………….
Lúc này ý nghĩ lo lắng lại trở về với tôi, nhưng không còn thì giờ suy nghĩ nữa , nhanh tay lấy cái xách tay ,check lại chỗ ngồi và chuẩn bị rời máy bay.
Chưa ra khỏi máy bay , mà tôi đã thấy cái không khí nóng bức, ẩm thấp làm tôi khó chịu, tôi ngơ ngác theo đoàn người đi trước vào một gian nhà , đó là một gian nhà lớn hai tầng lầu ……chỉ có một chuyến máy bay đáp xuống mà cái gian nhà này đã chật chội như vầy, nếu vài chuyến đáp cùng giờ thì sẽ như thế nào nữa……Tôi hỏi nhỏ chồng tôi :
Sân bay đây hả? Sao mình sắp hàng làm gì ở đây? Hành lý lấy ở chỗ nào?
Chồng tôi đáp: Trình giấy trước đã, thủ tục xong thì sẽ qua bên kia lấy hành lý.
Tôi nhìn quanh quẩn thấy những người mặc đồng phục ,trông như công an và những người có phận sự, đứng hầu như rải rác khắp nơi, người nào cũng lạnh lùng, im lặng và có vẻ đang quan sát.
Tâm trạng tôi lại trở về lo âu như trước, nhất là lúc đến phiên chúng tôi, chồng tôi bảo :
Ðể anh vào trước, anh trình giấy và bảo họ ,vợ chồng mình đi chung. Tôi lại càng không hiểu.
Tại sao, em và anh không vào trình giấy chung một lượt .? ……
không được, luật của họ là từng nguời một,
Rồi đến lượt chồng tôi vào, chồng tôi vừa bước vào trong là cánh cửa khép lại, tôi chỉ còn thấy đôi chân chồng tôi , tôi đứng sắp hàng mà lòng lo âu, coi chừng bị hỏi lôi thôi và lại lòi ra cái đuôi trốn cộng sản Việt Nam……và một thoáng nghĩ đến lời các con tôi dặn, "hễ có chuyện gì là cố gắng cho tụi con biết tin ngay " tôi ngơ ngác kiếm cái phone công cộng, mà chẳng thấy chỗ nào có, mà hễ tôi nhìn đâu thì tôi cảm thấy như công an đang nhìn tôi……rồi vài phút trôi qua,…
Ðến lượt tôi, tôi vừa vào và cánh cửa khép lại sau lưng, lúc đó tôi không còn thấy chồng tôi đâu hết mà chỉ thấy tôi và tên công an Cuba, tôi cố gắng bình tĩnh ,mỉm cười chào nó, bằng tiếng Spanish đã học lóm được trước khi đi, “OH la.”
Nó cũng mỉm cười và chào tôi "Hi."…
Nó xem giấy tờ tôi không lâu như xem cho chồng tôi, trong lúc nó biên giấy tờ , tôi quan sát,chỗ tôi đứng , có gương phía sau lưng trên cao , để tên công an có thể quan sát từ đầu đến chân tôi, ….. và tôi được mở cửa bước ra ngoài, tôi gặp chồng tôi đứng chờ đấy, tôi thở phào nhẹ nhõm. Chúng tôi lấy hành lý, lên xe bus để về resorts mà chúng tôi đã book . Trời bắt đầu nhá nhem tối, tôi nhìn chung quanh phi trường của island này , sao mà nhỏ quá, chỉ có thế là hết, tôi lại thì thầm vào tai chồng tôi, chắc không có người Việt Nam nào bay sang Cuba,
chồng tôi trả lời: Có chứ, em không nhớ Lý Tống sao? tôi sực nhớ, tôi kêu lên , nếu anh nhắc đến Lý Tống từ lúc ở nhà là không bao giờ em qua đây.
Chồng tôi bật cười trấn an tôi : Lý Tống khác, mình khác, mình đâu có liên hệ gì đến LT. ( tôi không rành về chính trị nhưng cũng lờ mờ nghe về Lý Tống bay qua Cuba rải truyền đơn chống cộng ….)
Con đường từ sân bay về đến resorts chỉ có 50km , mà tôi cảm thấy như xa lắm, đường đi dằn sóc, tối om, không môt ánh đèn đường, nhìn kỹ hai bên là rừng , hoặc đất bỏ hoang, cây cối có vẻ như khô héo, xa xa có một mái nhà , trông như mái nhà tranh, với ngọn đèn dầu leo lét, trời ơi, sao mà buồn bã ảm đạm, phải chi đây là Việt Nam quê hương tôi , thì tôi còn cảm thấy an ủi một chút, mà hình như cả xe cũng cảm thấy như vậy nên cái không khí trong xe như ngột ngạt, im lặng không một tiếng động , thỉnh thoảng xe ngừng lại, mọi người lại xì xào hỏi nhau,
Sao vậy? …..thì ra con đường quá nhỏ nên , mỗi lần có xe đi nguợc chiều, là tái xế phải rà xe lại , nép sát vào ,chờ cho chiếc xe đi ngược chiều qua , sau cùng chúng tôi cũng đến resource.
Chưa quẹo vào cái cổng riêng biệt , tôi đã nghe mọi người xôn xao mừng rỡ, …Cái cổng có hàng chữ bằng đèn “ Breezes costa verde, Super clubs” đèn sáng choang tôi có cảm tưởng như vào thiên đàng vậy,( có lẽ từ nảy giờ tôi đã lo sợ và có ấn tượng xấu về cuộc du lịch nên bây giờ khi nhìn thấy một nơi đầy ánh sáng tôi tưởng đến thiên đàng,)

Xuống xe đã có nhiều người Cuba ăn mặc đồng phục, đó là người của resorts này, họ nói rành tiếng Anh, họ niềm nở chào hỏi và giúp du khách mang hành lý vào ,chúng tôi chỉ chờ lấy chìa khóa phòng nữa là xong, vào phòng , tôi quan sát …..phòng rộng rãi đủ tiện nghi, và tất cả cái gì cũng delux , từ washroom cho đến bàn ghế trong phòng , tôi rất hài lòng , tôi mở cửa ra balcon , làn gió mát mẻ lùa vào tóc tôi, rồi mùi hoa thơm, cỏ lạ làm tôi sảng khoái, tôi nhìn ra xa xa, sau những rặng cây ,mặc dù trời đã tối đen , tôi cũng đoán ….. hình như là biển, đúng rồi vì tôi đã nghe tiếng sóng biển rì rào, nhè nhẹ vỗ vào bờ, …….
Em ơí ! lẹ lên, thay quần áo xuống hồ bơi trước, rồi ăn sau, trước khi ra khỏi phòng , anh còn xem lại bản đồ chỉ dẫn để biết chỗ nào là ,lobby, chỗ ăn , hồ bơi, …..
Hồ nước trong veo với nhiều ngọn đèn sáng , chúng tôi bơi bên hồ mát rồi qua hồ ấm, tôi thả ngửa , relax, nhìn bầu trời đầy sao, niềm lo âu mệt mỏi trong tôi tan biến đâu mất,…. rồi tôi ch270

Mar 4, 2006

Hoa bìm biển





Ông Thái sắp vào Sài Gòn. Những năm mới nghỉ hưu, ông Thái cũng hay đi. Khi Hải Phòng, khi Nam Định. Hồi ấy các quốc doanh, các loại hợp tác xã mở tới tấp người ta cần đến nghề kế toán, tài vụ của ông. Tay nghề đã ngồi xó của ông Thái đâm ra còn dùng được. Lắm nơi sổ sách chồng chất, vài ba tháng lại tìm nhờ ông. Nào quyết toán, nào dự chi, những con số ma.

Ông Thái cũng chưa được vào Nam lần nào, từ khi thống nhất. Ông Thái chưa trông tận mắt cái máy bay bao giờ.

Nhưng làm như đã quen, rất thường. Ông Thái nói: "Trong Nam người ta thoáng lắm. Máy bay hay tàu hỏa thì ăn nhằm vào đâu!".

Ông Thái nói hách thế, nhưng cũng không gợi ai tò mò. Ông Thái nói, ông Thái đi đâu cũng chẳng khác ông ngồi ở cái cửa sổ tầng bốn, cả ngày đăm đăm ngóng ra.

Ông Thái đi Sài Gòn. Viết thế này, còn có thể đọc được, nhưng ngồi nghe ông kể, chắc chẳng ai tin. Một hôm, ông Thái nhận ra ngay thư của người con gái bốn mươi lăm năm trước, tên là Vân.

"Kính gởi ông Thới... Tôi có một người bạn thân kể là ngày xưa quen ông. Bạn tôi có ý tìm ông từ khi mới giải phóng, có nhiều người kháng chiến về Sài Gòn. Nhưng không biết hỏi ai. Rồi cũng lại ngại, bởi vì đã bao nhiêu nước chảy qua cầu, cây đa bến cũ chẳng còn như xưa. éã quên đi, nhưng rồi lại mong. Vậy cận trạng ông ra sao, gia đình khang an thế nào...".

Chữ ký loằng ngoằng cuối thư. Đàn bà là chúa hay vô ý. Ngày ấy, chỉ Vân gọi mình là Thới. "Muốn lấy vợ Nam Kỳ phải kêu là Thới. Thái, Thái nghe kỳ muốn chết". Thì còn "người bạn thân" nào nữa. Hay là sợ quên nhau, nhắc khéo. Ôi chao!

Ông Thái trả lời, đề thẳng kính gửi bà Huỳnh Thị Vân. Rồi nhận được một thư dài, giấy xanh, khổ giấy như trước kia. Trong thư, Vân nói mừng lắm, mừng anh vẫn nhớ chữ em. Ông Thái buồn cười vì cô ấy vờ như đánh tam cúc lại để hở bài cho người ta xem.

Rồi thư từ qua lại, hai người kể hoàn cảnh của nhau. Bà Vân lấy chồng người Ấn Độ, có cửa hiệu tơ lụa. Sau khi Tây thua ở éiện Biên Phủ, vợ chồng rời Sài Gòn, nhưng không về Bombay, mà sang Mỹ. Bốn đứa con đều có chồng, có vợ, ở riêng cả. Chồng bà mất đã lâu.

Bà Vân gửi ảnh cho ông Thái và bảo ông cho bà một cái mới chụp. Ông Thái đã không thể nhận ra bà nếu không có dòng chữ đề tặng. Trong hình, một bà già tóc cúp ngắn chấm tai - mốt của các bà đứng tuổi ở châu Âu bây giờ. ờ, mình bảy mươi ba thì Vân bảy mươi mốt rồi. "Em phải uống thuốc tiêu mỡ. Tụt cân nhiều đấy. Nay còn 92". Cái cô Vân học trò trường bà sơ Bồ Câu Trắng ở Sài Gòn, ngày xưa mảnh mai như liễu, tớ nhấc bổng lên được cơ mà.

Cụ Thái lặng lẽ đốt cái ảnh. Cụ cũng không gửi ảnh của cụ. Không phải vì cụ bà hay con cháu tọc mạch. Mà cái ảnh bà Vân kia lạnh ngắt, chẳng một nét nào bận đến cụ.

Một ngày kia, ông Thái nhận được một lá thư rất hay của bà Vân. Thế nào mà cái ông lão hàng ngày ngồi rù rù, người trong nhà đã quen mắt, như nhìn chỗ để xe đạp, cái ghế, cái tủ thuốc. Nhưng ông lão tự thấy khác. Ông thấy ông vẫn sống, mà sống có lửa, ngọn lửa tình đương bốc trong ông. Thư bà Vân hẹn ông tháng ấy ngày ấy ông vào Sài Gòn gặp bà. Cái hẹn còn xa, nhưng đích xác là ngày tháng thế.

Và tấm ngân phiếu bà Vân gửi cũng khiến ông nghĩ. Số tiền đủ mua một vé máy bay khứ hồi. Bà ấy gửi vừa khẳm. Thế này là thế nào? Thế nào nữa, bà ấy tặng mình tiền tàu xe. Ta là cán bộ, theo kháng chiến cả đời đến tóc rụng, răng rụng rồi, chứ mình đâu phải người nhà người ta ngồi hóng của.

Đánh giá nhau hay lắm, phải lắm. Nhưng ông Thái cũng không nghĩ thế được lâu. Giá bà ấy cứ gửi nhiều nhiều một chút cũng hay... Không được, thế là coi nhau chẳng ra gì. Bà ấy trọng mình, phải trọng mình chứ.

Chuyện ông đi kháng chiến kể ra cũng vừa bình thường, lại cũng khúc khuỷu như mối tình này. Nếu ngày ấy quân Nhật không chiếm Đông Dương, tàu hỏa vẫn thông thương bắc nam, có khi ông đã lấy bà ấy rồi cũng nên. Nói "có khi", bởi hai người chỉ là trai gái lứa tuổi không dưng gặp nhau. Vân ở Sa Đéc, nhà gửi lên Sài Gòn học. Thái làm công nhật cho một hiệu thuốc hoa liễu với các thứ cao đan hoàn tán ở Hà Nội chuyên đi quảng cáo và tính sổ cho đại lý các tỉnh.

Khi bắt đầu kháng chiến, ông Thái đương làm kế toán cho một hãng bảo hiểm nhân thọ ở Hải Phòng. Ông có việc lên Hà Nội. Đêm ấy nổ súng. Thế là nghẽn lại. Vợ ông và đứa con trai bị kẹt dưới Hải Phòng. Ông theo người ta tản cư ra vùng tự do, rồi vào làm cơ quan, vẫn nghề kế toán. éến tuổi, ông về hưu. Thằng con đỗ kỹ sư đã đi làm. Nó hay nói đùa láo lếu như nhiều người bây giờ: "Giá ngày ấy bố bị Tây bắt đi tù ít lâu, có phải đã làm quan to, lương hưu khá hơn không". Ông không thèm nói lại. Bây giờ và trước kia khác nhau lắm. Khác nhau cả cách nhìn cái ghế. Mà ông thì già rồi. Cháu ông mua về bốn chiếc ghế đẩu. Ông nhận ngay ra là gỗ nhội, đồ dởm. Dạo cơ quan tránh máy bay Mỹ sơ tán về Bùng, ông thấy người làng đi vác về những cây nhội mới hạ ở đường Sơn Tây mở rộng, đem ném xuống ao ngâm. Vài hôm, vớt lên cưa từng khoanh rồi đẽo thành thớt, đánh bóng đỏ sẫm. Mấy ngày áp tết quảy ra bán ngoài phố - tết nhất, nhiều nhà sắm cái thớt mới. Vô ý vớ phải cái thớt gỗ tươi ấy chỉ thái mạnh vài nhát dao, đã toác. Trông cái gỗ bủng nước, biết ngay. Nhưng thằng cháu ông cười như reo lên: "Không cần gỗ lim, gỗ lát. Chỉ cần kiểu mô đéc, giường Đức, ghế Nhật, hỏng thì mua cái khác, mốt khác. Thời buổi gấp gáp, ông ạ".

Có lẽ chúng nó phải. Người cao tuổi như mình, bàn chân cũng khô đét, giày dép thôi cả long đinh, há mõm. áo sơ mi, bao nhiêu năm nay chẳng phải may sắm. Không biết ngoài cửa sổ, các ve cổ áo sơ mi đã to huếch hoác, lại cụp lại, lại hủn hoẳn, nhỏ tý...

Ông Thái đi Sài Gòn, quần áo và đôi dép râu cũng vậy như mọi khi. Ông không định khác. Không thiếu thốn, mà quen xuềnh xoàng rồi. Nhưng có lẽ nên đi lắp mấy cái răng giả. Răng hàm chẳng còn cái nào. Nhưng cười huếch mép cũng không hở. Chỉ rầy rà mấy lỗ hỏng răng cửa hàm trên. Soi gương, thấy phiền thật. Nhưng rồi ông lại ngại.
Những cái răng đã gãy từ đời nảo, đời nào. Bà ấy cho là ông phát rồ hay sao, tự dưng lại đi làm răng giả.

Ông Thái không lo bà ấy sinh nghi. Nhưng ông tưởng tượng ra một sự kỳ quặc, có thể xảy ra lắm. Thế nào thì ông Thái cũng phải hôn bà Vân. Chao ôi, những cái hôn triền miên đầm đìa đêm xưa bên sông Sài Gòn. Bây giờ mà thế a, nhỡ những cái răng giả rời ra, rơi vào họng ai. Chẳng lẽ lại bảo hãy khoan để tháo răng ra đã, rồi hãy...

Thôi thôi, đã mộc mạc thì thế nào cứ thế. Cái hẹn tháng bảy dần dà tới... Ông Thái cứ lúc bồng bột, lúc lại thây kệ. Nghĩ toàn chuyện cản trở. Ngót hai tháng thư mới tới nơi, thì tin thế nào được ngày hẹn quá xa. Nhưng sự thật như cái đinh tai ác cứ nhô lên dần. Sắp tới rồi. Ông lại nghĩ ầm ừa: Hôm ấy mình cứ bay vào à? Không có bà ấy ra đón thì sao. Ông cũng có người quen, nhưng thình lình dò đến nhà người ta, không tiện...

Rồi ông Thái nhận được một bức điện.

Rồi cháu gái đón ông ở sân bay Tân Sơn Nhất. Bây giờ cháu đương đưa ông về nhà. Không đến khách sạn, nhà trọ. Cũng đỡ rắc rối.

Căn nhà nhỏ trong một hẻm sâu hun hút. Những hình ảnh lảng vảng, ông Thái như lững lờ trôi trong đám mây.

Năm xưa, ông Thái gặp bà Vân ở Sa Đéc. Thầy ký công nhật đi tính sổ đại lý. Thị xã nhỏ bé, Thái dạo qua một cửa hiệu vàng bạc. Thấy trong hàng có một cô gái ngồi bên máy khâu. ở Nam Kỳ hồi ấy, mỗi nhà sắm cái máy khâu Sanhde cũng là một lối chơi. Cô gái xinh quá, đúng dáng những người đẹp mẫu của Thái. Tuổi trẻ đâu cũng xông, thế là Thái bước vào. Cô gái vào nhà trong một thoáng rồi ra ngay. Người con trai đã kịp nhận thấy cô mới thay tấm quần lụa trắng muốt. Anh chàng gà trống tơ nghĩ vơ vào rằng thế là ăn tiền rồi.

*

Ông Thái nhìn qua cửa sổ mở. Bà Vân hệt tấm ảnh bán thân nhận được năm trước. Có điều khác, đây là người thật, một bà lão khỏe mạnh, to đùng. Hình như bà Vân đang dở tay làm gì, nhắc cái phích hay bày ấm chén. Bà chưa vội ra mở cửa. Nhận xét đầu tiên ấy khiến ông Thái buồn buồn. Chỉ đến lúc thoáng thấy bóng mình lù rù chiếc mũ cối như cái mu rùa trên đầu, hôm đi ông mượn của thằng cháu, ông mới nguôi ngoai và lại hơi ngượng.

Bà Vân nhìn ông, chào ông một câu đột ngột:

- Anh ốm quá!

Ông Thái đã sắp sẵn một câu đùa tình tứ. "Em trẻ, em trẻ lắm". Nhưng bị một câu phủ đầu mất vui, lại nhớ cái răng cửa hổng, ông Thái chỉ mỉm cười.

Chẳng mấy lúc, cũng may, ông Thái đã cảm thấy như ở nhà nhà mình thương yêu êm ấm, không phải căn hộ tẻ nhạt ở ngoài kia bây giờ. Bà Vân và cháu gái lên xuống dọn mâm bát. Nhớ lần về chơi nhà Vân dưới Sa Đéc. Cả nhà vờn vỡ, phong tục Nam Kỳ sao mà đáng yêu. Ông Thái đương trở lại cái gia đình tưởng tượng, hai người yên vui về già.

Bức tranh vẽ rồi lại xóa, lại vẽ, lúc hồng rực, lúc đen nhẻm. Ông Năm lấy trong tủ ra chai rượu ngâm thuốc. Ông Thái cười. Đã quen, không còn ngại hàm răng trống.

- Rượu thuốc à?

- Sâm em mua ở Băng Cốc về biếu anh Năm ngâm.

- Có bia hơi...

Bà Vân nhăn mũi:

- Bia hại thận, nghe. Rượu thuốc...

Ông Thái im, chợt lại thiu thỉu như mọi khi ở nhà.

Nhưng ông Thái với bà Vân cũng có phút giây mơ màng.

Bà Vân bảo: - Chúng ta đi vườn Bờ Rô.

Nhớ lúc nãy ngoài đường, xe máy liên hồi tạt qua mặt, ông ngại:

- Làm gì?

- Ôi anh quên trọi rồi sao! Cái năm hội chợ Sài Gòn, đêm hôm đó chơi vườn Bờ Rô.

Ông Thái lúng túng vì câu trách yêu. Ông Năm ở buồng trong góp chuyện ra.

- Bộ cô Ba tưởng vẫn cái vườn Bờ Rô năm cô Ba ở Sài Gòn à? Không đâu. Bây giờ vườn Bờ Rô, vườn Chuối loạn dữ, nhất là ban đêm. Không đi dạo được đâu.

Ông Năm gỡ cho ông Thái một cuộc đi chơi không hào hứng. Nhưng câu chuyện bên bàn nước vẫn lai rai. Tiếng mưa xầm xập xuống mái tôn nhà nào xung quanh, chẳng biết là đương ở đâu. Trời cũng giúp làm nhạt cái kỷ niệm vườn Bờ Rô rồi.

- Ngày mai đi Vũng Tàu.

- Vũng Tàu à?

- Trước em định nghỉ Long Hải. Nghe nói bên ấy yên tĩnh. Nhưng anh Năm nói Long Hải vắng lắm. ở Vũng Tàu hơn. Anh Năm với các cháu cũng đi.

- Cả nhà cùng đi cho vui.

Bà Vân cười:

- Không, anh Năm không đi chơi. Anh biểu anh Thới là cán bộ cách mạng, phải bảo vệ ảnh, không được lơ là cảnh giác. Ông nói như đọc báo vậy.

- Bảo vệ tôi à?

- Anh Năm biểu thế.

Ông Thái vừa buồn cười, vừa nhớ ra. Nhưng lại thú vị. Ông đã trông thấy ở Hà Nội những cán bộ có người bảo vệ. Ông cán bộ đi bách bộ cũng có người đeo súng ngắn sau lưng áo, đi cạnh. Ông cán bộ may ô quần đùi mặt đỏ lựng chạy tập thể dục buổi sáng bên bờ hồ, có hai thanh niên áo đại cán trịnh trọng, vẫn súng giắt lưng, lõng thõng chạy hai bên. Ông Thái như con kiến, ông muốn bò đi đâu thì đi. Bây giờ nghe có người nói đi bảo vệ ông. Cũng sướng.

Bà Vân nhìn ông Thái, nheo mắt, tinh nghịch:

- Nhưng mà anh Năm không đi nữa!

Ông Thái cũng rỡn:

- Không phải bảo vệ à?

- Em bảo anh Năm là ra Vũng Tàu ở khách sạn, ở boong-ga-lô mới lo bảo vệ, chứ ở chùa thì thôi, cửa Phật mà. Anh Năm thấy thế ưng được.

Rồi bà Vân lại cười:

- Có vậy mới được đi đôi!

Không biết bà Vân mừng thật hay chỉ là nói đùa. éột nhiên, bà Vân nói:

- Anh có còn nhớ chị Hậu không?

- Chị Hậu...

- Có lần anh vô Sài Gòn, em ra ga xe lửa Mỹ đón, có chị Hậu...

Thật ông Thái đã nhớ ra. Không những thế, ông Thái còn đương bấn trong đầu khi nghe đến tên người đàn bà ấy. Những liều lĩnh của tuổi trẻ thì vô vàn, nhưng đã nguội lạnh, xếp xó trong ký ức từ nửa thế kỷ rồi.

Vân trọ học nhà Hậu. Hậu hơn tuổi Vân, ở nhà giúp tiệm may của mẹ. Hậu theo Vân ra ga để "ngó mặt thằng Hai". Hậu chưa biết Thái. Nhưng Thái thoạt trông thấy Hậu đã cảm giác gờn gợn kỳ lạ. éôi mắt bồ câu lóng lánh đằm như làn nước muốn hút người ta trầm mình vào. Cô Hậu nhìn Thái. Thái đoán được đôi mắt ấy nói gì.

Đêm ấy, Thái nghỉ lại nhà Hậu. Mai, Vân và Thái về Sa ééc sớm. Thái nằm ngoài phòng khách. Vân và Hậu ngủ buồng cạnh đấy, cái giường to kề bên cửa sổ. Nửa đêm, chợt tỉnh, trời vẫn xầm xập mưa như đêm nay thế này.

Thái tha thiết nhớ hai con mắt Hậu. Thái lần ra, thò tay vào màn, mà Thái đã để ý, biết Hậu nằm cạnh cửa màn. Tay Thái vừa đụng vào cánh tay Hậu, thì một bàn tay ai nắm lấy, vuốt từ từ lên mặt Thái. Cái hôn dài vùi vào nhau, tưởng như hai làn môi không bao giờ rời ra được nữa.

Sáng hôm sau, đôi mắt Hậu khác hẳn, lay láy long lanh quang đãng như trời mưa tạnh. Rồi Thái và Vân về Sa ééc. Đến hôm lên đường ra Hà Nội không tạt được vào nhà Hậu. Người trai đào hoa không quên, nhưng cũng chẳng nhớ hơn nữa. Từ đấy, không khi nào còn gặp lại.

Ông Thái hỏi:

- Thế chị Hậu rồi sau ra sao? Giờ ở đâu?

- Cũng chẳng lấy ai!

Người đàn ông đam mê ngày trước chợt bồi hồi vu vơ. Bây giờ lòng yêu thành nỗi bùi ngùi cho ai có lẽ vẫn chờ mình từ sau đêm ấy, mà mình thì đương nhắm nhía cái đau của người ta.

- Rồi thế nào....

- Chị ấy đi tu.

- Cái năm em sang Mỹ, em có xuống chùa chào chị. Em vẫn được thư từ. Chị ở Vũng Tàu.

Ông Thái nhắc lại như trẻ con học nói:

- ở Vũng Tàu.

Bà Vân nói:

- Em được thư thấy nói thầy đau, có khi về người Phật mất. Ta xuống thăm thầy nhân thể.

Ông Thái lễ phép rụt rè:

- Vâng.

- Bây giờ gặp thầy, anh cũng không nhận ra được đâu. Mà thầy quy y đổi tên nhà Phật rồi.

Bãi Dứa ở Vũng Tàu, một bên gồ ghề sườn núi, một bên bờ đá. Chỉ có một bãi tắm nhỏ ở chân dốc sang bãi Sau bên kia. Nhưng lọt giữa những tảng đá lởm chởm, đôi chỗ hủm xuống một vùng cát choen hoẻn phẳng lỳ như manh chiếu cói trắng.

Dọc triền núi, ẩn hiện những ngôi chùa nhỏ, công đức của các nhà giàu trên Sài Gòn. Đã thành phong tục đem ảnh và bài vị người đã khuất lên chùa, tương tự ngày trước nhà có của cúng ruộng hậu.

Ông Thái và bà Vân xuống ô-tô ngoài bến rồi đi xích lô về bãi Dứa. Từ lúc gần đến Vũng Tàu, ông Thái đã lẩn thẩn sợ thế nào ấy. Sợ cả cái dáng bà Vân đi phăm phăm, tiêu tiền như vứt đi, tiền xe, tiền ăn sáng, tiền cho ăn mày. Được cái trông bà Vân không khác mấy bà luống tuổi. Khăn vuông lụa trắng, áo xuyến đen, quần lĩnh đen giản dị. Chẳng ai có thể đoán được bà ấy đã xa đất nước mấy chục năm qua. Ông Thái ngồi sau bà, lưng tựa đệm xe. Như con cá nằm trong cái kẹp thế lực.

Hai người lên bậc gạch một ngôi chùa, đi dưới đường chỉ thấy thấp thoáng mấy cành đại khẳng khiu nhô ra. Bà Vân vào thẳng nhà hậu. Ông Thái còn quáng mắt trong căn nhà tối ẩm, bà Vân đã tới trước bộ ván, ngồi sụp xuống đất, chắp hai tay:

- Bạch thầy, còn là Vân, con mới ở Mỹ về.

Trên phản, một người nằm, hai chân nề nặng trắng bệch. Có tiếng khe khẽ:

- à... Vân...

Một cô tiểu ngoài hiên bước vào. Cô tiểu đỡ người ốm ngồi lên. Bà thở khó nhọc, như con mèo gù, bà tựa lưng vào tường và vai cô tiểu đỡ... Ông Thái đã nhìn rõ. Không thể là cô Hậu năm nao. Cái đầu bà lão bủng vàng như nghệ, phù to ra.

Một cô tiểu bưng nước mời khách, đặt trên án thư bên cạnh. Bà Vân nói:

- Bạch thầy, thầy có nhớ ai đây không.

Nhà sư ngước cặp mắt trắng lờ đờ:

- Ông Thái ngày xưa đó.

Bóng mờ khuôn mặt xị không động đậy.

Các chùa ven bãi Dứa đều có nhà khách, vào mùa nắng, cho cả người chơi biển trọ. Ăn chay theo bếp nhà chùa. Hình như cũng vắng vẻ.

Bà Vân và ông Thái nghỉ ngoài nhà tổ. Gian giữa, một tượng Quan Âm. Mùi hương phảng phất, nằm trông lên thấy cái bệ tòa sen thếp vàng ánh. Bên một kệ đặt những khung ảnh người đã mất được đem gởi hậu. Ông Thái mắc cái màn nâu dưới chân kệ ảnh. Bà Vân nằm trên phản đầu gian bên. Như vợ chồng già vãn cảnh chùa, đường xa nghỉ lại.

Ngày ngày bà Vân ra bãi tắm. Bà Vân nói: "Em khỏe được là nhờ biển. Nhà em bên kia ở ngay cạnh nước. Hằng ngày cả thành phố tắm biển". Bà Vân rủ ông Thái tắm. Nhưng ông Thái lắc đầu. Bà Vân cũng không ép thêm. Bà Vân lội xuống nước. Ông Thái đội mũ cối, quần áo bộ đội xanh nhợt, ngồi cái quán cóc cạnh gốc dừa trên bờ. Ông ngồi trông quần áo cho bà Vân. Đôi lúc cao hứng, ông lội cả đôi dép râu đi dọc mép nước. Khi về, bà Vân vào chỗ dội nước ngọt thay quần áo, ông Thái cầm cái túi đứng ngoài.

Bà Vân đã ra bãi. Ông Thái ở vườn chùa vào nhà hậu. Ôi, năm mươi năm trước xa vời vợi, ở phía nửa trái đất bên kia. Ông Thái vẫn không thể nào tưởng cái cô Hậu ấy là bà sư liệt giường này. Không, không, ngày xưa đã qua rồi. Nghĩ thương thương, ông Thái bước vào.

Cô tiểu đến nâng sư thầy. Nhưng bà không giơ tay. Bà vẫn nằm nguyên đấy. Ông Thái lặng lẽ ngồi xuống ven giường. Ông Thái nghe tiếng thều thào như vẳng đâu tới:

- Ông già quá rồi.

Ông Thái đã muốn nói mấy câu gì đó. Nhưng ông không nói được nữa, ông ngồi yên.

Nhà sư từ từ quay mặt vào tường.

Ông Thái lững thững ra bãi. Ông Thái ngồi cái quán bà Vân gửi quần áo. Sóng biển lăn tăn, bà Vân đứng ở chỗ nước ngập ngang vai. Trông thấy ông Thái, bà Vân giơ tay vẫy vẫy.

Ông Thái vẫn chưa dứt cái đau, cái ngán ngẩm vừa rồi: "Ông già quá rồi", ông cũng sắp tịch rồi, câu nói thổi bay mất hào hứng và lòng thương người của ông. Ông Thái nhìn bà Vân vùng vẫy thảnh thơi dưới nước. Ông thở dài, bỗng cáu kỉnh: "Hay là cái đêm ấy nó biết. Nó thù đến tận bây giờ nên mới đầy ải mình ra đây". Ông Thái nhấp một ngụm rượu rồi lại nhẹ nhàng nghĩ có thể không phải thế.

Bà Vân đã lên. Bộ quần áo tắm vằn xanh, cánh tay và bộ đùi hộ pháp phục phịch đã bơi bắt nắng. Ông Thái thờ ơ nhìn. Bà Vân giơ ngón tay. Nách bà trắng bạch. Mọi hôm vẫn thấy mà không để ý. Ông lẩn thẩn đoán không biết bà ấy nhổ hay tự nhiên thế.

Bà Vân giơ tay nẹt đùa:

- Cấm uống bia nghe.

Ông Thái mỉm cười giơ ly rượu.

- Rượu thuốc. Rượu thuốc vẫn uống nhắm với ô mai ở bùng binh chợ Bến Thành, từ ngày xưa đấy.

Vào dội nước ngọt, thay quần áo ra, hai người lững thững về. Bà Vân tự nhiên nói:

- Chúng mình có duyên, nhưng không có nợ.

Có lẽ câu ông Thái vừa nói đã khiến bà Vân nghĩ ngợi. Ông Thái bâng khuâng, mủi lòng.



Hôm rời Vũng Tàu, ông Thái nhổ ngoài bãi cát một cái dây cây dại, không có tên. Lá dày tựa lá thài lài, hoa mầu xanh nhợt nhạt, man dại như hoa bìm bìm. Ông cắm vào cái vỏ bia 33, đem về.

Mấy hôm sau, ông Thái lại đã ở nhà. Ông lại ngồi ở cái góc buồng tầng bốn trông ra cái cửa sổ mới được trang trí thêm hộp bia trồng dây hoa bìm biển.

Những nhánh ba lá vào mùa thu đã ngả mầu vàng gắt. Không ai biết được cuộc phiêu lưu kỳ lạ ông Thái vừa trải. Ông im lặng như chiếc phất trần dựng xó tường. Cái phất trần thỉnh thoảng bà ấy còn lấy ra phảy bụi, ông thì chẳng ai đụng đến. Ông lặng lẽ. Ngồi xuống, không có rượu gặm nhấm lại kỷ niệm. Thói quen nghề nghiệp kế toán ông Thái tính một tuần lễ vừa qua mỗi người chỉ nói được ba câu đùa vui. Cứ vậy mà dự phòng, dự chi, thế mà còn hơn. Nếu nợ nhau thì có lẽ chỉ còn cáu gắt và im lặng như bây giờ.

Hai cái răng cửa đã rụng nốt. Hàm trên nhẵn thín, môi cúp xát vào lợi. Móm hẳn. Đã lâu lắm không nhận được thư của Vân. Ngộ như năm nao Vân lại về có gọi Thới vào, Thới cũng không đi nữa. Ông Thái quả quyết thế. Nhưng rồi cả năm cũng không được tin tức. Có lẽ ở bên ấy bà Vân cũng đương nghĩ như ông Thái. Một hôm, con mèo nhà ai nhảy cửa sổ, làm rơi ụp cái vỏ bia trồng dây hoa bìm biển. Ông Thái cũng chẳng buồn xuống nhặt lên.

1869