Trang

Dec 28, 2006

Đối thoại thầy trò



Trong giờ học môn sinh vật, cô giáo giảng cho học sinh:


- Các em không được hôn súc vật, vì như vậy có thể bị lây nhiễm những bệnh nguy hiểm. Em nào có thể lấy cho cô một ví dụ?


Một học sinh xung phong:


- Thưa cô, dì em hay hôn con cún con của dì...


- Và chuyện gì đã xảy ra?


- Con cún đã lăn đùng ra chết.


***


- Có 15 học sinh kéo nhau ra sông. Trong đó, 5 em bị bố mẹ cấm không được tắm sông. Vậy có mấy em xuống tắm? - Cô giáo dạy toán hỏi.


- Mười lăm! - Cả lớp đồng thanh trả lời.


***


Trong giờ học, giáo sư giảng cho sinh viên về hộp sọ:


- Đây là một mẫu sọ khỉ đặc biệt. Trong thành phố của chúng ta chỉ có hai chiếc. Một chiếc trong viện bảo tàng và một chiếc của tôi.


***


Thầy: Học nãy giờ, các em có cảm thấy đói bụng không?


Cả lớp: Có ạ, đói quá thầy ơi!


Thầy: Thầy cho phép các em nghĩ đến món ăn thích nhất. Một phút thôi đấy nhé!


Cả lớp: !?!

1235

Dec 26, 2006

Trọc Phú




Tại sao tôi lại dùng câu cảm thán của Tiên Điền Tiên Sinh, để mở đầu một đoản văn viết về hiện tại? Chỉ vì tôi đã phải kêu lên kinh ngạc khi tôi thấy người đàn bà ấy: "Trời sao cụ Nguyễn Du tả người tài tình như vậy nhỉ?" Lòng tôi chợt bùi ngùi rơm rớm nước mắt, khi nghĩ về một con người tài hoa tuyệt đích, tri thông tam giáo, làu thuộc cửu lưu, để lại cho đời những tác phẩm bất hủ như "Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh," "Kim Vân Kiều"... Vâng, hơn ba trăm năm sau chắc chắn còn người khóc Tố Như!

Trở lại người đàn bà ấy, mụ có một khách sạn mini 5 tầng, mỗi tầng 4 phòng ngủ ở trên đường Bùi Viện Quận Nhất. Khách sạn HN nằm kề ngay bên nhà bà con tôi, cho nên mỗi lần đến chơi, tôi đều có dịp chiêm ngưỡng dung nhan, và nghe những "lời hay tiếng đẹp" của mụ đối với "kẻ ăn người ở" (nguyên văn chữ của mụ) trong nhà.

Mụ có dáng người, được miêu tả trọn vẹn trong Kiều:

"Thoắt trông nhờn nhợt màu da
Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao?"

Tôi ngồi chơi bên chú tôi một lát, nghe tiếng mụ oang oang bên khách sạn:
- Cái lũ chúng mày, là một lũ ăn cắp ăn trộm! Chúng mày là "kẻ ăn kẻ ở" trong nhà mà chúng mày cứ hở ra là chôm chỉa. Này, này tao bảo cho mà biết nhá, không trả ngay cái kiếng mát gọng vàng của tao ra đây, tao kêu công an gô cổ chúng mày vào!

Tôi không hiểu có chuyện gì xảy ra, nên nhìn chú tôi dò hỏi. Thằng em họ nhanh nhẩu:
- Úi trời có gì là lạ đâu? Ngày nào chẳng bốn năm phen như vậy?
Tôi giật mình:
- Thế á? Thế sao biết là mấy "người ăn kẻ ở" hay ăn trộm sao không có biện pháp ngăn ngừa?
- Biện pháp gì mà ngăn ngừa được? Mấy anh chị nhân viên bên ấy ai dám lấy của mụ? Mụ để đâu rồi quên, mụ đổ cho người ta. Mà mấy người nhân viên bên ấy có hợp đồng đàng hoàng, có ai là "người ăn kẻ ở" của mụ đâu! Thằng em họ tôi giải thích với giọng bất bình.
Bên khách sạn HN êm ru, không ai lên tiếng cãi lại. Bất chợt có tiềng con gái la lên:
- Mẹ à, cái kiếng của mẹ đây nè, mẹ bỏ quên trên nóc tủ lạnh, mà mẹ la toáng lên ai lấy của mẹ!
Tiếng người đàn bà chua ngoa:
- Thì chúng nó lấy của tao. Tao không la toáng lên thì chẳng bao giờ chúng nó bỏ ra đâu.
Tôi lại hồ nghi. Ai đúng ai sai đây? Chú tôi cười bảo:
- Thôi cháu ạ, đừng để ý đến chuyện của người ta nữa. Bà chủ bên ấy, hay như vậy lắm. Nhân viên cứ làm được vài tháng lại bỏ đi. Nhưng có những người khó khăn, mới lên thành phố hoặc mới vào Nam cũng ráng ngậm bồ hòn làm ngọt, làm việc cho bà ấy. Chú phải nói rằng, làm việc ở đây, một chén cơm đổi bằng một chén nước mắt.
Tôi muốn tìm hiểu câu chuyện cho được rõ ràng. Tại sao lại có những con người ăn nói quàng xiên như vậy? Nhưng tôi chưa kịp mở miệng nhờ chú kể cho nghe chuyện, thì bà thím tôi đã bưng tô chè thạch ướp đá trong bếp đi ra. Bà vừa múc vào ly trao cho mọi người vừa chậm rãi kể cho tôi nghe:
- Bà ta cũng mới dọn về khu "Tây Ba Lô" này được 3 năm nay thôi. Nghe nói trước kia bà ta ở Đông Đức rồi trốn qua Tây Đức khi thành Bá Linh sụp đổ, sống cũng mười mấy năm. Buôn bán gì đó, có chút vốn mang về Việt Nam mua lại căn nhà này xây lên trị giá 9-10 tỉ bạc. Bà ta cho khách du lịch thuê phòng, kiếm tiền cũng khá lắm. Nhưng khổ cái, bà ta suốt chửi mắng nhân viên như những người ở, hay nô lệ không bằng. Rất nhiều lần thím thấy bà ta cầm tờ báo đập vào mặt con bé Ti. Tội nghiệp con bé mới 18 tuổi, nhà nghèo ở Hà Bắc vào đây. Nó ngoan và chăm chỉ lắm. Thế nhưng, bà ấy chẳng hài lòng, hết chửi nó ăn cắp, lại chửi nó quyến rũ làm tiền khách Tây của bà. Con bé có biết tiếng Anh, tiếng Pháp chi đâu mà nói chuyện... quyến rũ Tây? Con bé cứ len lén khóc hoài. Hôm trước chú thím gọi nó qua đây, nó vào một tí, rồi lại chạy về ngay. Dù chỉ một tí đó, nó đã nước mắt ngắn, nước mắt dài kêu tủi nhục, oan ức, nhớ nhà.
Tôi nghe thím kể đến đấy bực bội ngắt ngang:
- Sao mụ ta có quyền ăn nói, hành hạ nhân viên như vậy chứ? Sao cô bé không nghỉ đi?
Thím tôi cười hiền:
- Cháu ạ, mụ ta ỷ có tiền, nên ăn đối xử với người khác như tôi mọi vậy đó! Còn con bé Ti nó cố làm việc vì gia đình nhà nó ở Hà Bắc cần tiền. Ở Sài Gòn không bằng cấp, không có tiếng tây tiếng u, không rành đường đi nước bước, muốn sống, làm việc lương thiện cũng khó lắm cháu ạ!

Buổi chiều hôm ấy tôi ra về với cõi lòng trĩu nặng. Rồi nhiều lần còn thấy tận mắt những các cư xử không thể chấp nhận được từ mụ. Tại sao ngày hôm nay, trong xã hội của nhân loại tân tiến, vẫn có những cảnh "phu phen đồn điền" theo thói trịch thượng đáng nguyền rủa của kẻ mới giàu thế nhỉ? Có phải mụ chủ kia đang trả lại cho đời chuỗi ngày mụ bị đời hành khốn khổ trong những cuộc bán buôn thuốc lá lậu trên đường phố Berlin?

Phải chăng cuộc đời là một vòng luẩn quẩn, kẻ vừa là nạn nhân, nhưng nhanh chóng biến thành tác nhân, khi họ có cơ hội? Để trả thù đời? Hay để thoả mãn cái mặc cảm sẵn có nơi tâm thức của họ, rồi họ thấy họ oai phong, quan trọng???

* "Không biết ba trăm năm lẻ sau này, còn ai thương khóc đến Tố Như (Nguyễn Du) này không?"

2411

Dec 24, 2006

Kết quả khoá học luyện trí nhớ



Khóa học luyện trí nhớ mà hai vợ chồng già nọ vừa trải qua tuyệt vời đến nỗi họ luôn kể cho tất cả mọi người nghe về nó. Biết chuyện, người hàng xóm sang gặp ông lão (đang ở ngoài vườn) và hỏi:
- Người dạy khóa luyện trí nhớ mà ông kể đó tên là gì vậy?
- Ờ... để tôi suy nghĩ một chút... Tên loài hoa mà mùi của nó rất tuyệt, có gai nữa, là gì nhỉ?
- Ông muốn nói đến hoa hồng à?
- A, đúng rồi!
- ông lão hướng vào trong nhà
- này, bà Hồng ơi, thầy giáo dạy luyện trí nhớ tên gì bà nhỉ?
2155

Dec 23, 2006

Chửi khéo



Ngườii nọ ngồi ăn uống thô lỗ, ngồi vào mâm là gắp lấy gắp để nhai nhồm nhoàm. Những người ngồi cùng mâm thấy thế hỏi:


- Ông tuổi gì?


Anh ta trả lời:


- Tôi tuổi tuất. Nhưng đang ăn, các ông hỏi làm gì?


Những người kia nói:


- Ồ, để chúng tôi đề phòng.


Anh ta hỏi lại:


- Tại sao lại phải đề phòng?


Những người kia nói:


- May mà ông cầm tinh con cầy. Chớ như ông cầm tinh con hổ thì anh em chúng tôi phải chạy trước!

2576

Tất cả ở dưới gầm xe



Đoàn kiểm tra đến một bệnh viện tâm thần. Ngạc nhiên khi thấy tất cả các giường đều trống, trưởng đoàn kiểm tra quát:
- Đi đâu hết rồi? Giám đốc bệnh viện lồm cồm chui ra từ một gầm giường nói:
- Gì mà ồn thế! Đây đang là giờ thực tập sửa xe hơi!
2381

Việc của ai?



Một đôi vợ chồng nông dân đang bàn bạc.

Vợ: "Này ông, con bé Tư sinh con rồi!"

Chồng: "Đó là việc của nó".

Vợ: "Nhưng nó bảo đó là con ông".

Chồng: "Đó là việc của tôi".

Vợ: "Bây giờ tôi phải làm thế nào?"

Chồng : "Đó là việc của bà".

1043

Dec 22, 2006

Nơi duy nhất "vô sản" thành tỉ phú



Đôi tình nhân đi bách bộ trong công viên. Chàng trai nói:

- Hàng đêm, anh đều nằm mơ thấy mỗi tháng mình kiếm được một ngàn đô giống như bố của anh.

- Bố anh kiếm được một ngàn đô mỗi tháng cơ à? - Cô gái hết đỗi ngạc nhiên.

- Không, bố anh cũng nằm mơ giống anh.

1306

Chợt Nghĩ Giữa Mùa Hè



Nắng hạ vàng
Trên mái trường phượng đỏ
Mùa hè xanh
Em áo trắng tan trường
Trên sách cũ
Chữ nhòe trang mực tím
Vẫn không nhòe hai chữ yêu thương...
824

Dec 21, 2006

Bỏ mảnh nào?



Trên bãi biển, một cảnh sát tiến đến bên một cô gái trẻ mặc bộ đồ bikini và nói:
- Thưa cô, ở đây có quy định chỉ được mặc những bộ đồ tắm một mảnh.
- Vậy theo ông, tôi phải bỏ mảnh nào?
1769

Nhờ có anh bạn cùng lớp đỡ hộ



Một cô sinh viên kể cho bạn gái nghe về đợt thực tập mùa hè:
- Cậu tưởng tượng được không, chúng tớ đang ngủ trong vựa cỏ khô thì một cơn dông ào ào ập tới, gió thổi mạnh đến nỗi mái kho đổ sập xuống.
- Thế mà cậu không chết bẹp?
- Không sao, cái mái ấy đổ cả xuống lưng anh bạn cùng lớp với tớ!
1739

Ai lừa ai?



Hai người đàn ông nói chuyện với nhau. Một người hậm hực:

- Vợ tôi đang lừa dối tôi.


- Làm sao anh biết?

- Tối hôm nọ cô ấy không về nhà. Khi tôi hỏi thì cô ấy trả lời rằng đã ngủ ở nhà Hương, cô bạn thân nhất của cô ấy.

- Thế thì sao?

- Cô ấy nói dối. Chính tôi mới ngủ ở nhà Hương tối hôm đó.

450

Dec 17, 2006

Biển Đời Người



Bim mười lăm tuổi, người lép kẹp như con cá măng, mùa lạnh thì mũi lúc nào cũng ướt. Vậy mà cô Hạnh cứ làm như con cô là tiên. Mỗi lần tôi đến, cô lại trách: " Vì mày mà sau này em Bim không đi thi hoa hậu được. Lớn lên lo mà đền cho nó" . Tôi rụt cổ, gãi tai, biết là cô đang muốn nhắc đến những cái sẹo to trên người Bim. Mẹ tôi bảo: " Một cái là do Măng rủ nó trèo cây đào. Một cái là Măng chơi u, xô nó té từ trên gác xuống. Một cái là do cô Hạnh sai Măng bưng bát canh, đi đến cửa nóng tay quá Măng hắt tung vào người nó" . Nghe kể, tôi ân hận. Thật may là Bim chẳng trách bao giờ. Cứ thấy tôi là Bim nhảy lê: " Anh Tuấn, cho em hai ngàn đi chơi điện tử" . Thế rồi, bẵng đi một dạo, mỗi lần tôi sang, Bim lơ đẹp. Tính tình khác, thân thể cũng khác xưa, cao hẳn lên, ngực lờ mờ hai chóp tròn mềm mại sau tấm áo.

Trời mưa đột ngột xối xả vào xế trưa. Đến chiều, con nước dâng nhanh chẳng mấy chốc ngập lòng đường, tiến vào nhà, treo lên phủ ngập giường chiếu. Cả vùng thành nội ngập tràn nước trắng xoá. Bơi đến trước sân, tôi cố vượt dòng tiến vào sát cửa. Cửa đóng, lại cài then phía trong.

" Bim ơi! Bim ơi!" . Tôi cố gào át tiếng mưa. Tiếng Bim khóc nức nở gọi mẹ trong nhà vọng ra. Cố sức day cửa không được, tôi đành gắng trèo lên mái nhà dở ngói, lần xuống. Bim ngồi co trên bàn, thấy người leo vào nhà thì hét toáng lên, sau đó nhận ra tôi. " Anh Tuấn! Em tưởng kẻ cắp sợ quá. Mẹ bảo đóng cửa, ai gọi cũng đừng mở" . Tôi lội đến gần Bim: " Đồ ngu. Khi mẹ dặn thì trời chưa lụt" . " Mẹ về ngoại từ sớm chưa về, có sao không anh ơi" . " Mẹ không quay lại vào giờ này được đâu. Nước lên nhanh lắm, công an cấm không ai được vào cổng thành" . " Sao anh vào được?" . " Trèo qua mặt thành. Anh mà không tới kịp, nước lên ngập đầu thì Bim thành bèo" . Mới trao đổi có mấy câu, nhìn lại, nước đã vượt quá lên mấy tấc. " Trèo lên gác thôi em" . Bim đứng dậy, nhưng sụm xuống, hai chân tê cóng vì ngâm nước lạnh. Tôi cầm hai tay Bim, kéo vòng qua cổ: " Bám chặt lấy, anh cõng" . Tôi trèo từng bậc một lên thang, một tay quàng ra sau giữ cho Bim khỏi rơi xuống nước...

Trời sập tối, hai đứa ngồi thu lu trong gác hẹp. Tôi sợ nước lên nữa không còn lối thoát, thò tay lên dở ngói, bẻ một khoảng rui lớn, phòng có nguy thì trèo qua mái nhà. Bim khóc rấm rứt một lúc rồi thiếp đi. Hơi thở Bim nóng như sôi phập phồng qua má tôi. Bim sốt rồi. Tôi hốt hoảng. Trời tối thui, chỉ nghe tiếng mưa ào ào trên mái, sát bên tai.

May sao trên gác có tấm chăn cũ. Tôi lần lần cởi chiếc áo ướt cho Bim lấy chăn quàng lại. Cả đêm tôi ngồi ôm cô bé như ôm món quà gói kỹ trong chăn. Cầu cho trời mau sáng, lại cầu cho đêm cứ dài mãi ra vô tận. Sờ thấy áo khô, lại mặc vào cho Bim, trời tối, tôi chẳng nhìn thấy gì, cũng chẳng dám chạm mạnh, vậy mà người cứ run run. Bim thì cứ mê sảng, hết gọi mẹ lại đến sợ chuột.

Mãi đến trưa mai, nước mới xuống. Cô Hạnh thuê đò chống vào đến ngõ, thấy nước ngập tràn đến mái nhà, cô khóc váng lên: " Con ơi là con" . Thấy tôi thò đầu ra khỏi lỗ ngói, cô trợn tròn mắt như quỷ thần. Tôi bơi ra, kéo đò vào, chỉ cho cô Bim nằm mê man. Cô lại khóc rống lên, lần này vì mừng. " Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn. Măng ơi! Tao cho mày con Bim" .

Hai ngày sau, Bim tỉnh lại. Cô Hạnh đút cháo. Nằm trên giường, Bim bảo: " Anh Tuấn phá mái, bẻ rui nhà em, em bắt đền" . Lại bắt đền! Tôi cởi trần, hì hục dọn hàng tấn bùn non ngập đầy sân.

Từ đó, năm nào cũng vậy, trời mới mưa to tôi đã trực ở nhà cô Hạnh rồi. Số Bim là số sướng, mười bảy tuổi rồi mà chưa động tay dọn lũ lấy một lần. Mẹ tôi bảo: " Sao mà ai cũng thích đẻ con trai. Ăn cơm nhà, vác ngà voi thì nó là số một. Lo kiếm việc làm ăn đi con ạ, cả ngày hết đàn hát lại xách xe đi chùi bóng mặt đường, con gái nó không ưa đâu" .

Nhìn tôi trong bộ đồng phục công nhân màu xanh, Bim lo lắng: " Rồi ai chở em đi học?" . Tôi dỗ dành: " Chịu khó đi xe đạp, hôm nào về sớm anh chở đi buổi chiều đỡ nắng" . Ngày đầu đi làm, nhìn ra cả vùng đồng nước Vân Cù mênh mông, thấy cột điện chữ A mọc lên giữa những giường ruộng ngang dọc, tôi ngớ ngẩn hỏi: Người ta dùng máy gì mà đưa mấy cái cột nặng thế này ra đến đó?" . Anh Hạp, tổ trưởng của tôi cười: " Cái xác mày khênh ra, chứ máy gì mà thi công được ở đây?" . Tôi nhìn, phát hoảng. Lần đầu tiên được giao khiêng bộ chân tó để dựng cột, tối về tôi ngủ mơ, nói sảng: " Mẹ ơi, núi đổ, lôi con ra, lôi ra" . Mẹ lay mãi, tôi mới tỉnh, mồ hôi ướt dầm mình.

Dần dần, tôi mạnh lên, cơ bắp nổi đầy tay, lên rừng xuống biển cũng không còn sợ nữa. Đi đâu thì đi, chiều đến về nhà, việc đầu tiên là tắm gội cạo rửa tinh tươm, đến trường đón Bim về. Có hôm thấy Bim chờ một mình vắng ngắt: " Bạn em đâu cả?" . " Tụi nó rủ nhau đi ăn chè" . " Lần sau em cứ đi với bạn, nhắn lại với bà hàng nước cho anh biết chỗ đến tìm là được" . Bim cười, ngúc ngắc hai đuôi sam: " Ai lại thế, anh đi làm mệt cả ngày, về mà không thấy Bim, anh có buồn không?" . Lòng tôi như chao đi, lần đầu tiên thấy trên khuôn mặt Bim nét dịu dàng thiếu nữ. Bim của tôi lớn rồi và biết nghĩ, không còn ngốc nghếch ham chơi như tôi tưởng. Bất giác, tôi ôm Bim vào lòng. Bim cười nhắm mắt, rúc vào ngực tôi hít một cái thật dài rồi chuồi người, đẩy tôi ra. " Sao thế?" . " Người ta cười" . " Đồ sợ chết" .

Một buổi sáng chủ nhật bên suối Trà Am, lần đầu tiên Bim cho tôi ôm trong tay... Bim cười, ghé cái tai nhỏ hồng sát ngực tôi, lắng nghe tim đập. " Nhè nhẹ thôi, anh siết mạnh em đâu cả người" . " Bim ơi!" . " Gì anh?" . Tôi bồi hồi nhớ lại cái đêm trời lụt. " Cho anh cõng Bim đi xem suối" . Chân tôi đi qua những mỏm đá trơn. " Em sợ anh cõng em nặng, té gãy cổ cả hai đứa" . Tôi giữ chặt Bim sau lưng. " Đừng lo. Hai bộ xà sứ vừa nặng vừa cứng anh còn cõng qua suối Nam Đông, bây giờ cõng Bim nhẹ và mềm như con gấu bông, anh đi lên thấu trời" . Bim cười, tiếng cười như suối. Tôi đặt Bim ngồi trên cành cây ươi đổ ngang, giữa những cánh hoa nhung đỏ hé mở. " Anh Tuấn ơi! Con muỗi!" . Tôi định đập, Bim bỗng xua cho nó bay đi. " Tội nghiệp, tha cho nó anh ạ!. Bắp tay Bim sưng lên một đốm hồng. Tôi gãi cho Bim, Bim nũng nịu: " Tuấn không có móng tay, gãi bằng cục chai trong lòng bàn tay ấy..." .

Cô Hạnh than thở với tôi: " Em nó ăn nhiều mà sao vẫn xanh. Hay là có giun?" . Tôi chạy mua thuốc xổ. Lại mua cho Bim một đôi giày vải. Sáng sớm tôi đến, gõ cửa, dựng Bim dậy. Bim mắt nhắm mắt mở, chạy thể dục với tôi từ Tây Linh ra đến Tây Lộc rồi lại theo đường vòng quay về. Bữa đầu, Bim khóc mếu: " Tuấn độc tài" . Dần dần quen, sáng nào tôi không ra, Bim giận lẫy. Tôi hỏi Bim: " Có muốn học bơi không, sáng ra bến Me bơi mát l%E
1213

Dec 16, 2006

Khỏi cần em yêu



Đôi vợ chồng chuyển sang ở ngôi nhà mới.
- Anh này
- Cô vợ nói
- phải mua ngay một tấm rèm cửa sổ, nếu không khi em thay quần áo, hàng xóm nhìn thấy hết.
- Chi tiêu phí phạm làm gì?
- Anh chồng đáp
- Anh dám cá rằng khi nhìn thấy em như vậy, thì họ sẽ phải tự trang bị rèm cho cửa sổ nhà mình thôi.
1765

Quảng cáo làm đẹp



Không cần dùng Pond, khỏi cần Hazeline. Bạn sẽ không phải dùng bất kì loại mỹ phẩm nào, hãy đến với chúng tôi, chỉ trong thời gian vô ngắn bạn sẽ có ngay một làn da sách mịn tự nhiên...
- Chà! Dịch vụ gì tuyệt vậy?
- Chụp ảnh kỹ thuật số!
1423

Dec 15, 2006

Quên Thầy



Cái Cười Của Thánh Nhân
Tác giả: Nguyễn Duy Cần

Quên Thầy


Ngày kia, có một người đi tìm thầy học đạo.

Gặp một người hướng dẫn, ông này căn dặn:

- Hãy kiên tâm ngồi tịnh nơi đây. Đúng năm nữa sẽ gặp mặt Thầy.

Năm sau, ông ấy đến hỏi:

- Đã gặp Thầy chưa?

- Thưa, đã gặp.

- Vậy, cứ tịnh thêm năm nữa, sẽ nghe thầy dạy đạo cho.

Năm sau, ông ấy đến hỏi:

- Đã nghe Thầy truyền đạo chưa?

- Thưa đã được Thầy truyền rồi.

- Vậy bây giờ hạy tịnh thêm năm nữa, đến khi nào không còn nghe Thầy nói nữa, bấy giờ anh mới chứng được đạo.

Lời bàn:

Lời nói cuối cùng của người hướng dẫn quả rất bất ngờ đối với phần đông những kẻ xưa nay đi tìm Đạo vẫn có thành kiến "Không thầy đố mầy làm nên"

Thầy, dưới hình thức một người đã đắc Đạo, những sách vở kinh truyện, những giáo điều tôn giáo, luân lý... Trong con đường tìm Đạo tuy cần, nhưng chỉ cần lúc ban đầu mà thôi. "Có" Thầy, nhưng rồi phải "quên" Thầy và sau cùng "mất". Thầy thì mới chứng được Đạo. Aurobindo Ghose có nói "thầy là một cần thiết", Thầy cũng là một trở ngại". Ông thầy giỏi là người không có đệ tử, tức là người đã giúp cho đệ tử mình không cần dùng đến mình nữa. Ở Thiên Đức Sung Phù sách Trang Tử có viết: "Khổng Tử dường như chưa phải là bậc chí nhân! Ông ta làm gì mà đông đệ tử thế? Vậy chứ ông không biết rằng đối với bậc chí nhân, có nhiều đệ tử là tự tạo cho mình có nhiều gông cùm xiềng xích sao? Người đệ tử phải thoát khỏi ông Thầy, mà ông Thầy cũng phải thoát khỏi đệ tử của mình mới là người đắc Đạo"

Ngày kia Phật chỉ trăng nói với đệ tử: "Kìa là mặt trăng, nhìn theo ngón tay ta mà thấy. Nhưng đừng quên: Ngón tay ta không phải là mặt trăng". Có thấy ngón tay, có nhìn theo ngón tay, và có quên ngón tay... thì mới thấy trăng

Mỗi người của chúng ta giống một cái chuông, mà ông Thầy của chúng ta cũng là một cái chuông. Nhờ hiện tượng cộng hưởng mà tiếng chuông của ta nổi lên cùng tiếng chuông của ông Thầy, nhưng tiếng chuông của ta không phải là tiếng chuông của Thầy. Cho nên ta mới nói "đồng thinh tương ứng". Cũng như mắt trời gọi ánh sáng giúp cho trăm hoa đua nở, nhưng cây nào trổ hoa nấy.
571

Bà Lão Lòa



76 tuổi đầu, mỗi bữa thất thểu ăn một lưng cơm, bà lão lòa ở nhờ một đứa cháu họ, thật đã lắm phen cực nhục. Cháu bà, một bác đánh giậm, với vợ, một chị mò cua bắt ốc, khốn thay, dưới nách hai đứa con mọn, cũng đã lắm phen nhăn nhó vì chẳng đủ ăn.

Hai mươi năm về trước, bà lão lòa này còn là người có của trong làng. Con trai bà nó chơi, nó phá, nó bán ruộng, cầm nhà rồi nó bỏ bà nó đi, chẳng biết đi đâu, lòng mẹ đối với con tuy có giận mà vẫn có thương, bà khóc lóc một mình đến nỗi lòa cả mắt. Trong thời bà còn giàu có, ngoài những việc cúng tiền tô tượng đúc chuông, bà còn năng giúp đỡ kẻ nghèo khó; trong họ ngoài làng, nhiều người đã được nhờ bà mà đến khi gặp bà bước khốn cùng thì chẳng ai thương cả. Cũng vì xưa kia đã nhiều phen ngửa tay nhận lấy đồng tiền cứu giúp của bà, bác đánh giậm đành cắn răng, vuốt bụng, nhắm mắt nuôi cô trong lúc hoạn nạn.

Nhưng vốn bị ma nghèo ám ảnh, mới nuôi cô được độ ba năm, bác đánh giậm đã thấy nản lòng. Cái cảnh túng bấn nó thường đẩy người ta vào chốn bùn nhơ, nó thường buộc người vào vòng tội lỗi, đối với bác đánh giậm, ác hơn, nó làm bác quên bỏ cả lương tâm. Quên hẳn cái ơn ngày trước, bác ta chỉ còn biết xót ruột khi bà lão lòa lò rò ngồi vào mâm, cướp cơm của vợ, của con nhà bác.

Buổi chiều hôm ấỵ..

Trước túp lều tranh xiêu vẹo như chỉ còn chờ một trận gió to là đổ ụp xuống, cái sân đầy những bã mía, lá khô, một mâm cơm bát đàn đũa mộc trong để đĩa cá rô kho chuối với đĩa cá đen sịt đen sì, cầm trên tay mấy bát cơm ngô vàng ói, bà lão lòa, bác gái và hai đứa bé chỉ còn chờ bác trai rửa mặt rửa chân tay, ngồi vào là cùng cầm đũạ Đàn ruồi vù vù bay lung tung như đánh trận, hết bâu đầy vào mấy nốt mụn chốc trên đầu thằng cu con lại bay xuống đặt mình vào đĩa cá.

Bác trai, người mảnh khảnh, đen như củ súng, trán răn, má hóp, mắt kèm nhèm, mặc cái áo vải vá đã đến năm mười miếng mụn, đóng khố, vừa ngồi xổm xuống đất cầm lấy bát cơm, vợ đã vội hỏi:

- Bố nó hôm nay kiếm được bao nhiêu tất cả...? Ấy tôi chỉ được có bốn sóc cua hai xu với một mẹt tôm riu năm xu là bảy đấy thôị Gạo ăn bữa mai hết rồị..

- Hôm nay được thêm mẻ lươn thì, ác quá, gặp đứa nào cũng trả rẻ, lang thang khắp chỗ, mãi đến chiều chẳng thấy ma nào hỏi lại phải bán tống bán tháo đị.. cả ếch cả cá cũng chỉ được ngót hai hàọ

Vợ nhìn chồng thở dài rồi lại nhìn đến niêu cơm. Thằng cu lớn xới một bát nhường cho em, còn mình thì cầm cái đũa cả, gắp những hột còn dính lạị Bà lão lòa, ăn hết một lưng, tay lẩy bẩy chìa bát ra toan xin ít nữa, chưa kịp nói, bác gái đã quát:

- Hết rồị..! Còn đâu nữa mà chìa mãi bát rạ.. Đến tôi đây quần quật suốt ngày, đã ốm cả xác mà cũng chỉ được có ba lưng thôi đấỵ.. Bà không phải làm gì, ngồi nhà ăn ít cũng được.

Bà lão giật mình, đớ người ra một lúc rồi đứng lên đi vào trong nhà, ngồi xuống bậu cửa, lấy cái tăm gài trên mái tóc xuống xỉa răng.

Mặt trời sắp lặn, còn xiên qua lũy tre xanh, tầu lá chuối mà rọi ánh sáng đỏ đó vào gian nhà. Dưới những đám mây thiên hình vạn trạng mầu cá vàng chăng dọc chăng ngang phủ kín một bầu trời, một đàn sếu xếp hàng chữ nhân bay từ Bắc về Nam, vươn cổ kêu oang oác. Trên mấy ngọn tre gió thổi ngả nghiêng, dăm ba con chèo bẻo tung tăng chuyền cành này sang càng khác, còn đua nhau hót như muốn cất giọng chào mặt trời truớc khi vào tổ.

Bà lão lòa ngồi trầm ngâm chống tay lên trán, nhân hôm ấy chiều trời êm ả, gió thổi hây hây, chim kêu xào xạc mà một mảnh đời dĩ vãng như một luồng chớp nhoáng, trong trí bà lại thấy hiện ra:

Ngoài cổng, một ông lão ăn mày lụ khụ đến ăn xin. Con vện con vàng đang nằm trong sân bỗng nhảy xổ ra cắn xa xả. Tiếng một bà ngồi trên sập gụ bên trong quát thằng nhỏ ra mắng chó, giắt ông lão ăn mày vào thết một lưng cơm.

Bác nhiêu B, vừa bị nạn hỏa, rủi đâu, vợ lại hậu sản mà chết. Trong gian nhà lụp xụp, thằng cu lớn, cái đĩ con ngồi mã la mã lệnh với thằng cu mới đẻ, cuộn tròn trong cái tã nâu, nằm ngay cùng giường cái xác mẹ nó. Tiếng ba đứa trẻ khóc như rị Cả đêm hôm trước, bố chúng nó ôm đầu mà khóc, sáng hôm sau mới bảnh mắt đã thấy đội nón ra đi, mặt trời lên đến đỉnh đầu rồi mà chưa thấy về, bụng chúng nó đói cào như muối xát. Bỗng thấy ai nói văng vẳng như tiếng bác nhiêụ Thằng cu lớn quệt nước mắt, lủi thủi bước rạ.. Quái thay! Một bà khách lạ nào miệng bỏm bẻm nhai trầu, váy sồi, áo lụa, xệ nệ trên đôi dép da cong, bước vào nhà ôm lấy thằng cu con mà kêu: tội nghiệp! Rồi thấy bà khách cởi hầu bao, lấy ra một cuộn giấy bạc, bác nhiêu đưa hai tay nhận lấy, dòng dòng nước mắt tạ ân.

Giữa chợ gần chỗ hàng gà, hàng cá, mùi hôi tanh xông lên nhức đầu, một đám đông xúm quanh một người đàn bà ăn mặc rách rưới, tay ôm đứa bé chừng bốn năm tháng.

- Thưa bà, cháu chỉ lấy có năm đồng thôi đấy ạ.

- Thôi, chả của đâu mà trả đến năm đồng. Trông gầy thế kia, biết rồi có sống được không? Ba đồng đấy, bằng lòng đi!...

Người nọ xô người kia, chen nhau len vàọ Có người đứng ngoài, không hiểu chuyện, tưởng họ mặc cả gà, khi kiễng chân, nghển cổ nhìn vào mới rõ. Giọng nói phều phào một bà cụ già lụ khụ:

- Rõ tội nghiệp chưa! Tôi mà có năm đồng thì tôi trả ngaỵ..!

Bỗng có một bà ăn mặc lụa là, người trông phúc hậu, len lỏi vào cất tiếng dõng dạc hỏi:

- Này nhà bác kia! Làm gì mà đến nỗi phải bán con đi thế?

- Thưa bà, nhà con phải bệnh, liệt giường liệt chiếu đã hơn nửa tháng nay, không có tiền thuốc thang gì thì chết mất. Con phải bán cháu đi để cứu lấy nhà con, mất đứa này còn mong đẻ đứa khác chứ để chồng chết thì rồi tất chết cả mạ con cháụ

Nước mắt chảy xuống dòng dòng, nỗi thương đưa lên nghẹn cổ, người đàn bà không nói được nữa, gục đầu xuống mặt con mà khóc nức nở.

- Nàỵ..! Cứ ẵm cháu về, đừng có bán nó đi mà phải tội đấy! Năm đồng đây tôi xin giúp. Hãy cầm về mà liệu thuốc men cho bác traị

Người kia ngạc nhiên ngơ ngác nhìn lên, mãi chưa dám tin là thật, bàng hoàng như đang lúc chiêm bao, giơ tay ra nhận tiền, rồi không biết nói thế nào với vị ân nhân của mình, phục ngay xuống đất mà rưng rức khóc. Đám người tản mát, có kẻ thì thào: người đâu mà phúc đức tệ!

Ấy đó, đổi lại bao nhiêu điều thiện xưa kia ông trời cay nghiệt nay đều trả bà bằng hai con mắt lòa với một cảnh ăn gửi nằm nhờ cực kỳ khổ sở. Cho rằng kiếp xưa tiền oan nghiệp chướng chi đây, nghĩ thương mình, thương đứa con bất hiếu, thương vợ chồng con cái bác đánh giậm, bà lão lòa thổn thức, trên hai gò má răn reo lại thấy mấy giọt nước mắt chảy ròng ròng. Bà lão gục đầu xuống gối tỉ tê khóc không ra tiếng, chỉ thấy sụt sùi hậm hực, khiến thằng cu con lò rò bò đến với bà, không hiểu ra sao bỗng cũng khóc thét lên. Bác gái chạy vào bực mình xỉa xói:

- Này bà! Bà đừng làm sốt ruột...! Bà ăn xong bà đã chẳng làm được việc gì thì cứ ngồi yên một chỗ hay ẵm cháu giúp tôi, bà đừng có sụt sùi khóc lóc, đây không ai chết mà bà phải khóc...

Giọng nói day dứt mà lanh lảnh như từng nhát búa bổ vào thành sắt vang động bên tai, bà lão hoảng hốt trong hai con mắt lòa trợn trạo cầm nước mắt cho khỏi chảy ra, trông rõ đôi tròng trắng đảo đi đảo lạị..

- Trời làm đói kém thế này, vợ chồng chúng tôi không thể nuôi bà được nữa đâu, bà phải liệu mà giúp đỡ chúng tôi mới được. Rồi từ mai trở đi, để thằng cháu nó giắt bà ra đầu đê, bà ngả nón dưới bóng cây gạo mà ngồi, thấy tiếng người chợ búa qua lại thì bà chìa rá ra xin, nếu có được mỗi ngày một vài xu cũng là đỡ được cái mồm bà rồi đấỵ..

+
+ +

Đã được nửa tháng nay, sáng nào cũng thấy thằng cu lớn dắt bà ra ngồi đầu đê rồi chiều đến lại dắt về. Trong bọn những người chợ búa qua lại con đường cái quan, tạt vào đường đê, thấy một bà lão lụ khụ, hổn hển thở, ngẩng đầu chìa nón kêu van, cũng đôi khi có người vứt cho một vài đồng kẽm. Chẳng may, nếu hôm nào về tay không thì vợ bác đánh giậm - cháu bà - lại nghiến răng xỉa xói thậm tệ:

- Hôm nay chẳng ai thí cho bà đồng nàọ..! Bà có biết thế là bà lại ăn phần cơm của thằng cu lớn đấy không? Từ mai, bà liệu mà kêu to lên mới được... Hay tại bà ngồi dưới bóng cây mát mà ngủ thiếp đị..? Bà liệu đấỵ..!

Bát cơm ngô điểm quả cà thiu, bà lão lòa trước khi và vào mồm đã chan đầy như canh bằng nước mắt.

Một ngày kia, trời tháng ba nắng gay gắt, bà lão lòa dưới gốc cây gạo, ngồi từ sáng đến quá trưa, bụng đã đói mềm mà chẳng thấy nguời khách đi đường nào vứt cho lấy một đồng trinh. Trên cành cây, thỉnh thoảng lộp độp rơi xuống đường đê một vài bông hoa gạo, mỗi khi quạ cái tha mồi về tổ cho con lại đập cánh sập sè vươn cổ kêu: quà! quà...! như gợi một mối thương cho người ngồi dưới gốc.

Xa xa, trong cánh đồng bát ngát một màu xanh, mấy người làm ruộng nhễ nhại mồ hôi, chẳng ai buồn nói chuyện với aị Một đàn chim vành khuyên trong bụi rậm kia đang chuyền cành này sang cành khác cũng không con nào kêu hót, kiếm ăn một cách rất lặng lẽ. Phong cảnh dường như mệt mỏị Những tiếng vang động đều bị sức nóng mặt trời át mất hẳn đị Trên con đường cái quan, thỉnh thoảng thấy tiếng một cái xe hơi như một mũi tên bay, vo vo chạy qua rồi biến mất vào trong đám bụi mù xa tít,... bốn bề im lặng như tờ. Hai cánh tay khẳng khiu ôm lấy bụng mà nhăn nhó, cố quật lại với cái đói nó cào xé ruột gan, bà lão lòa thở hổn ha hổn hển.

Chợt có tiếng người dẫm lạo xạo trên đống lá khô, đi về phía mình bà lão vội chìa ngay nón:

- Lạy ông đi qua, lạy bà đi lạị..! Cứu cho thân tôi lấy một miếng cơm...

- Tôi đâỵ..! Phải ai đâu mà lạy với lục...? Bà được đồng nào chưa thì đưa đây cho tôị..

- Đã được đồng nào đâụ..? Chẳng thấy ai đi qua đây cả... Mẹ nó có dắt tôi về thì dắt, tôi đói lắm rồị..!

- Bà đói à? Bà đói thì dễ tôi no à? Bà hãy ngồi đấy xem sao, buổi chợ chiều nay, rồi họ về qua đây nhiềụ.. chốc nữa, tôi sẽ bảo thằng cu nó ra nó dắt...!

Rồi bác ta thoăn thoắt bước đi, cái váy cũn cỡn để lộ hai ống chân trùng trục, đen thui, giỏ cua đeo sau lưng cũng theo nhịp từng bước mà lắc đi lắc lạị.. Về đến nhà, sung sướng thay đã thấy bác trai ngồi phì phèo thổi lửa làm cơm dưới bếp. Nghĩ thầm hẳn bố nó hôm nay được mẻ phát tài, bác ta rửa chân tay xong, vào hú hí ngay với con.

Bỗng trên trời mây kéo đen nghịt tối sầm hẳn lại, rồi nổi một cơn giông. Bác đánh giậm chạy vội ra sân vơ quần áo đem vào nhà, giục thằng cu lớn mau mau chạy ra để dắt bà về kẻo mưa to gió lớn. Nghe câu ấy, bác gái ngồi ôm con một góc giường cau mày ngẫm nghĩ: thật vậy! Ba bốn năm nay, bác ta đã nhịn như nhịn cơm sống ấy rồi, quá lắm thì không chịu được. Mặc kệ bà ấy! để bà ấy chết quách đi cho rảnh mắt...!

Rồi hiện ra lần lượt trong trí bác những ngày trở trời trái gió, những ngày lửa hạ chang chang, ruộng khô đồng nứt, kiếm chẳng ra tiền, hai đứa bé bò nheo bò nhóc, một niêu cơm ngô chia khắp cả nhà, bụng mẹ đã chẳng được no, còn lấy đâu ra sữa nuôi con... Mà bà lão lòa kia thì, ngày kiếm được một vài xu cũng như ngày không kiếm được đồng nào, chẳng nhịn được bao giờ, cứ đến bữa là ngồi vào mâm, chìa bát ra cho thằng cu sớị Không, không! Không thể thế được...! Bà lão ấy chỉ là một bà cộ.. mà lại là cô họ một người chồng, có lẽ nào báo hại mãi nhaụ..?

- Kìa! Thằng cu! Tao bảo thế nàọ..? Không bỏ bếp đấy mà ra dắt bà về à? Ông lại đét cho bây giờ.

Bỗng bác gái đặt phịch con xuống giường, quặn mình nhăn nhó:

- Ối trời dất ôị..! Ối trời dất ôị..!

- Chết chửạ.. làm sao thế? Sao thế hở mẹ nó?

- Sao mà bụng tôi cứ thấy đau xoắn lại thế này! Ối trời dất ôi, đau thế này thì đến chết mất thôị..

- Chết chửa! Kìa thằng cụ.. ẵm em dỗ đị.. dỗ đi cho nó nín đi rồi dậy đấm cho u mày một chốc... để tao đi nướng hòn gạch mà chườm bụng vậỵ.. Rõ khổ chửả

Bên ngoài mấy hạt mưa bắt đầu ném vào mái tranh lộp độp rồi trời đổ cơn xuống rào ràọ Dần dần mưa càng to, gió càng mạnh, mỗi lần một luồng gió thổi trên không nghe ào ào là một lần nước đổ như trút xuống sân. Trời tối mịt. Thấy mẹ đã ngủ được yên, thằng cu bước xuống đất, phong phanh trong tấm áo vải, ra tựa cửu đứng nhìn.

Tiếng sấm động ù ù, mỗi khi chớp nhoáng chớp nhoàng nó lại nom rõ thấy giữa những vũng bong bóng phập phồng, những dây nước ròng ròng từ mái tranh rỏ xuống. Rồi thỉnh thoảng lại đánh "đoành" một cái, những tiếng sét vang trời đánh nhịp, hòa theo với tiếng mưa rả rích, tiếng sấm hục hặc, nổi sôị..

Chợt nghĩ đến bà nó ở ngoài đầu đê không biết ra sao, quay lại nhìn thì bố nó vẫn lúi húi dọn cơm, nét mặt thản nhiên như không, thằng cu phụng phịu nét mặt, hỏi gắt:

- Kìa thày! Thế bà ở ngoài đầu để

Nó chưa nói hết câu, bố nó đã như bị một luồng điện giật, nẩy người ra, mắt tròn xoe, mãi mới nói được.

- Chết chửa! Biết làm thế nào bây giờ? U mày đau bụng, kêu rối rít lên, làm tao cũng quên bẵng đi mất...

- Thế thì chắc bà chết rét mất rồị.. Còn gì nữạ..

Nghĩ đến cái chết của bà lão lòa ở ngoài đầu đê - tình cháu đối với cô - bác đánh giậm rùng mình, rợn tóc gáỵ Nhưng bác tự dối lương tâm, bác đáp lại con:

- Ôi già... chả việc gì phải sợ... dễ bà lại không biết lần mò đến một cái quán nào đấy mà ẩn hay saọ..?

Rồi bác gọi vợ con dậy ăn cơm. Bữa ấy bác gái tuy kêu đau bụng mà cũng cố ăn được đến bốn năm lưng, mặc dầu hai đứa bé không thấy bà nó đâu, thường nhắc đi nhắc lạị

Trời vẫn mưa, lúc to lúc nhỏ, rả rích suốt đêm.

Sáng hôm sau, ánh sáng mặt trời xé những đám mây bay tan tác, chiếu xuống, trông lại càng tươi càng đẹp. Trên mặt đường đê, nước đóng từng vũng, những người đàn bà gồng gánh ra chợ phải xắn váy vén quần, lội bì bõm, hễ ai hơi trượt chân muốn ngã là cả bọn lại khúc khích cườị Những đám cỏ bấy lâu phơi nắng xám cả màu, sau một trận mưa rào đã trông thấy ngay cái vẻ tươi tốt. Trên mấy cây bàng, một đàn chim sâu, con ngửa cổ uống nước, con đập cánh rũ lông, kêu hót vang taị Vệ đường loáng thoáng thấy cành cây rơi rải rác...

Phong cảnh trông có vẻ khoan khoáị Cái khoan khoái của phong cảnh sau trận mưa rào cũng như cái khoan khoái của người sau khi tắm gộị

Bác đánh giậm hôm ấy dậy rất sớm, đóng khố, cài rổ, vác vợt ra đị.. Mon men ở dưới chân đê, lội lõm bõm qua mấy vũng bùn lầy xa xa, phía dưới cây gạo - chỗ bà lão lòa vẫn ngồi, bác thấy giữa ruộng, trong một đám mạ xanh tươi tốt, một đàn quạ, con bay con liệng, kêu sào sạc rồi đậu xúm xít vào một chỗ. Bụng tưởng hẳn là một tổ rắn chi đây, bác ta vác ngay một vợt tre lên mặt rồi phăm phăm chạy lạị Đàn quạ vùng bay lên rồi tản mác đị.. Chao ôi! Bước vừa đến nơi thì bỗng bác ta rú lên một tiếng, trợn mắt rít răng mà ngã phục xuống cạnh một cái xác, cái xác một người đã bị quạ mổ nát nhừ, xác bà lão lòa bị gió thổi xuống ruộng đêm hôm trước.
160

Dec 14, 2006

Nhân Sâm




Ngày xưa, có hai vợ chồng người tiều phu nghèo khổ, làm lụng vất vả quanh năm. Tờ mờ sáng đã ra đi làm, đến tối mịt mới về nhà mà cũng không kiếm đủ gạo ăn. Hai vợ chồng có một đứa con trai còn nhỏ, mỗi ngày để ở nhà cho một phần cơm chỉ ăn vừa lưng dạ. Trong cảnh thiếu ăn đó, hai vợ chồng lấy làm ngạc nhiên nhận thấy con mình ngày một béo tốt, hồng hào khỏe mạnh như đã được chăm nuôi tẩm bổ khác thường. Đứa con còn bé chưa nói năng gì được nên cha mẹ nó muốn hỏi han về sức khỏe lạ lùng của con cũng đành chịu. Được vài năm đứa bé lớn lên như thổi, bắt đầu biết trò chuyện, cha mẹ nó mới hỏi xem phần cơm mỗi ngày để dành cho con ăn có đủ không. Thằng bé trả lời chẳng biết mùi cơm ra sao vì cứ mỗi khi cha mẹ nó vừa đi khỏi nhà là bầy khỉ ở rừng kéo đến ăn sạch cơm.

Hai vợ chồng người tiều phu quá nỗi kinh ngạc, hỏi con trong mấy năm trời không cơm ăn mà sao lại được khỏe mạnh như vậy. Đứa con ngây thơ mới kể cho hay rằng trong lúc cha mẹ nó vắng nhà, có một thằng bé láng giềng cũng trần truồng như nó, vẫn đến chơi đùa, và chính đứa bé đáng yêu kia đã truyền sức khỏe sang cho nó. Nghe con nói như thế, cha mẹ nó lại càng lấy làm lạ, nghi hoặc thêm, vì chung quanh ấy lối mươi dặm chẳng có nhà cửa của ai cả. Người tiều phu nghĩ ngợi, đoán chừng đứa bé đến chơi với con mình là Người Sâm (nhân sâm), hồn của cây sâm mọc quanh quẩn gần đâu đây.

Đến sáng hôm sau, người tiều phu đi ra chợ mua một cuộn chỉ tơ mang về dặn dò con là hễ thằng bé kia đến chơi thì lấy chỉ buộc vào chân hoặc tay nó. Đứa con hứa sẽ làm theo lời cha bảo. Qua ngày sua, vợ chồng người tiều phu đi khỏi nhà như lệ thường, song không vào rừng lấy củi mà rình nấp gần đấy. Nhân sâm lại đến túp lều coh*i với thằng bé con người tiều phu, cũng như mọi ngày, và đứa bé theo lời cha dặn, lấy chỉ buộc vào cổ tay bạn.

Vào lúc giữa trưa, hai vợ chồng người tiều phu ra khỏi chỗ nấp, đột ngột trở về nhà, bắt chợt cả hai đứa bé đang nô đùa. Thằng bé sâm vội vàng bỏ chạy rồi biến mất vào cây. Người tiều phu lần theo dấu chỉ đã buộc vào cổ tay Nhân Sâm mà tìm ra được cây sâm. Tham và ngốc, gã hấp tấp đào xới quá mạnh tay làm chết mất thằng bé Sâm và chỉ lấy được từng miếng rễ cây sâm. Cũng vì thế mà ngày nay người ta chỉ có được các nhánh rễ sâm mường tượng hình dáng người. Người Sâm chết vì sự vụng về của gã tiều phu, từ đó Sâm không còn công hiệu giúp cho người ta
1207

Dec 13, 2006

Xe đạp đôi



Xe đạp đôi


     Những đêm phố yên ả và thanh bình, hai đứa dạo chơi. Tôi thấy mình ấm áp bên em. Lá thì thầm như lời tỏ tình bên tai chỉ hai đứa biết. Tôi lái xe bằng một tay, tay còn lại nắm lấy tay em, chầm chậm đạp xe, có khi vừa đi vừa hát nữa, bài hát tình yêu Love story hơi buồn buồn, nhưng không có đứa nào buồn.

Tôi đùa Thy: “Anh sẽ thì thầm bên tai em cả đời Thy nhé!”, em nhại lại: “Em cũng thì thầm bên tai anh cả đời, chúng mình chỉ nuốt nước bọt mà sống thôi”. Cả hai cùng cười.

Tôi yêu Thy chỉ vì hai đứa có cùng sở thích, đó là đi xe đạp đôi vào những buổi chiều. Vô tình chúng tôi gặp nhau ở hiệu cho thuê xe đạp. Lúc đó, hiệu chỉ còn trống một chiếc mà đến hai người thuê. Chủ hiệu bảo hay là hai người đi chung. Em lưỡng lự ngại ngùng, nhưng tôi bảo em thích thì chúng ta cùng đi. Thế là đi. Chúng tôi quen nhau từ đó. Buổi chiều hôm đó đã thành định mệnh cho một tình yêu. Một vòng hồ Tây, em muốn đi vòng nữa. Cả quãng đường chỉ có tiếng cười như thân từ lâu. Đi nữa chứ anh? Em hỏi. Tôi bảo ừ đi. Thế là lại đi. Trên đường Âu Cơ, một chiếc xe tải đi sát vào lề đường, xe chúng tôi dài nên không tránh kịp, loạng choạng rồi đâm vào lề, mỗi người chỉ xước tí da. Tiếng cười vẫn không dứt.

Đêm đó về, tôi mông lung nghĩ tới người con gái duyên dáng tên Thy có mái tóc vàng hơi xoăn và tôi... làm thơ.

Chiều hôm sau gặp nhau, tôi trao tặng Thy bài thơ. Thy đọc xong rồi cười. Chúng tôi lại thuê chung một chiếc xe đạp đôi. Chủ hiệu bảo: “Đã thân nhau rồi cơ đấy, lớp trẻ có khác, cái gì cũng nhanh”. Hai đứa nhìn nhau cười ha hả.

Đường vòng quanh hồ Tây bỗng trở nên quen thuộc. Từ đường Thanh Niên lên Yên Phụ, qua Âu Cơ, đi ra Lạc Long Quân rồi quay lại Thụy Khuê. Hành trình của vòng bánh xe đều đều lăn trên những con đường tôi đã trải thơ. Mỗi chiều đạp xe cùng nhau tôi đều ghi lại bằng những câu thơ tình tứ. Thy bảo: “Anh lãng mạn thế này, cuộc sống lúc nào cũng có niềm vui”. “Đúng rồi, sau này anh rước em về, lối em đi anh trải đầy thơ, anh còn mang xe đạp đôi đón em nữa”, “Vậy thì nhà gái sẽ cười chết, cái thời nào rồi mà còn xe đạp!”. Tôi nói: “Chỉ chúng mình hiểu nhau là được. Vì em là nàng thơ của anh nên cả đời anh đọc thơ cho em”.

Tôi đi làm và đi học cũng bằng chiếc xe đạp nửa tây nửa ta. Xe đạp không yếm mác, người ta gọi là “xe cởi truồng”, gò lưng xuống mà đạp. Tôi thường đến thăm và đón em đi chơi cũng bằng chiếc xe đạp này.

Có lúc vui tôi hỏi em rằng, tại sao em lại thích ngồi xe đạp của một gã làm thơ lãng mạn nghèo nàn, trong khi ở thời buổi này người ta đưa đón nhau bằng ô tô, xe máy. Thy nói, bao giờ em kiếm được anh chàng đưa đón bằng xe máy em sẽ bỏ anh. Tôi nói, em sẽ nhớ anh và thơ anh đến phát khóc, em không xa anh được đâu.

Tôi biết, bạn bè nhìn em, có đứa còn chế nhạo, sao con Thy lại đi yêu một thằng nhà nghèo. Học ngành ngân hàng thì cũng phải kiếm anh chàng bưu điện hay kinh tế. Bây giờ con gái thường chọn những anh chàng học và làm nghề có tương lai, kiếm được nhiều tiền. Em cãi lại. Lúc gay gắt lên, em bảo chúng mày kệ tao, tao thích thế. Chúng mày không ưa thì thôi.

Tôi nhìn em hồi lâu, sao em đáng yêu đến thế. Phải thưởng em một chầu xe đạp thôi. Hai đứa lại rủ nhau đi thuê xe, lúc nghỉ, ngồi lại quán ốc bên đường Hồ Tây, ăn thì ít nhưng ngắm người, ngắm xe thì nhiều. Giữa đô thị đang tấp nập người và xe trong bộn bề công việc lo toan, có hai kẻ rong chơi bằng xe đạp. Nhiều ánh mắt nhìn chúng tôi như một vật thể lạ đến từ hành tinh khác.

Một chiều mưa Thy ốm, không đi xe đạp đôi, tôi đến thăm em. Thấy đầu tôi ướt, em thốt lên sao anh ăn mặc phong phanh thế, chẳng chịu mặc áo mưa. Tôi vào phòng, bảo anh đến đây để em sang bớt cái sốt cho anh, em đỡ nóng còn anh đỡ lạnh. Em gắt lên “Cái anh ngốc này!”. Tôi đọc một đoạn thơ để lấp cái gắt gỏng đáng yêu kia. Em đưa tay ra hứng mưa, bảo em sẽ nhớ mãi chiều mưa này. Rồi em khoe, hôm nay em học đến giá trị thặng dư đấy. Anh có nghĩ tình yêu cũng có giá trị thặng dư không? Tôi chỉ cười, không trả lời. Em bảo đúng là “nhà thơ” có khác, nhắc đến kinh tế là im thin thít.

Thầy giáo của tôi làm thơ, ông luôn tự hào về mối tình xưa cũ của mình. Một mối tình đầy thơ và sóng gió. Người thầy yêu cũng giống như cô gái trong kịch bản thầy đã viết. Về sau cô ta đã theo một người đàn ông khác. Người con gái thầy yêu cũng thế. Bây giờ thầy chỉ có một mình dạy học và làm thơ, cuộc sống rất vui vẻ. Thầy luôn yêu đời và quý mến học trò. Có thể con gái không thích người làm thơ vì họ lãng mạn, mây gió và đặc biệt là họ nghèo không bảo đảm cho người bạn đời có một cuộc sống đầy đủ. Gặp chúng tôi, thầy hay bảo: “Đừng nản, các cậu còn trẻ, làm thơ nhưng vẫn nhiều em theo”. Hôm tôi đưa Thy đến thăm thầy, thầy nói với Thy: “Thằng Khánh thế mà tài, tài mới được em yêu”. Em cười. Khen thầy đẹp trai và lãng mạn nữa.

Khi Thy khỏi ốm, tôi đưa em về quê bằng chiếc xe đạp “cởi truồng” của mình. Em ngồi lên đòn ngang phía trước. Con đường về quê chỉ có 30 km. Không xa. Trước khi đi em hỏi:

- Anh có ngại không?

Tôi lắc đầu bảo không, rồi hỏi lại:

- Vậy em có ngại không?

Em cũng lắc đầu. Lát sau đổi ý, em bảo có ngại. Ngại vì không biết bố tôi sẽ nói thế nào. Đi giữa đường, em quay lại hỏi:

- Nếu bố anh cấm chúng mình quan hệ với nhau thì sao?

- Em này, làm sao bố anh lại cấm? Bố anh là người rất tâm lý.

Tôi vừa đi vừa huýt sáo cho em vui. Con đường quen thuộc về nhà ngắn dần. Thoáng chốc đã thấy cánh đồng quê trước mặt. Đêm ấy em đã ngủ nhưng bố còn thức. Bố gọi tôi ra sân nhắc nhở, giọng buồn buồn:

- Bố không có ý nhiều chuyện, cũng chẳng phải tướng số gì. Nhưng bố nhìn con Thy không hợp với con. Đôi mắt nó sắc, mệnh nó trái với mệnh con, lấy nhau sẽ không hợp. Trông nó tiểu thư lắm, mà nhà mình
thì... Mày theo bố, làm thơ. Cuộc đời mày cũng gian truân lắm con ạ!

Tôi thấy lo. Dẫu rằng tôi chẳng tin những điều đó bởi Thy rất yêu tôi. Nhưng bố tôi chưa nói sai bao giờ. Bố tôi ngày xưa nổi tiếng lãng mạn, một nhà thơ cầm súng, đi khắp các chiến trường. Bố gặp mẹ ở chiến trường. Mẹ lúc ấy là thanh niên xung phong mê thơ của anh chàng gầy còm là bố tôi. Bố kể lại rằng, khi ấy đi lại khó khăn lắm. Nhưng hai người vẫn thường xuyên gặp nhau. Đúng vào dịp kỷ niệm một năm đất nước hoàn toàn thống nhất thì bố mẹ tôi cưới nhau. Sau này, khi đã có tuổi bố vẫn thường đèo mẹ đi ngoài đê đến đầm sen ngắm cảnh và làm thơ. Chỉ tiếc mẹ đã mất sau một căn bệnh hiểm nghèo, không còn được cùng bố an hưởng hạnh phúc tuổi già.

Bố nghèo nhưng mẹ không bao giờ thôi yêu. Tình yêu ấy khiến cho tôi kính nể. Khi còn sống, mẹ bảo: “Cuộc sống giàu niềm vui và hạnh phúc mới có ý nghĩa, tuy vật chất có nghèo nàn”. Tôi làm thơ, cũng mong mình sẽ có một người vợ cùng sống cuộc sống có ý nghĩa bằng niềm vui do hai người tạo ra. Và tôi đã có Thy ngự trị trong tim.

Những ngày sau, tôi và Thy vẫn đi với nhau, vẫn dạo phố bằng xe đạp đôi quanh hồ Tây. Thi thoảng tôi vẫn đứng đợi em ngoài cổng trường. Bạn em cười vì thấy riêng mình tôi đón người yêu bằng xe đạp. Hai đứa cứ nhắc nhau ghi lại những hình ảnh tuyệt đẹp này để mai sau nhớ đến như một kỷ niệm. Những góc phố, những hàng cây liêu xiêu, những vòng xe quay, những quán cóc nhỏ bé, hàng ốc luộc quen thuộc. Tất cả những bình dị đó khi có ánh sáng tình yêu bỗng trở nên đẹp lạ lùng. Chúng sẽ được nhắc lại sau này, khi hai đứa thành vợ chồng, ngồi thủ thỉ với nhau và cười.

Những ngày bên nhau qua đi êm đềm như một buổi chiều dạo xe. Em sắp phải theo gia đình vào TPHCM. Thy nói rằng, bố mẹ em muốn em đi xin việc làm trong đó. Tôi buồn chẳng muốn làm thơ. Ngày em đi, tôi không được đèo em bằng chiếc xe đạp của mình. Đã có ô tô chở cả nhà ra sân bay. Tôi ngẩn ngơ, nghĩ rằng em đi rồi nay mai em lại về.

Thành phố vào xuân, cảnh vật ngủ vùi trong màn mưa xuân li ti và hương hoa ngào ngạt. Nhưng không có em. Tôi không đi dạo xe mỗi chiều nữa. Những đêm về da diết nhớ, tôi lại làm thơ. Chiếc xe đạp cọc cạch chỏng chơ góc nhà. Tôi nhìn nó rồi cười, nụ cười méo xệch. Nhiều lần trong mưa, tôi đạp xe đến nhà em, đến nơi mới nhớ ra là em đã xa rồi. Tình yêu đôi khi làm cho con người lú lẫn. Tôi ngậm ngùi quay về. Ba tháng trời qua đi, em gọi điện ba lần, bảo em mới vào nên còn nhiều chuyện dang dở và phải làm gấp. Đến tháng thứ tư vì nhớ quá nên tôi đã quyết định vào TPHCM. Em cản. Tôi hỏi, em chỉ nói anh chưa vào được.

Không phải là chuyện trong kịch bản mà là sự thật. Một sự thật phũ phàng. Tôi đã tìm được nhà em nhờ vào địa chỉ mà em nói trong cuộc gọi lần trước. Cửa khóa bên trong. Tôi quay đi. Buổi tối, tôi lại đến bằng chiếc xe đạp mượn của người bạn. Căn phòng trên gác sáng đèn. Tôi đã nhìn thấy em và một người đàn ông khác. Tôi hiểu vì sao em không muốn tôi vào với em. Có lẽ bố tôi đã đúng. Câu nói sâu xa của thầy giáo cũng đúng. Thầy không viết kịch bản để tự an ủi mình. Có những điều tưởng đã trong tầm tay nhưng rồi vẫn vuột mất.

Em không biết là tôi đã tìm em, càng không biết vì em mà bây giờ tôi phải lang thang trên những con phố Sài Gòn xa lạ. Phố thì tấp nập mà tôi cô đơn và thờ thẫn quá. Những lời hứa đợi chờ ngày trước đã thoảng như gió bay.

64

Dec 12, 2006

MẸ LẠNH LẮM PHẢI KHÔNG?



Vào một đêm Giáng sinh, một thiếu phụ đang mang thai lần bước đến nhà một người bạn nhờ giúp đỡ. Con đường ngắn dẫn đến nhà người bạn có một cái mương sâu với cây cầu bắc ngang. Người thiếu phụ trẻ bị trợt chân té chúi về phía trước, cơn đau đẻ quặn lên. Cô ta hiểu rằng mình không thể đi xa hơn được nữa. Cô bò xuống phía dưới cầu ...

Ðơn độc giữa những cột chân cầu, cô ta đã sanh ra một bé trai. Không có gì ngoài chiếc áo bông dày đang mặc, cô lần lượt gỡ bỏ áo quần và quấn quanh mình đứa con bé xíu, vòng từng vòng giống như chiếc kén. Rồi tìm được một miếng bao tải, cô trùm lên người và kiệt sức bên cạnh con.

Sáng hôm sau, một người phụ nữ lái xe đến gần chiếc cầu, chiếc xe bị chết máy. Bước ra khổi xe và băng qua cầu, bà ta nghe một tiếng khóc yếu ớt phía dưới. Bà chui xuống cầu để tìm. Nơi đó bà nhìn thấy một đứa bé nhỏ xíu, đói lả nhưng vẫn còn hơi ấm. Còn người mẹ thì đã chết cóng .

Bà đem đứa bé về nuôi dưởng. Khi lớn lên, cậu thường đòi mẹ nuôi kể lại câu chuyện đã tìm thấy mình. Vào một ngày lễ Giáng sinh, đó là sinh nhật thứ 12 của cậu bé, cậu nhờ mẹ nuôi đưa đến mộ người mẹ tội nghiệp. Khi đến nơi, cậu xin mẹ nuôi đợi ở xa trong lúc cậu cầu nguyện bên mộ. Cậu bé đứng cạnh ngôi mộ, cúi đầu và khóc. Rồi cậu bắt đầu cởi quần áo. Bà mẹ nuôi nhìn sững sờ khi cậu bé lần lượt cởi bỏ tất cả và đặt lên mộ mẹ mình.

"Chắc là cậu sẽ không cởi bỏ tất cả - bà mẹ nuôi nghĩ - cậu sẽ lạnh cóng !". Song cậu bé đã tháo bỏ tất cả và đứng run rẩy. Bà mẹ nuôi đến bên cạnh để biểu cậu bé mặc đồ trở lại. Bà nghe cậu bé gọi người mẹ, mà cậu chưa bao giờ biết: "Mẹ đã lạnh hơn con lúc này, phải không mẹ?" và cậu bé òa khóc.

1471

Không tưởng



Bác bảo vệ trường bắt quả tang Tèo đang trèo tường liền bảo:

- Bác hi vọng đây là lần cuối cùng bác nhìn thấy cháu trèo tường!

Tèo (ngạc nhiên): - Ơ! Thế là bác đã xin nghỉ không làm bảo vệ nữa ạ?



o O o



Hai vợ chồng trò chuyện, người chồng:

- Này em, từ ngày chúng ta dùng tiền để thưởng, con trai mình học khá hẳn lên, nhiều điểm 10 lắm, em thấy sao?

Bà vợ:

- Theo em thì hẳn là nó đã đem tiền chia cho thầy giáo một nửa rồi!

1162

Dị ứng



Bốn người đàn bà đang chơi bài Bridge và tán gẫu. Một người nói:

- Ông xã em mới từ Paris trở về. Anh ấy đã mua cho em hàng đống nước hoa. Hãy tưởng tượng mà xem, những hai bốn chai, mỗi chai chứa đến 170ml với giá 50 đô la mỗi ml, thật là một món quà tuyệt hảo. Nhưng em lại không dùng được vì em chợt phát hiện ra rằng em bị dị ứng với nước hao!

Một người đàn bà khác bảo:

- Chứng bệnh dị ứng thật là khủng khiếp. Ông xã em đã mua cho em một chiếc áo choàng bằng lông chồn. Em không thể mặc được chiếc áo đó vì em dị ứng với lông chồn đấy!

Người đàn bà thứ ba cất giọng oang oang nói:

- Thì em cũng vậy đấy. Ông xã em đã mua cho em chiếc vòng nạm kim cương đẹp này, nhưng em đâu có đeo được vì em dị ứng với kim cương!

Người đàn bà thứ tư bỗng chạy xồng xộc vào nhà tắm, ở đó bà ta ói tất cả những gì đã ăn trong bữa trưa. Các bà hỏi:

- Gớm quá chừng đi, cái gì bỗng dưng lại làm cho chị phát mửa lên vậy?

Người đàn bà ấy bảo:

- Em nghĩ chỉ vì em dị ứng với những chuyện vô lý!

1049

Dec 11, 2006

Nghệ thuật quảng cáo



Trong một nghĩa trang, người ta nhìn thấy 3 ngôi mộ gần nhau. Ngôi thứ nhất ghi: “Đây là mộ của cô Răng trắng vì cô dùng sản phẩm thuốc đánh răng của hãng X”. Ngôi thứ hai ghi: “Đây là mộ của ông Mặt sạch vì ông dùng dao cạo râu của hãng Y”. Ngôi mộ thứ ba ghi: “Đây là mộ của Không ai cả, vì cha mẹ họ đã dùng thuốc tránh thai của hãng Z”.
1437

Dec 9, 2006

Học ngoại ngữ bằng... thơ



Học ngoại ngữ bằng... thơ


Long dài, short ngắn, tall cao
Here đây, there đó, which nào, where đâu
Sentence có nghĩa là câu
Lesson bài học, rainbow cầu vồng

Husband là đức ông chồng
Daddy cha bố, please don't xin đừng
Darling tiếng gọi em cưng
Merry vui thích, cái sừng là horn

Rách rồi xài đỡ chữ torn
To sing là hát, a song một bài
Nói sai sự thật to lie
Go đi, come đến, một vài là some

Đứng stand, look ngó, lie nằm
Five năm, four bốn, hold cầm, play chơi
One life là một cuộc đời
Happy sung sướng, laugh cười, cry kêu

Lover tạm dịch ngừơi yêu
Charming duyên dáng, mỹ miều graceful
Mặt trăng là chữ the moon
World là thế giới, sớm soon, lake hồ

Dao knife, spoon muỗng, cuốc hoe
Đêm night, dark tối, khổng lồ giant
Fund vui, die chết, near gần
Sorry xin lỗi, dull đần, wise khôn

Burry có nghĩa là chôn
Our souls tạm dịch linh hồn chúng ta
Xe hơi du lịch là car
Sir ngài, Lord đức, thưa bà Madam

Thousand là đúng... mười trăm
Ngày day, tuần week, year năm, hour giờ
Wait there đứng đó đợi chờ
Nightmare ác mộng, dream mơ, pray cầu

Trừ ra except, deep sâu
Daughter con gái, bridge cầu, pond ao
Enter tạm dịch đi vào
Thêm for tham dự lẽ nào lại sai

Shoulder cứ dịch là vai
Writer văn sĩ, cái đài radio
A bowl là một cái tô
Chữ tear nước mắt, tomb mồ, miss cô

Máy khâu dùng tạm chữ sew
Kẻ thù dịch đại là foe chẳng lầm
Shelter tạm dịch là hầm
Chữ shout là hét, nói thầm whisper

What time là hỏi mấy giờ
Clear trong, clean sạch, mờ mờ là dim
Gặp ông ta dịch see him
Swim bơi, wade lội, drown chìm chết trôi

Mountain là núi, hill đồi
Valley thung lũng, cây sồi oak tree
Tiền xin đóng học school fee
Yêu tôi dùng chữ love me chẳng lầm

To steal tạm dịch cầm nhầm
Tẩy chay boycott, gia cầm poultry
Cattle gia súc, ong bee
Something to eat chút gì để ăn

Lip môi, tongue lưỡi, teeth răng
Exam thi cử, cái bằng licence...
Lovely có nghĩa dễ thương
Pretty xinh đẹp thường thường so so

Lotto là chơi lô tô
Nấu ăn là cook, wash clothes giặt đồ
Push thì có nghĩa đẩy, xô
Marriage đám cưới, single độc thân

Foot thì có nghĩa bàn chân
Far là xa cách còn gần là near
Spoon có nghĩa cái thìa
Toán trừ subtract, toán chia divide

Dream thì có nghĩa giấc mơ
Month thì là tháng, thời giờ là time
Job thì có nghĩa việc làm
Lady phái nữ, phái nam gentleman

Close friend có nghĩa bạn thân
Leaf là chiếc lá, còn sun mặt trời
Fall down có nghĩa là rơi
Welcome chào đón, mời là invite

Short là ngắn, long là dài
Mũ thì là hat, chiếc hài là shoe
Autumn có nghĩa mùa thu
Summer mùa hạ, cái tù là jail

Duck là vịt, pig là heo
Rich là giàu có, còn nghèo là poor
Crab thì có nghĩa con cua
Church nhà thờ đó, còn chùa temple

Aunt có nghĩa dì, cô
Chair là cái ghế, cái hồ là pool
Late là muộn, sớm là soon
Hospital bệnh viẹn, school là trường

Dew thì có nghĩa là sương
Happy vui vẻ, chán chường weary
Exam có nghĩa kỳ thi
Nervous nhút nhát, mommy mẹ hiền.

Region có nghĩa là miền,
Interupted gián đoạn còn liền next to.
Coins dùng chỉ những đồng xu,
Còn đồng tiền giấy paper money.

Here chỉ dùng để chỉ tại đây,
A moment một lát còn ngay ringht now,
Brothers-in-law đồng hao.
Farm-work đòng áng, đồng bào Fellow-countryman

Narrow-minded chỉ sự nhỏ nhen,
Open-hended hào phóng còn hèn là mean.
Vẫn còn dùng chữ still,
Kỹ năng là chữ skill khó gì!

Gold là vàng, graphite than chì.
Munia tên gọi chim ri
Kestrel chim cắt có gì khó đâu.
Migrant kite là chú diều hâu
Warbler chim chích, hải âu petrel

Stupid có nghĩa là khờ,
Đảo lên đảo xuống, stir nhiều nhiều.
How many có nghĩa bao nhiêu.
Too much nhiều quá, a few một vài

Right là đúng, wrong là sai
Chess là cờ tướng, đánh bài playing card
Flower có nghĩa là hoa
Hair là mái tóc, da là skin

Buổi sáng thì là morning
King là vua chúa, còn Queen nữ hoàng
Wander có nghĩa lang thang
Màu đỏ là red, màu vàng yellow

Yes là đúng, không là no
Fast là nhanh chóng, slow chậm rì
Sleep là ngủ, go là đi
Weakly ốm yếu healthy mạnh lành

White là trắng, green là xanh
Hard là chăm chỉ , học hành study
Ngọt là sweet, kẹo candy
Butterfly là bướm, bee là con ong

River có nghĩa dòng sông
Wait for có nghĩa ngóng trông đợi chờ
Dirty có nghĩa là dơ
Bánh mì bread, còn bơ butter

Bác sĩ thì là doctor
Y tá là nurse, teacher giáo viên
Mad dùng chỉ những kẻ điên,
Everywhere có nghĩa mọi miền gần xa.

A song chỉ một bài ca.
Ngôi sao dùng chữ star, có liền!
Firstly có nghĩa trước tiên
Silver là bạc, còn tiền money

Biscuit thì là bánh quy
Can là có thể, please vui lòng
Winter có nghĩa mùa đông
Iron là sắt còn đồng copper

Kẻ giết người là killer
Cảnh sát police, lawyer luật sư
Emigrate là di cư
Bưu điện post office, thư từ là mail

Follow có nghĩa đi theo
Shopping mua sắm còn sale bán hàng
Space có nghĩa không gian
Hàng trăm hundred, hàng ngàn thousand

Stupid có nghĩa ngu đần
Thông minh smart, equation phương trình
Television là truyền hình
Băng ghi âm là tape, chương trình program

Hear là nghe watch là xem
Electric là điện còn lamp bóng đèn
Praise có nghĩa ngợi khen
Crowd đông đúc, lấn chen hustle

Capital là thủ đô
City thành phố, local địa phương
Country có nghĩa quê hương
Field là đồng ruộng còn vườn garden

Chốc lát là chữ moment
Fish là con cá, chicken gà tơ
Naive có nghĩa ngây thơ
Poet thi sĩ, great writer văn hào

Tall thì có nghĩa là cao
Short là thấp ngắn, còn chào hello
Uncle là bác, elders cô.
Shy mắc cỡ, coarse là thô.

Come on có nghĩa mời vô,
Go away đuổi cút, còn vồ pounce.
Poem có nghĩa là thơ,
Strong khoẻ mạnh, mệt phờ dog-tiered.

Bầu trời thường gọi sky,
Life là sự sống còn die lìa đời
Shed tears có nghĩa lệ rơi
Fully là đủ, nửa vời by halves

Ở lại dùng chữ stay,
Bỏ đi là leave còn nằm là lie.
Tomorrow có nghĩa ngày mai
Hoa sen lotus, hoa lài jasmine

Madman có nghĩa người điên
Private có nghĩa là riêng của mình
Cảm giác là chữ feeling
Camera máy ảnh hình là photo

Động vật là animal
Big là to lớn, little nhỏ nhoi
Elephant là con voi
Goby cá bống, cá mòi sardine

Mỏng mảnh thì là chữ thin
Cổ là chữ neck, còn chin cái cằm
Visit có nghĩa viếng thăm
Lie down có nghĩa là nằm nghỉ ngơi

Mouse con chuột, bat con dơi
Separate có nghĩa tách rời, chia ra
Gift thì có nghĩa món quà
Guest thì là khách chủ nhà house owner

Bệnh ung thư là cancer
Lối ra exit, enter đi vào
Up lên còn xuống là down
Beside bên cạnh, about khoảng chừng

Stop có nghĩa là ngừng
Ocean là biển, rừng là jungle
Silly là kẻ dại khờ,
Khôn ngoan smart, đù đờ luggish

Hôn là kiss, kiss thật lâu.
Cửa sổ là chữ window
Special đặc biệt normal thường thôi
Lazy... làm biếng quá rồi
Ngồi mà viết tiếp một hồi die soon
Hứng thì cứ việc go on,
Còn không stop ta còn nghỉ ngơi!
50

Dec 7, 2006

Cổ Tích Biển



Thuở xa xưa, trăng ghé chơi bến nước,
Thương nước buồn, trăng cúi ghé môi hôn
Nước e lệ rũ tóc che sóng hồn
Nên nụ hôn chập chững như vừa chớm ...

Trăng lẳng lơ khép mây che tình trộm,
Nước thẹn thùa ngả sóng đón men say ...
Trăng hải hồ dong ruổi khắp đó đây ...
Nên hôn nước bằng nụ hôn từng trải ...

Lần đầu tiên nếm biết môi tình ái,
Nước hồn nhiên choàng níu cổ trăng mơ ...
Trăng già dặn cười mỉm trên sóng chờ ...
"Anh yêu em, hỡi người yêu ngư nữ ..."

Chuyện tình buồn như những chuyện quá khứ,
Trăng mặc áo bạc màu lẩn trong mây ...
Nước ngơ ngẩn giữa dương trần đắng cay ...
Thân ngọc ngà biến thành ngàn lệ mặn ...

Chiều hôm nay, bãi cát dài thăm thẳm ...
Có biển chờ, trăng có ghé về không ?

1503

"Văn" của người nổi tiếng



Thượng đế quyết định chấm dứt cuộc sống trên trái đất. Người truyền đạt ý tưởng của mình cho ba nhân vật có ảnh hưởng nhất trong lĩnh vực truyền thông: Ted Turner, Cameron và Bill Gates. Ted Turner ngay lập tức truyền đi hình ảnh và bài phát biểu của mình trên toàn hệ thống của hãng CNN, ông ta nói:
- Tôi có tin tốt và tin xấu. Tin tốt là Thượng đế có thật. Tin xấu là Người quyết định chấm dứt cuộc sống trên trái đất. Cameron mời tất cả đạo diễn của Hollywood đến và thông báo:
- Tôi có tin xấu và tin xấu hơn. Tin xấu là các hình tượng Thượng đế mà chúng ta xây dựng từ trước đến nay đều không đúng với nguyên mẫu. Tin xấu hơn là chúng ta không còn thời gian để làm một bộ phim mới về Người. Còn Bill Gates khởi đầu thông điệp của mình trên mạng Internet:
- Tôi có tin tốt và tin tốt hơn. Tin tốt là Thượng đế công nhận tầm quan trọng của Internet. Tin tốt hơn là Người sẽ đưa chúng ta đến một thế giới ảo mới, hoàn hảo và thật 100%.
1455

Quá già



Thầy giáo đang giải thích cho học sinh hiểu thời gian đã làm thay đổi các quan niệm của xã hội về cái đẹp và các chuẩn mực của nó như thế nào:

- Chúng ta hãy thử nhớ lại Hoa hậu Mỹ năm 1931, cô ta cao 1,55 m cân nặng 49 kg, các số đo: 76-64-81. Theo các em, liệu cô ta có cơ may không, nếu dự cuộc thi sắc đẹp vào năm 2002 này?

- Thưa thầy, cô ta sẽ không có một cơ may nào hết ạ!

- Tại sao?

- Thưa thầy, đơn giản vì cô ta đã quá già rồi ạ!

1130

Dec 6, 2006

Đã chuyển sang "hệ khác"



Một bà goá đi gọi hồn chồng:
- Anh đó phải không, Bert?
- Ừ.
- Anh có khỏe không?
- Khỏe, người nhẹ lắm.
- Thế anh làm gì ở đó?
- Ôi, tuyệt lắm! Suốt ngày đi bơi và bắt cá.
- Có cần em gửi xuống thứ gì không?
- Giun.
- Anh nuôi cá cảnh ư? Hay làm mồi câu?
- Để ăn, suốt ngày xơi cá, thèm thịt quá!
- Khiếp! Anh đùa à, ai lại đi ăn giun?
- Quên không nói cho em, anh bây giờ hoá thành con vịt rồi.
2253

Chưa ngán ai bao giờ



Có một thằng bé chạy vào chùa nghịch ngợm.Thế là nó bị các nhà sư đánh cho một trận. Nó chạy về nhà khóc và gọi bố nó đến. Bố nó gặp nhà sư và nói:
- Tại sao ông chửi con tôi?
- Thiện tai thiện tai bần tăng chưa chửi ai bao giờ, nhà sư nói.
- Thế tại sao ông đánh con tôi?
- Thiện tai thiện tai bần tăng chưa đánh ai bao giờ.
- Cái ông này, đã đánh con tôi tại sao lại ko nhận. Có giỏi thì đánh tôi đây này.
- Thiện tai thiện tai bần tăng chưa ngán ai bao giờ
1373

Tư tưởng lớn gặp nhau



Một tối nọ ở công viên:


Nàng: Anh yêu ơi, anh đang nghĩ gì thế?


Chàng: Anh cũng đang nghĩ như em vậy.


Nàng: Eo ơi, bậy thế!

1227

Ba anh đầy tớ



Một lão nhà giàu có ba anh đầy tớ, nhưng mỗi anh một tính, anh thì rất cẩn thận, anh thì rất lo xa, còn một anh thì rất lễ phép. Lão lấy làm đắc ý lắm.


Một hôm, cậu con cả lão ngã xuống ao, anh cẩn thận trông thấy, chạy về thưa với chủ:


- Thưa ông, cậy cả nhà ngã xuống ao, xin ông cho phép con đi vớt cậu lên ạ!


Vớt lên được, thì cậu cả đã chết ngoẻo rồi. Lão liền vác gậy đuổi, anh cẩn thận chạy biến. Lão sai anh lo xa đi mua áo quan về liệm. Ðược một lúc, anh này mang về hai cái. Thấy thế ông chủ trừng mắt:


- Tại sao mua những hai cái, thằng kia?


Anh này trả lời:


- ấy, con mua phòng xa, nhỡ cậu hai có chết đuối thì có cái dùng ngay.


Lão lại vác gậy đuổi đi.


Chỉ còn anh lễ phép vẫn được lòng chủ. Một hôm, anh ta cùng một người nữa cáng chủ nhà đi chơi. Ðến chỗ lội bùn ngập đến lưng ống chân mà anh ta vẫn vui vẻ không một lời phàn nàn. Thấy thế ông chủ khen:


- Anh khá lắm, biết chịu khó. Cứ cố đi rồi đến tết ta sẽ may cho bộ cánh.


Vừa nói đến đấy thì anh đầy tớ dặt cáng xuống giữa đống bùn khoanh tay lễ phép nói:


- Con xin đa tạ ông!


[

851

Dec 4, 2006

Lộc Tình



Tôi đã đến Hà Nội vào dịp cuối đông. Tôi muốn được thấy tận mắt những trái sấu, muốn được ngửi tận mũi hương hoa sữa. Nhưng rất tiếc vào mùa ấy những cây sấu, cây hoa sữa chỉ còn lá xanh rì. Viết về món ăn ngon ở Hà Nội đã có nhà văn Thạch Lam, Vũ Bằng với những trang viết tuyệt vời. Tôi đành chọn đối tượng khác - viết về người ăn.


Truyện này khi đăng trên báo Mực Tím đã được đổi tựa là “Người đốt cháy bông hồng”. Tôi vốn không thích “đốt” bất cứ cái gì, ngay cả những lá thư tình cũ cân ký lô bán cũng có giá, nên tôi lấy lại tựa cũ: “Lộc Tình”. Ai trong chúng ta mà không thích “Lộc”?



Nhà Trung ở trong khu tập thể. Leo lên lầu ba, tôi gõ cửa phòng 306. Một cô bé tóc ngắn mặc áo len màu vàng chanh mở cửa . Khi tôi hỏi thăm Trung, em hỏi lại:


- Xin lỗi, ông ở Sài Gòn mới ra ?


Tôi gật đầu . Cô bé mời tôi vào phòng rồi chạy đi lấy một lá thư để trên bàn giao cho tôi.


- Anh Trung gửi cho ông.


Tôi mở lá thư ra đọc:


"Biền thân.


Đã nhận được điện tín của cậu báo ngày ra Hà Nội để viết bài về Đại hội sinh viên. Nhưng vì phải đi công tác đột xuất viết phóng sự buôn hàng lậu ở cửa khẩu Móng Cái, nên mình rất tiếc đã không thể hướng dẫn cậu đi thăm Hà Nội . Mình đã nhờ nhỏ em Minh Thụy đang là học viên một lớp hướng dẫn du lịch sẽ "thực tập" hướng dẫn cậu . Hẹn gặp nhau vào tuần tới nếu cậu chưa vào lại Sài Gòn.


Minh Trung."


Đọc xong lá thư, tôi ngước nhìn người đưa thư hỏi:


- Xin lỗi em là Minh Thụy ?


Cô bé gật đầu cười hỏi:


- Ông định kinh doanh ngành ăn uống?


- Sao em lại nghĩ vậy ?


- Vì anh Trung đã dặn em chỉ hướng dẫn ông đi "tham quan" những nơi có món ăn đặc biệt của Hà Nội.


Tôi bật cười giải thích:


- Khi ở Sài Gòn tôi rất thích cuốn "Thương nhớ mười hai" của nhà văn Vũ Bằng. Ông ấy đã thương nhớ người yêu ở Hà Nội qua mười hai món ăn đặc biệt của mười hai tháng. Tôi cũng sẽ thương nhớ Hà Nội qua một món ăn đặc biệt nào đó, nên đã viết thư nói ý định nhờ Trung hướng dẫn đi ăn.


- Nhưng Hà Nội cũng có nhiều thắng cảnh đáng nhớ lắm chứ.


- Thật đáng tiếc! Chúng lại không "ăn" được nên tôi khó mà nhớ lâu.


Cô bé chép miệng, thở dài:


- Thật đáng tiếc! Bao tử của ông lại nằm trong đầu của ông.


Con gái Hà Nội có khác. Ăn nói luôn hơn người . Tôi nghĩ cần phải thận trọng khi đối đáp với "cô Bắc kỳ nho nhỏ" này.


- Bây giờ em có thể hướng dẫn tôi đi ăn tối.


- Ông muốn đi ăn cơm "bụi"?


- Cơm bình dân ở đâu mà chẳng có. Tôi muốn ăn một món ăn ngon và lạ.


- Xin ông đợi em một chút.


Năm phút sau, tôi cùng Thụy đi xuống thang lầu . Em đã đội thêm chiếc mũ len màu xanh nhạt và quấn khăn quàng cổ có những ô vuông màu đỏ. Hà Nội vào cuối đông trời se lạnh, nhưng tôi vẫn quen mặc chiếc áo gió mỏng màu xám vì nó có túi rộng để đựng chiếc máy ảnh mini.


Thụy đi lấy chiếc xe Honda gửi ở nhà giữ xe của khu tập thể. Và rồi dưới sự hướng dẫn của Thụy, tôi đã lái xe đến phố Chả Cá. Em chỉ cho tôi một nhà hàng và nói:


- Đây là nơi bán một món ăn nổi tiếng.


Tôi nhìn dòng chữ viết trên cửa kính "Cha Ca La Vong". Phía trước nhà hàng đậu đầy xe dream và xe hơi . Một vài khách nước ngoài đứng lóng ngóng trước cửa vì bên trong đã đông khách. Tôi nói:


- Thôi chúng ta đi chỗ khác.


- Ông không thích món chả cá Lã Vọng à?


- Tôi không thích vào nơi đông đúc. Ăn uống mà phải xếp hàng chờ đợi thì thật mệt. Vả lại tên bảng hiệu đã mất dấu, chắc mùi vị món ăn cũng mất theo.


- Ông khó tính thế. Vậy chúng ta đi ăn chỗ khác.


Thụy dắt tôi đi ăn bún thang rồi hướng dẫn tôi chạy xe đến phố Hàng Trống. Bộ "trống" mà cũng ăn được hay sao ?


Tôi định hỏi nhưng sợ Thụy chê "ngố" nên đành "im lặng là vàng". Chúng tôi dừng lại ở quán bánh gối . Những chiếc bánh có hình như chiếc gối thu nhỏ bằng ba ngón tay làm bằng bột có nhân thịt được chiên dòn rồi ăn với rau sống và nước mắm chua ngọt.


Tôi nói đùa:


- Sao người ta không đặt tên là bánh "trống" cho hợp với tên phố? Em xem nó cũng giống hình cái trống thu nhỏ lại.


- Thì ông cũng biết những cái gì "nhỏ" thường giống nhau . Người ta chỉ khác nhau ở chỗ "lớn".


Tôi đã dặn lòng phải cẩn thận khi nói chuyện với cô bé. Vậy mà... có lẽ tại bánh gối chiên có nhiều dầu nên đã làm... lưỡi tôi trơn!


Ăn xong đĩa bánh gối, tôi hỏi:


- Em còn biết món ăn gì đặc biệt nữa không?


- Ông chưa no à?


- Đã thấm tháp gì đâu.


- Vậy thì đi tiếp.


Tôi lái xe chạy một vòng quanh Hồ Gươm. Đêm, nước mặt hồ xanh thẳm. Những tàng cây trên bờ hồ kêu lao xao khi gió mùa đông bắc thổi về. Và tôi khẽ rùng mình. Thụy đặt tay lên vai tôi hỏi:


- Ông lạnh rồi à?


Tôi cười nói:


- Tôi có chở tủ lạnh đâu mà lạnh. Tôi đang chở một lò sưởi chạy bằng "nhân điện".


Thụy vội bỏ tay khỏi vai tôi và nói:


- Ông hãy chạy quanh bờ hồ một vòng nữa.


- Em quên chỗ bán rồi à?


- Đấy là quán hàng rong. Họ đâu có bán nhất định một chỗ nào . A! Kia rồi.


Thụy chỉ một người đẩy xe hàng có ngọn đèn dầu treo ở phía trước. Người đó vừa dừng xe hàng bên bờ hồ, tôi phóng xe đến. Trong khi tôi dừng xe Honda, Thụy đã chạy đến nói chuyện với người bán hàng. Rồi em bưng hai cái chén đến đưa tôi một chén.


Tôi hỏi:


- Món gì vậy ?


- Lục tào xá.


Tôi đưa cái chén ra xem dưới ánh đèn vàng đục. Thì ra là món chè đậu xanh bột báng thiếu nước cốt dừa . Ăn xong chè tôi hỏi:


- Ở đây có món "xâu mín dìn" không?


- Có thể ở Sài Gòn người ta gọi tên món ăn đó khác với người Hà Nội . Ông hãy tả cho em biết, em sẽ chỉ chỗ bán.


- Đó là "xin miếng dầu". Em hãy chỉ chỗ cho tôi mua một chai dầu Nhị Thiên Đường. Tôi sợ tối nay sẽ bị đau bụng.


Suốt những ngày Đại hội, tôi đã phải làm việc tất bật. Phỏng vấn và ghi chép xong tôi phải viết bài rồi đến bưu điện gởi fax về tòa soạn. Tôi chỉ rảnh được buổi tối và Thụy đã hướng dẫn tôi đi ăn các món bánh tôm, quẩy nóng, gà tần, miến lươn.


Công việc xong. Hôm nay tôi hoàn toàn rảnh rỗi . Tôi nhờ Thụy dẫn đi mua một ít quà Hà Nội để sáng mai đáp chuyến bay sớm về Sài Gòn. Chúng tôi gởi xe và cùng đi bộ. Từ cửa hàng bách hóa tổng hợp Trư1846

Dec 3, 2006

Giúp Nhau



Một anh chàng dạo phố tình cờ gặp bạn cũ xa cách rất lâu. Anh vồ vập hỏi:

Hèn lâu mới gặp anh. Mạnh giỏi không?

Anh kia cũng vui vẻ đáp:

Bình yên. Tôi cũng mừng gặp lại anh.

Anh nọ nói:

May quá! Anh có thể giúp tôi một chút việc không?

Anh kia hơi ngạc nhiên hỏi:

Việc gì? Nếu được tôi sẵn sàng giúp anh.

Anh nọ tỏ vẻ mừng nói:

Tôi bỏ quên cái ví tiền ở nhà mà đang cần mua gầp một món đồ dùng lối 500 đồng, anh có cho tôi mượn được không?

Anh kia mỉm cười:

Rất tiếc tôi không có sẵn, nhưng tôi có cách giúp anh có ngay số tiền ấy.

Anh ta vừa thất vọng vội tươi tỉnh ngay.

Anh kia hỏi:

Anh có 5 đồng trong túi không?

Anh nọ đáp:

Có! Tôi có 10 đồng.

Anh kia nói:

Anh lên xe "Lam" về nhà lấy cái ví thì có ngay 500 đồng chứ khó khăn gì đâu.


2866

Dec 1, 2006

Giống mà lại khác



Vợ và chồng đi nghỉ ở hai nhà nghỉ khác nhau. Một thời gian sau đó bị lương tâm cắn rứt, họ tự thú trước mặt nhau. Anh chồng nói:
- Em yêu, anh phản bội em vẻn vẹn có hai lần. Lần đầu với một cô diễn viên, còn lần thứ hai với cô ghi tốc ký.
- Anh yêu, em cũng chỉ phản bội anh có hai lần. Lần đầu là với dàn nhạc nhà thờ, lần thứ hai là với một đội bóng.
2297

Nov 28, 2006

Chiếc Lá Đầu Tiên



Em thấy không, tất cả đã xa rồi
Trong tiếng thở của thời gian rất khẽ
Tuổi thơ kia ra đi cao ngạo thế
Hoa súng tím vào trong mắt lắm mê say .

Chùm phượng hồng yêu dấu ấy rời tay
Tiếng ve trong veo xé đôi hồ nước
Con ve tiên tri vô tâm báo trước
Có lẽ một người cũng bắt đầu yêu .

Muốn nói bao nhiêu, muốn khóc bao nhiêu
Bài hát đầu xin hát về trường cũ
Một lớp học bâng khuâng màu xanh rủ
Sân trường đêm rụng xuống trái bàng đêm.

Nỗi nhớ đầu anh nhớ về em
Nỗi nhớ trong tim em nhớ về với mẹ
Nỗi nhớ chẳng bao giờ nhớ thế
Bạn có nhớ trường, nhớ lớp, nhớ tên tôi ?

- "Có một nàng Bạch Tuyết, các bạn ơi !
Với lại bảy chú lùn rất quấy"
- "Mười đấy chứ ! Nhìn xem trong lớp ấy !"
(ơi những trận cười trong sáng đó lao xao).
Những chuyện năm nao, những chuyện năm nào
Cứ xúc động, cứ xôn xao biết mấy
Mùa hoa mơ rồi đến mùa hoa phượng cháy
Trên trán thầy, tóc chớ bạc thêm.
Thôi hết thời bím tóc trắng ngủ quên
Hết thời cầm dao khắc lăng nhăng lên bàn ghế cũ.

Quả đã ngọt trên mấy cành đu đủ
Hoa đã vàng, hoa mướp của ta ơi .
Em đã yêu anh, anh đã xa rồi
Cây bàng hẹn hò chia tay vẫy mãi
Anh nhớ quá và chỉ lo ngoảnh lại
Không thấy trên sân trường - chiếc lá buổi đầu tiên.
825

Nov 27, 2006

Còn hơn cả đẹp



Một họa sĩ ngồi vẽ trong vườn cây ăn quả. Sau khi tác phẩm hoàn thành, ông hỏi bà chủ vườn:
- Bà thấy bức tranh đẹp chứ?
- Ồ, hay lắm!
- Mảng nào của nó làm bà hài lòng nhất?
- Từ khi ông ngồi đây, không có con chim nào dám đến ăn quả chín nữa.
2106

Tham quan "ăn" gì cho ngon



Nhân viên phòng đăng ký kinh doanh vốn có tiếng ăn bẩn nói với một ông chủ đang muốn chuyển nghề kinh doanh:

- Được rồi, tôi giải quyết đăng ký kinh doanh cho ông sớm. Nhưng về sau, có hàng gì rẻ, "ngon" phải đến gọi tôi "ăn" với nhé.

- Ông yên tâm, tôi không quên ơn ông đâu.

- Thế ông chuẩn bị kinh doanh ngành gì?

- Phân, gio, thuốc trừ sâu, vòng hoa phúng viếng và hộp đựng tro xương.

- !!!
1365

Nov 26, 2006

Biện hộ



Thầy: Sao em không ghi định lý vào vở?

Trò: Thưa thầy, em có ghi chú là : xem sách giáo khoa.

Thầy: Thế sao em không vẽ hình vào vở?

Trò: Thưa thầy, em có ghi chú là xem bảng.

Thầy: Cả bài tập em vẫn chưa làm là sao?

Trò: Thưa thầy, em có ghi chú là : xem sách hình học đấy ạ!

Thầy: ?!!



o O o



Trong lớp học, thày hỏi trò:

- Em đang viết gì vậy?

- Một bức thư cho chính mình ạ!

- Trong đó nói gì?

- Ngày mai em mới có thể biết được điều đó sau khi nhận thư.

1136

Nov 25, 2006

Hồ Tắm Chưa Có Nước



Giám đốc một Dưỡng trí viện tiếp đón phái đoàn quan khách đến viếng thăm một công trình kiến tạo mà ông rất hãnh diện.

Một quan khách nhìn qua cửa sổ thấy một số thân chủ nối nhau lên bàn nhún, nhảy xuống hồ tắm, bèn khen rằng:

Quả thật không thiếu gì cả, có hồ tắm như thế là tuyệt lắm rồi!

Ông giám đốc nở mũi:

Ấy, tôi nghĩ rằng tình trạng sẽ khả quan hơn nếu hồ này có nước.


2880

Về với nỗi khổ



Trên xe khách, một cô gái nước mắt chan hoà, đưa tay ra ngoài vẫy người đàn ông đi tiễn. Bà già ngồi bên cạnh thở dài thông cảm:
- Ngày xưa, mỗi khi chia tay chồng, tôi cũng mang tâm trạng buồn như vậy.
- Cháu đâu có sướng như bà, bởi vì bây giờ cháu phải về với chồng cháu đây.
2365

Nov 24, 2006

Anh Nhớ



Như con nít nhớ cà rem vậy mà
Như con dế trống đi xa
Một hôm nhớ đến quê nhà gáy chơi
Con dế thì gáy một hơi
Còn anh gáy hết một thời con trai


...


Cô bé ơi, anh nhớ em
Như má lúm nhớ đồng tiền đúng chưa
Như cà chớn nhớ cà chua
Như da em nhớ da-Ua ngọt ngào
Cái nhớ nhảy qua hàng rào
Chẳng thèm đăng ký cứ nhào vô anh
Xô ra thì thấy không đành
Nên anh ôm lấy rồi canh giữ hoài


...


Con kiến còn nhớ củ khoai
Huống chi tóc ngắn tóc dài nhớ nhau
Nhớ em không biết để đâu
Nếu để trên đầu thì tóc che đi
Để trong túi áo cũng kỳ
Lỡ đi đường rớt lấy gì chứng minh
Thôi thì giả bộ làm thinh
Hét lên "nhớ quá" một mình nghe chơi

2929

Chân Dung



MR1: Mày thấy hình chân dung của bạn gái tao thế nào?

MR2: Nàng có đôi mắt rất mơ huyền và khuôn mặt gơi hình sâu sắc.

MR1 (hí hửng): Cậu phân tích thật tuyệt vời.

MR2: Nhưng... mơ huyền mờ và xâu sắc xấu.
1224

Xá Tịnh Kỳ Hoàn



Ðọc kinh sách Phật, chúng ta thấy Phật thường thuyết pháp ở "Tịnh Xá Kỳ Hoàn hay Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc viên" cũng thế.

Ðược truyền tụng hơn hết, Tịnh xá này là công trình kiến tạo to tát của ông Tu Ðạt Ða, một Phật tử tại gia thuần thành tên tuổi được hậu thế luôn luôn nhắc nhở.

Tu Ðạt Ða, người ở thành Xá Vệ, xứ Ấn Ðộ, là tôi đại thần của vua Ba Tư Nặc và là một nhà giàu có  nhất thời bấy giờ. Tánh tình hào hiệp ưa cứu giúp kẻ cô bần, hay làm việc bố thí, thi ân, khoan hồng với người dưới, khắp xứ đều biết danh, ông được người thời bấy giờ gọi tặng là Trưởng giả "Cấp Cô Ðộc".

Tu Ðạt sanh được bảy người con trai. Chúng đều khôn lớn cả và có gia thất, trừ cậu út. Hình dung tuấn tú diện mạo khác thường, chàng có ý tự mình lựa chọn bạn trăm năm. Trưởng giả mới nhờ một thầy Bà La Môn tìm nơi mối lái.

Một hôm thầy Bà La Môn đến hóa trai ở một nhà nọ tại thành Vương Xá.

Một người con gái xinh đẹp tuyệt trần, đem vật thực ra dưng. Hỏi ra mới biết là ái nữ của Trưởng giả Hộ Di. Thầy yêu cầu xin tiếp chuyện với phụ thân của nàng. Thiếu nữ vào trong thưa lại, một chập sau thầy được ra mắt Trưởng giả và lấy thật tình tỏ ý mình muốn tác thành cho hai họ.

Vì đã được nghe đại danh của Trưởng giả Tu Ðạt Ða chẳng những là người giàu có muôn hộ, hay cứu giúp kẻ nghèo đói, cô bần, mà còn là một vị đại thần quyền thế ở thành Xá Vệ, nên không ngần ngại gì; Hộ Di vui lòng hứa lời cho đàng trai bước tới.

Nhân dịp có người khách buôn dong xe về Xá Vệ Bà La Môn liền gởi một phong thơ báo tin lành, ông Tu Ðạt tức tốc khởi hành, cho gia nhân chở theo rất nhiều châu báu.

Lúc đến nơi, thầy Bà La Môn đưa ông tới nhà ông Hộ Di. Ðàng gái hết sức vui mừng, tiếp rước trọng hậu. Nhận thấy tôi trai, tớ gái tấp nập cỗ bàn, Tu Ðạt Ða mới hỏi thăm duyên cớ. Trưởng giả Di cho biết sáng hôm sau ông sẽ làm lễ cúng dường Phật và chư Tỳ kheo Tăng.

- Phật là gì? Tu Ðạt hỏi

- Quan huynh chẳng nghe ư? Con vua Tịnh Phạn ở thành Ca Tỳ La Vệ, tên Tất Ðạt Ða, vì thấy khổ, sanh, già, bệnh, chết, buồn lòng không vui thú gia đình, bèn bỏ cung điện đi tu, sau sáu năm khổ hạnh, được trí huệ đầy đủ, thắng chúng ma vương, tự tại thần thông, quan minh chiếu diệu được người xưng tôn là Phật.

- Còn thế nào gọi là Tăng?

- Tăng chỉ các vị đệ tử của Phật đều là bậc sáng suốt giải thoát, có thể vì chúng sanh làm đám ruộng phước.

Tu Ðạt vui mừng vô hạn hỏi tiếp:

- Chẳng hay Phật và chư Tăng ở đâu?

- Tại một Tịnh Xá trong vườn Trúc (Trúc Lâm).

Trong đêm ấy Tu Ðạt Ða sanh lòng kính tin, lăn lộn không ngủ, trông mau trời sáng để đến ra mắt Thế Tôn.

Vừa bình minh ông đã trổi dậy, hỏi hướng rồi ra đi.

Tịnh xá Trúc Lâm vẫn còn yên tịnh, sương lạnh phủ dày, các Tỳ kheo còn đang thiền tọa. Tu Ðạt Ða đang ngơ ngác, thì đàng xa có bóng người tiến đến. Thì ra đó là Ðức Phật, bởi biết trước nên xuất thiền ra ngoài kinh hành. Vừa trông thấy tướng mạo nghiêm trang, oai nghi, đĩnh đạt của Ngài, Tu Ðạt Ða mừng quá quên cả lễ phép:

"Thưa ông, không biết đức Cù Ðàm đã dậy chưa? Ngài ở đâu? Tôi muốn gặp liền bây giờ được chăng?" Ðức Phật vui vẻ chỉ chỗ mời ngồi, rồi ôn tồn hỏi: "Ông tìm đức Cù Ðàm có việc chi? Chính tôi là người ông đang tìm".

Biết là Ðức Phật và cảm kích trước lời nói của Ngài, Tu Ðạt Ða liền cúi mình làm lễ và tha thiết bạch rằng: "Lạy Ngài rũ lòng thương xót, mở lòng dạy bảo cho kẻ đệ tử đầy tội lỗi này!".

Ðức Thế Tôn bèn nói Pháp: khổ, không, vô thường, vô ngã và Niết Bàn yên vui vắng lặng cho ông Tu Ðạt nghe. Khi nghe xong, ông quá đỗi vui mừng, liền nhiễm Thánh pháp, đắc quả Tu Ðà Hoàn, thí như miếng lụa trắng dễ ăn màu nhuộm. Trưởng giả bèn quì xuống, chấp tay lạy Phật: "Bạch Thế Tôn, những người ở thành Xá Vệ nghe pháp có thể dễ thâm nhiễm như con không?" Phật bảo: "Ông vì túc căn nên mới sớm ngộ như thế không phải ai cũng ngộ như vậy đâu. Vả lại dân thành Xá Vệ phần nhiều tin theo tà giáo, khó mà nhiễm thánh pháp". Tu Ðạt bạch Phật: "Cúi xin Ngài thương xót, rủ lòng đại từ quang lâm Xá Vệ đánh chuông cảnh tỉnh để người theo tà quay về lẽ chánh".

Phật bảo: Phép của người xuất gia không được ở chung chạ với người thế tục, bên ấy không có Tịnh xá thì làm sao ta và các Tỳ kheo sang ấy ở được.

- Ðệ tử xin phát tâm kiến tạo Tịnh xá mong Phật từ bi hứa khả cho.

Ðức Phật yên lặng, tỏ dấu hứa chịu.

Mấy hôm sau, khi lo vợ cho con xong ông Tu Ðạt trở lại rừng Trúc bái Phật xin phái một vị đệ tử đi theo chỉ bảo cách thức xây cất Tịnh xá. Ðức Thế Tôn nghĩ rằng ở Xá Vệ bọn Bà La Môn rất nhiều, họ tin tưởng xằng bậy những điều không hợp chánh lý thế nào họ cũng ra mặt tranh đương, người kém tài kém đức, khó bề hàng phục được họ. Chỉ có Xá Lợi Phất trước là dòng dõi Bà La Môn thông minh đa trí, hiểu rõ nội bộ của họ đi mới có lợi. Phật liền sai Xá Lợi Phất đi theo Tu Ðạt sang Xá Vệ.

Dọc đường Tu Ðạt hỏi Xá Lợi Phất: "Ðức Phật đi bộ bao nhiêu dặm trong một ngày?" Xá Lợi Phất đáp: "Chừng nửa do tuần". Ông Tu Ðạt bèn cứ hai mươi dặm là mướn người cất một khách xá (nhà tạm) để khi Phật sang Xá Vệ, đêm có chỗ tạm nghĩ.

Khi về đến nhà, Tu Ðạt và Xá Lợi Phất trải qua mấy ngày vất vả và vẩn chưa tìm ra chỗ nào vừa ý. Một hôm đi ngang vườn cây của Thái tử Kỳ Ðà, thấy đất đai bằng phẳng, cây cối xum xuê. Xá Lợi Phất bảo Tu Ðạt: "Trong vười này cất Tịnh Xá được, vì không xa không gần thành; xa quá thì khó cho sự khất thực, còn gần quá thì ồn ào, loạn động khó yên tâm để tu hành". Thấy Tu Ðạt ra chiều suy nghĩ, Xá Lợi Phất tiếp: "Phải chăng ông sợ không thể mua được chớ gì? Ông nên đến ướm hỏi Ðông cung xem sao".

Ông Tu Ðạt liền đánh bạo đến ra mắt Thái tử Kỳ Ðà.

- Tâu Thái tử! Tôi muốn kiến tạo một Tịnh xá để thỉnh Phật và chư Tăng sang đây diễn giáo, nhưng tìm mãi không ra chỗ. Nay Thái tử có vườn cây tốt, rộng rãi, xin Thái tử vui lòng nhường, miếng vườn ấy lại cho tôi, công đức của Thái tử thật vô lượng vô biên.

Thái tử cả cười bảo: "Tôi đâu có thiếu thốn gì mà phải bán; vườn này để làm chỗ ngoạn thưởng trong khi nhàn rỗi, cho thư thả tâm hồn, bán đi thì làm thế nào?".

Ông trưởng giả Tu Ðạt năn nỉ mãi. Thải tử tánh dễ cảm, song vì tiếc miếng vườn nên định làm thối chí ông Tu Ðạt:

- Nếu trưởng giả mua, xin
đem vàng lót khắp mặt đất tôi sẽ bán cho.

- Vâng.

Thái tử hỏi hối:

- Tôi nói chơi như thế, chớ bán đi thì làm gì.

- Quân tử vô hý ngôn, Thái tử sẽ làm vua trị dân, nói bỡn sao được.

Tu Ðạt bèn vội trở về nhà hối gia nhân chở vàng đến lót. Khi đã phủ xong nơi đất liền. Trưởng giả suy nghĩ coi phải làm thế nào để lót mấy nơi bị cây mọc choán. Thái tử đến gần vỗ vai hỏi: "Thế nào Trưởng giả suy nghĩ gì? Nếu ông chê mắc thì thôi vàng ông chở về vườn tôi xin trả lại cho ông".

- Không, tôi không nói mắc rẽ gì đâu, thưa Thái tử. Tôi đang suy nghĩ coi phải chở ở kho nào cho vừa đủ, khỏi đem đi đem về thất công và tính coi mấy gốc bao nhiêu vàng đấy chứ.

Thái tử Kỳ Ðà nghe xong hết sức ngạc nhiên, tự hỏi Phật là người thế nào mà Trưởng giả coi của cải như không, xem vàng ròng như đất cục. Thật kỳ lạ quá... Có lẽ là một thánh nhơn, đạo cao đức cả mới có thể cảm hoá được lòng người như thế.

- Thôi, Thái tử bảo, ông đừng chở vàng đến nữa, bây giờ đất vườn thuộc về ông, còn cây thuộc về tôi, tôi xin cúng cho Phật đấy.

Trưởng giả vui sướng quá. Ngay ngày hôm sau kêu thợ đo đất khởi công, còn Xá Lợi Phất thì vẻ bản đồ và chỉ bảo cách thức.

Song một trở ngại lại xảy ra. Phái Lục sư ngoại đạo Bà La Môn kéo nhau đến tâu vua Ba Tư Nặc: "Trưởng giả Tu Ðạt Ða mua vườn của Thái tử để kiến tạo Tịnh xá cho bọn Sa Môn Cù Ðàm xin bệ hạ cho phép chúng tôi cùng bọn kia tranh tài, nếu họ thắng được bọn tôi, chừng ấy họ mới được phép cất Tịnh xá và sang đây thuyết đạo, còn trái lại, thì ở đâu phải ở đó".

Nhà vua liền triệu Tu Ðạt Ða vào triều vào bảo rằng: "Hàng Lục sư Bà La Môn không chịu có phái nào khác truyền giáo. Nay khanh mau vườn cất Tịnh xá để rước đồ chúng của Ðức Cù Ðàm về đây dạy đạo. Lục sư vào tâu khi nãy, xin cho hai phái cùng nhau một trận thư hùng, nếu họ thua thì khanh tự ý muốn làm gì thì làm, còn nếu phe Cù Ðàm thua thì đừng bén mảng đến đây. Muốn cho yên thuận, ta đã hứa với họ rồi, vậy khanh lo liệu thế nào cho chu tất".

- Xin bệ hạ cho phép hạ thần trở về bạch lại với đệ tử của Ðức Phật xem sao.

- Ðược, khanh cứ đi, muốn cho bọn họ và công chúng biết được giá trị của đôi bên, ngoài phương pháp đó, không còn gì hơn nữa.

Trưởng giả cáo từ ra về, mặt luôn luôn dàu dàu, đầu óc miên man lo nghĩ: "Không rõ bên ta có thể thắng được không? Hơn chẳng nói gì, còn rủi thua thì khổ biết bao. Lục sư pháp thuật cao cường, lại bè lũ đông đảo, liệu một mình Ngài Xá Lợi Phất có đương cự lại chăng?". Bao nhiêu câu hỏi làm lòng ông ngổn ngang lo sợ, đến nỗi về đến cửa nhà mà ông không hay.

Trông thấy vẽ mặt đượm đầy u buồn, lo ngại của Tu Ðạt, Xá Lợi Phất bèn cất tiếng hỏi: "Hôm nay có việc gì mà Trưởng giả không được vui?".

Tu Ðạt rầu rầu đáp: Thưa Ngài công việc kiến tạo Tịnh xá sợ không thành tựu.

- Tại sao thế?

- Thưa Ngài, bọn Lục sư quyết lòng ngăn trở công việc làm của mình. Họ đã đến khiếu nại với vua, xin cho cùng chúng ta tranh thủ nếu chúng ta thắng họ thì mới được cất Tịnh xá. Vua đã chuẩn y lời của họ. Bây giờ trăm việc tôi xin trông cậy vào Ngài. Tôi lo lắm, bọn họ tu hành theo tiên đã lâu, tài nghệ pháp thuật cao cường, trong thành này ai cũng biết, thêm nỗi bọn họ rất đông, liệu mình Ngài có chống nổi chăng?

- Trưởng giả đừng ngại. Tôi tuy một mình, nhưng ông có thấy chăng, chỉ một ánh sáng mặt trời đủ phá tan bao nhiêu bóng tối; cần gì phải đông. Ðồ chúng của Lục sư có nhiều đến bực nào cũng không làm chi tôi nổi. Trưởng giả cứ vững lòng tin tôi và tâu lại nhà vua xin định ngày đấu sức, không sao.

Tu Ðạt nghe nhõm người, chạy bay vào cung, xin định ba hôm sau là mở hội tranh tài.

Bọn Lục sư truyền rao cho tín đồ của chúng hảy đến xem cuộc đấu phép ít có mà phần thắng chắc chắn về phái họ. Vua Ba Tư Nặc cũng truyền lệnh cho dân gian và cho phép tam cung lục viện đến dự. Ðồng thời vua cho cất khán đài tại một miếng đất trống to lớn phía ngoài thành.

Ðúng ngày giờ hẹn, trời vừa tang tảng sáng, bọn Lục sư đã lũ lượt kéo tới, cả dân chúng nữa, người người không thể tính số được. Giữa khán đài, vua và hoàng hậu ngồi ghế lớn, hai bên trăm quan và cung phi mỹ nữ đứng hầu, còn dân chúng chen nhau đứng phía dưới. Trước đài, tả hữu có hai đài khác, dành cho hai phái tranh thủ.

Giờ đấu tài đã đến, bọn Lục sư thấy thế tuyên bố ầm lên: "Bọn Cù Ðàm sợ chúng ta rồi, đã tới giờ mà không thấy bóng hình đâu cả". Tiếng bàn tán cải cọ thêm to. Có kẻ đánh bạo đến gần tâu vua: "Tâu bệ hạ, bọn đệ tử Cù Ðàm có lẽ tự biết mình vô tài nên không dám đến. Vậy xin bệ hạ kể họ như thất trận rồi".

Vua Ba Tư Nặc trầm tĩnh đáp: "Chưa gì mà các người đã vội ca khúc khải hoàn, hãy đợi một chút nữa xem nào". Ðoạn vua xoay qua Tu Ðạt: "Tại sao thầy của khanh chưa đến, khanh hãy đi xem thử sao?".

Lúc ấy, Xá Lợi Phất đang ngồi thiền định dưới cội cây to, yên lặng suy nghĩ: "Hội chúng hôm nay phần đông theo tà giáo đã lâu, tà pháp đã thâm nhiễm vào trong óc của họ, nên họ đầy vẽ kêu mạn, tự cao. Làm thế nào mà cứu vớt họ? Phật đã dạy, trong khi truyền đạo, không nên dùng thần thông làm kinh dị lòng người, nhưng trong trường hợp này, nếu không dùng thần thông thì làm sao gây được tín tâm. Vậy xin Phật thấu hiểu và xá tội cho!". Vừa nghĩ xong thì Tu Ðạt hấp tấp đến.

- Bạch Ðại đức, công chúng đã nhóm họp đông đủ cả rồi, nhà vua đang chờ trông, xin Ðại đức quang lâm cho.

Xá Lợi Phất bèn xuất thiền đứng dậy, sửa ngay y phục, vất tọa cụ lên vai, rồi oai nghiêm cất bước, từ từ tiến về phía diễn trường mà quang cảnh mà là một biển người, lô nhô đầu là đầu không hàng ngũ trật tự gì cả. Thế mà khi Xá Lợi Phất đến, công chúng lại tự dưng vẹt ra, chừa một đường khá rộng cho Ngài vào. Tu Ðạt ung dung theo sau khỏi chen lấn gì cả.

Xá Lợi Phất đi đến đâu thì đám đông cúi chào, xa trông như một đồng lúa bị gió đùa. Còn bọn Lục sư, tuy lúc đầu đã dặn nhau không được tỏ vẻ kính nể nào, nhưng khi thấy vị đại đệ tử của Phật, tất cả như bị một sức mạnh gì ở thâm tâm thúc đẩy, đồng đứng dậy lễ phép chào như bao nhiêu người khác. Xá Lợi Phất chậm rãi thượng đài và an tọa. Vua Ba Tư Nặc liền ra lệnh cho hai bên đấu phép.

Lao Ðộ Sai, tay huyền thuật giỏi nhất trong phái Lục sư, trổ tài trước. Công chúng đang lao nhao chờ đợi, bỗng thấy một cây đại thọ mọc lên giữa sân sừng sừng, to lớn một cách nhanh chóng khác thường, tàn che kín khắp vùng đất chiếm làm diễn trường.

Ðồ chúng của Lục sư, biết là sự biến hóa của phe mình, lấy làm thích chí, trầm trồ khen ngợi vang rền. Tứ phía muôn mắt quay về hướng Xá Lợi Phất đang tĩnh tọa, đôi mắt lim dim như không hay thấy gì hết. Một phút, hai phút... Mọi người đều nóng ruột, nóng hơn hết có lẽ là Tu Ðạt Ða. Tiếng ồn ào vừa ngưng trong một hồi chờ đợi thắt thỏm, thì từ đôi mắt của Xá Lợi Phất hai luồn hào quang xẹt ra, bao luyện thân cây rồi cùng với thân cây biến mất trong chớp mắt. Tiếng hoan hô nổi dậy để tức khắc đổi thành tiếng kinh khủng: một con rồng nhiều đầu, thân thể to lớn dị thường, múa lộn trên hư không, giữa tiếng sấm sét vang tai điếc óc. Nhưng kìa, từ miệng của Xá Lợi Phất, một đạo bạch quang phóng ra, biến thành một con đại bàng, to gấp hai kẻ nghịch, xáp đến xớt rồng bay mất.

Thua canh này bày canh khác, Lao Ðộ Sai bèn dùng mình biến thành một con quỷ Dạ Xoa kếch xù, trên đầu lửa cháy, mắt lồi, miệng đỏ, xồng xộ chạy lại đài Xá Lợi Phất, hung ác vô cùng. Trầm tĩnh vị đệ tử của Phật xòe bàn tay năm ngón dịu mềm: Năm vị Tỳ sa môn Thiên vương hiện ra, đứng bao bốn phía và trên không. Ðồng thời lửa tam muội đùng đùng nổi dậy, phủ vây con ác quỷ không phương đào tẩu. Lửa càng cháy, tiếng than khóc cầu tha mạng sống càng lớn. Tâm khinh mạn đã tan, bốn phía lửa dữ cũng hạ, Lao Ðộ Sai hoàn phục nguyên hình, dập đầu sám hối tạ tội. Xá Lợi Phất bèn bay vọt lên hư không hiện đủ bốn oai nghi, đi, đứng, nằm, ngồi hoặc hiện thân to lớn như hư không rồi lại hiện nhỏ, hoặc nữa, chia thân ra trăm ngàn thân khác rồi thâu trăm ngàn trở lại một. Xong, Ngài trở về chỗ cũ, ngồi yên, thuyết kệ rằng:

Tâm sanh các pháp thảy đều sanh,

Tâm diệt các pháp thảy đều diệt.

Muôn ngàn nghiệp chướng thảy do tâm,

Rồi cũng do tâm mà diệt nghiệp.

Công chúng được xem các phép biến hóa và được nghe bài kệ rồi, nhảy nhót vui mừng như người nghèo được của báu.

Nhân cơ hội ấy, Xá Lợi Phất dạy: Các pháp là khổ, là không, là vô thường, vô ngã; tất cả đều do tâm, tâm không dính mắc theo trần lao phiền não là Niết bàn tịch tịnh. Trong thính chúng bấy giờ có nhiều người nhớ lại nhân duyên trước của mình, phát tâm hướng về nẻo giải thoát, thấu được lý đạo, kẻ chứng quả Tu đà hoàn, người chứng quả Tư đà hàm v.v... Hơn ba ngàn đồ chúng của Bà La Môn đều làm lễ Xá Lợi Phất xin thọ giáo.

Cuộc so tài đấu phép đến đây chấm dứt, vua truyền bế mạc. Công chúng lục tục ra về với bao vẻ hân hoan, mà người vui mừng nhất là Tu Ðạt.

Mờ sáng hôm sau, người ta đã thấy Xá Lợi Phất, Tu Ðạt Trưởng giả và những công nhân kiến trúc có mặt tại vườn Kỳ Ðà, bắt tay vào việc. Tuy mệt nhọc nhưng mọi người đều vui vẻ sốt sắng.

Một hôm, đi ngang nền Tịnh xá, Xá Lợi Phất bỗng nhiên dừng bước chỉ con kiến càng to lớn đang bò, bảo Tu Ðạt trưởng giả: "Một khi ta mất thân người, muôn kiếp khó hoàn phục. Con kiến này đã nhiều kiếp chết đi sanh lại nơi đây là chỗ bảy đời Phật hằng giảng pháp. Ông nên biết, dầu ở sát bên chỗ Phật nói pháp mà trót mang thân súc sanh thì có mắt cũng như đui, có tai cũng như điếc, không giải thoát. Còn làm người mà mê muội, cứ nhắm mắt chạy theo tiếng gọi của vật dục, tham luyến dục lạc hiện tiền, không chịu suy nghĩ, chỉ biết có ngày nay không tin nhân quả, đã vậy còn gây thêm nghiệp hủy bán chánh pháp, thì xét kỹ không hơn con kiến bao nhiêu, cành sống càng xa ánh sáng giác ngộ, khổ não trăm bề, sa đọa vào bậc thấp hèn đem tối. Thế nên sanh được làm người là một điều khó; là một đại bất hạnh khi đã được thân người mà không lo tu sửa để được lần về nẻo giải thoát, hoặc kiếp sau còn trở làm người cố công tu học, thì thật uổng cho một kiếp.

Công trình kiến trúc vĩ đại quá, thành thử Xá Lợi Phất cũng như Tu Ðạt trưởng giả phải vất vả, cực nhọc suốt ba bốn thánh mới hoàn thành. Tu Ðạt bèn vào triều yết kiến vua Ba Tư Nặc trình các việc và xin vua phái sứ thần sang thành Vương Xá thỉnh Phật quang lâm. Vua y lời.

Một buổi sáng trời quang gió mát, Ðức Thế Tôn cùng các đệ tử lên đường sang Xá Vệ, ngày đi đêm nghỉ nơi các khách xá của Tu Ðạt đã lo xa cho cất bước kia. Khi gần đến thành, vua quan cùng dân chúng ra đón cách một khoảng xa. Vào đến Tịnh Xá, Ðức Phật an tọa, mọi người làm lễ rửa chân cho Ngài và đi nhiểu ba vòng, rồi theo thứ cấp ngồi dưới chân quanh Phật. Ðức Thế Tôn phóng ra năm sắc hào quang rực rỡ chiếu khắp thế giới, đoạn Ngài diễn nói công đức bố thí, tu phước cho đại hội thính chúng nghe. Ai nấy đều được lòng dạ sáng tỏ vui vẻ vâng làm.

Từ ấy, mỗi ngày Ðức Phật và các đệ tử vào thành khất thực, đến trưa về Tịnh xá thọ trai xong và thăng tòa diễn pháp cho các đệ tử hai phái cùng nghe. Số người theo về quy y đông vô kể.

Chẳng những là một công trình xây dựng lịch sử, Tịnh Xá Kỳ Hoàn còn là một nhắc nhở lớn cho các hàng Phật tử tại gia về bổn phận hộ trì Tam Bảo.

Xây dựng một ngôi chùa,
Tức là đã phá huỷ một nhà lao.
Thêm một đoàn thể học Phật,
Tức nhiên bớt một số người tù tội.


Hết
492

Nov 23, 2006

Còn chờ



Cô giáo cho đề một bài tập làm văn :

- Em nghĩ gì khi làm giám đốc ?

Tất cả học sinh cắm cúi viết, riêng một cậu ngồi khoanh tay, vẻ mặt bình thản.

Cô giáo hỏi :

- Tại sao em không làm bài ?

Cậu học trò đó thưa :

- Thưa cô, em đang chờ thư ký riêng tới.

1102

Nov 22, 2006

Cái Áo Len Mẹ Đan



Hôm nọ vợ chồng tôi đang ngồi soạn lại những bộ quần aó cũ để cho người quen mang về Việt Nam cho những gia đình bà con lối xóm. Vợ tôi ngồi lựa từng cái áo cái quần trong tủ đồ của tôi thì thấy một cái áo len đã cũ. Vợ tôi cầm cái áo len lên nói: "Anh ơi, cái áo này em không thấy anh bận bao giờ, mà nó đã cũ rồi chắc anh bận không vừa nữa đâu. Thôi bỏ vào bịch cho Cô Thu luôn đi." Vừa thấy cái áo len màu nâu quen thuộc đó thì tôi đã vội vàng trả lời: "Không được đâu, cái áo này Má anh đan cho anh lúc trước. Không cho được đâu." Rồi thì tôi cầm cái áo đó bận vào. Cái áo giờ đã chật không còn rộng rãi như ngày đầu tiên tôi ướm thử.

Tôi không nhớ rõ rằng Mẹ tôi đã đan cho tôi bao nhiêu cái áo len rồi. Từ thuở tôi bắt đầu có trí nhớ thì tôi đã bận những cái áo len do Mẹ tôi đan. Tôi lớn dần lên thì Mẹ tôi lại đan những cái áo mới cho tôi. Cái áo len năm nọ màu xanh, vài năm sau tôi có cái áo len màu xám, những cái áo len mang những màu khác nhau ôm ấp hơi ấm người tôi trong những ngày mùa đông thơ ấu. Cái áo sau cùng là màu nâu, Mẹ tôi đan xong trước vài ngày tôi rời khỏi Việt Nam. Lời Mẹ tôi còn văng vẳng bên tai: "Con nhớ bận vào cho ấm, đừng để nhiểm lạnh rồi bịnh. Mẹ không có ở gần để săn sóc cho con được. Con lớn rồi nên ráng tự mình lo lấy tấm thân." Tôi biết tôi đã lớn khôn rồi nhưng đối với Mẹ tôi thì bao giờ tôi cũng vẫn còn trẻ dại. Và tôi cũng muốn mãi mãi là đứa con dại khờ suốt ngày theo vòi vĩnh Mẹ. Tôi nhớ rằng Mẹ tôi chưa bao giờ nói với tôi rằng Mẹ tôi thương tôi. Nhưng tình thương của Mẹ đầy ắp trong đôi mắt dịu hiền, trong những đêm không ngủ khi tôi ốm đau, là những mồ hôi nhọc nhằn cơ cực để nuôi tôi khôn lớn. Tôi thấy tình thương của Mẹ trải đầy trên đôi tay gầy guộc nhẹ nhàng thoăn thoắt những mũi đan. Mẹ đã đổi những đêm khuya khoắt không ngủ, dưới ánh đèn hiu hắt để kết tình thương thành chiếc áo ấm. Những chiếc áo len thật giản đơn, không cầu kỳ, không đượm nhiều màu sắc, không hoa mỹ như những chiếc áo bày bán trong tiệm nhưng đối với tôi đó là những chiếc áo vô giá là những cái áo đẹp nhất của đời tôi.

Tôi vẫn nhớ những lần Mẹ tôi kể những câu chuyện về quãng đời của Mẹ. Nào là những lần ruồng bố của bọn giặc Tây, của bọn lính Lê Dương, nào là những đêm Mẹ phải trầm mình xuống đầm sình suốt đêm để trốn giặc, nào là những trái mọt chê, những tràng đạn đã giết hại đồng bào vô tội. Rồi Mẹ lại kể những tên giặc Nhật dã man chém giết đồng bào. Những người dân không có miếng cơm manh áo. Có những ngày Ngoại, Mẹ và các Dì Cậu chỉ sống bằng rau cải thay cơm. Rồi cuộc đời của Mẹ tiếp nối bằng những cuộc khủng bố của Việt Minh. Mẹ kinh hoàng với những đêm ám sát, thủ tiêu, đấu tố. Mẹ đã từng nghe những tiếng xin van lơn, những tiếng khóc ấm ức nghẹn ngào oan ức và
những tiếng súng lẻ loi trong đêm vắng để rồi sáng mai sẽ có những đầu người bê bết máu treo lên giữa chợ, những đầu người với đôi mắt còn mở cắm trên những cọc tre, những xác người không
đầu trồi lềnh bềnh trên sông rạch.

Tôi đến trường học hỏi để biết rằng quê hương tôi gấm vóc, để biết rằng dân tộc Việt Nam là một dân tộc bất khuất anh hùng, để tôi tự hào là người mang dòng máu Việt. Nhưng Mẹ tôi là người dạy tôi về tình thương đồng bào, tình thương dân tộc. Những lần Mẹ tôi sai tôi mang những chén cơm đến cho những người rời vùng kinh tế mới trở về lang thang đói khổ đang ngồi ủ rủ trước nhà, những tấm chăn cũ cho những người vô hộ khẩu ngủ lây lất bên hè, những chai dầu xanh, những viên thuốc cảm cho những gương mặt xanh xao, những hình hài ốm yếu. Tôi học được gì từ những thoáng mừng vui trong những đôi mắt thâm quầng buồn bã đó? Tôi học được gì từ những lời cám ơn rối rít? Có phải chăng tôi học được tình đồng bào, tôi học được tình người, tôi học được tình yêu quê hương, ôi đất nước tôi đói khổ đã quá nhiều.

Đôi tay gầy guộc của Mẹ đã đan cho tôi những chiếc áo len ấm áp. Tôi muốn dùng đôi bàn tay và trí óc của mình để đan cho quê hương tôi những chiếc áo tuyệt vời nhất. Tôi muốn xóa lấp đi những hầm hố bom đạn, đan những nhà giam, những ngục tối thành những trường học khang trang, đan những hàng cây bóng mát, những vườn hoa thay cho rào kẽm hầm chông, đan lên quê hương mình những cánh đồng lúa vàng bát ngát, đan nụ cười lên đôi môi những em bé thay cho đôi mắt lõm sâu vì đói lã. Tôi muốn đan những ánh mắt vui tươi thay cho những giọt lệ, những nét mặt khổ đau. Tôi muốn đan những tiếng hát câu hò thay cho những tiếng khóc oán than, những phấn trắng bảng đen thay cho những bức tường loang lỗ máu, những đóa hoa thay cho cùm xích Tôi muốn đan những tập vở cho các em nhỏ đến trường, những bát cơm đầy cho mọi người, những con đường thẳng tắp, những cây cầu, những thuyền bè, những làn gió mát, những đêm ngủ yên lành, những ngôi nhà xinh xắn khang trang. Tôi muốn đan một chiếc áo tự do dân chủ cho quê hương tôi để thay thế sự độc tài, đàn áp của Cộng Sản, đan cái tình dân tộc thiêng liêng thay cho cái chũ nghĩa ngoại lai độc hại, đan những câu kinh lời nguyện thay cho những lời hứa hẹn vu vơ, những câu mê hoặc mỵ dân, những lời gian dối điêu ngoa.

Tôi nhớ tôi vẫn chưa khi nào tôi nói với Mẹ tôi rằng tôi rất thương Mẹ. Tôi vẫn chưa nói với Mẹ tôi rằng chiếc áo len Mẹ đan cũ kỹ màu nâu đó tôi vẫn còn cất giử. Tôi vẫn chưa nói với Mẹ tôi rằng tôi đã bận chiếc áo đó trong những ngày tuyết lạnh bên đây. Tôi vẫn chưa nói với Mẹ tôi rằng trường học đã dạy tôi thành tài nhưng tình thương của Mẹ đã dạy tôi thành người. Tôi vẫn chưa nói với Mẹ tôi rằng tôi rất xót dạ khi thấy tóc của Mẹ giờ đã bạc phơ. Tôi vẫn chưa nói với Mẹ tôi rồi sẽ có một ngày khi quê hương mình không còn thống trị bởi lủ sài lang thì tôi sẽ về, sẽ đưa Mẹ tôi viếng mộ Ngoại, sẽ kể cho Mẹ nghe cuộc đời con của Mẹ.

Tối hôm đó, tôi cởi chiếc áo len và đưa cho vợ tôi để bỏ vào đám đồ gửi đi. Chiếc áo đối với tôi thật đáng quí nhưng nó thật sự quí hơn khi nó được dùng để giúp người trong cơn lạnh. Lòng tôi miên man nghĩ rồi thì sẽ có một người có chiếc áo ấm nhưng còn triệu triệu người khác thì sao?
227