Trang

Feb 28, 2007

Anh và thằng nhóc



I


Hai mươi năm trước anh giống thằng nhóc lắm
Lủi thủi theo sau áo trắng tan trường
Rồi chiếc áo băng qua đường, biến mất
Anh tiếc hoài cái kẹp tóc cô nương


Anh bịnh thương hàn suốt... ba ngày chẵn
Cái tội lang thang quên béng nắng trên đầu
Mà nếu có chết anh cũng không hối hận
Chỉ sợ tan trường có kẻ lén theo sau...


Chỉ một mình anh đau, một mình anh ốm
Còn riêng em đừng thương hại ngoái nhìn
Hai mươi năm trước anh giống thằng nhóc lắm
Anh độc quyền buồn ngay cả lúc... làm thinh


II


Còn bây giờ anh khác thằng nhóc lắm
Ngồi xổm lan can và gặm bánh mì
Chờ áo trắng tan trường ơi áo trắng
Anh trải thơ tình để lót bước em đi


Nếu em bắt chuyện tất nhiên anh lơ đãng
Trời thì xanh, xe cộ rất nhiều màu
Anh quên màu trắng đến khi em hốt hoảng
Mới quay lại cười một cái dễ... xa nhau


Nếu em dửng dưng tất nhiên anh hét lớn
Em sẽ quan tâm hỡi cô gái tò mò
Thấy chưa, bây giờ anh khác thằng nhóc lắm
Ai dại độc quyền chịu đựng nỗi buồn... xo !

2930

Một nửa



AD1: Tớ đã tìm thấy một nửa của mình rồi đấy.

AD2: Mừng cho bạn. Ngon lành chứ?

AD1: Dĩ nhiên.

AD2: Ðẹp trai, con nhà giàu, học giỏi - phải không?

AD1: Một nửa cái bánh tớ tìm lại được trong cặp nhỏ em đó mà.

AD2: (chưng hửng) Ai ngờ cậu còn trẻ con quá.

1580

Đo... Nhét



Có một chị sắp được lưu học ở Liên Xô (cũ) nên rất miệt mài học tiếng Nga.  Để tập nói được tốt hơn, hàng ngày chị ta cũng nói tiếng Nga với chồng.  Khổ một nỗi ông chồng lại không sành tiếng Nga.  Chị ta bảo:


- Nếu em nói, anh không đồng ý thì anh nói NHÉT, còn đồng ý thì anh nói ĐA vậy thôi.


Thế là, mặc cho vợ nói gì thì anh ta cứ luôn mồm nói NHÉT, ĐO, ĐO, NHÉT... Bên nhà hàng xóm có chị xa chồng từ lâu, thấy vợ chồng nhà kia lúc nào cũng NHÉT, ĐO, liền chửi đổng:


- Tổ cha nó, người ta xa chồng hàng mấy năm chẳng sao, đằng này nó mới chuẩn bị đi xa mà đã suốt ngày bắt chồng ĐO rồi NHÉT, NHÉT rồi lại ĐO... để làm khổ người ta chứ.

313

Feb 27, 2007

Lao Xao Mảnh Đời




Mấy hôm nay tôi thèm viết ghê lắm, bởi trí óc tôi dạo này lộn xộn, không thứ tự, ngổn ngang. Có lẽ tại cái nắng nơi đây đã làm gẫy vụn, làm tê liệt giây thần kinh chữ nghĩa trong tôi, đã biến đầu óc tôi như một căn nhà trống rỗng, kín mít, không cửa sổ để có thể thoát ra ngoài. Cái nắng hạ chói chang, nắng như thiêu như đốt nơi này đã làm cong queo những nỗi buồn, khiến chúng chênh vênh, rời rạc. Để tôi thèm một cơn mưa đi về cho ẩm đất, cho tươi cây cỏ. Cho tôi ngồi móc lại, nối lại thành một chuỗi dài để bỏ lên trang giấy, để thả vào hư không cho quên đi nỗi đau mình.

Điện thoại cell phone rung lên chưa kịp mở máy, tiếng rung tắt lịm. Điện thoại trên bàn chợt reo:
- Ti ơi, Ti biết chuyện gì chưa?
- Dạ chuyện gì hả chị?
- Chị mới nghe tin chồng của Linh vừa mất nên gọi cho Ti hay...

Tôi lặng người chết điếng trong lòng, không thốt nên lời. Chỉ trong vòng mấy tháng hè mà đã có 3 người bỏ đi... những người tôi quý mến. Họ đi nhanh quá, đi không kip từ giã nên tôi cũng không kịp một lời nhắn nhủ theo họ về bên ấy, nơi chỉ có bình an, nơi không suy tư khốn khổ, nơi đã quên hẳn nơi này.

Bạn bè mới ngày nào, như những con chim ríu rít bên nhau, ngây thơ chưa biết đời, biết người. Thoảng như một giấc mơ đã bay tản mác khắp nơi, tám phương, mười hướng. Mỗi đứa một cảnh đời, mỗi đứa một đường đi, không biết đến khi nào mới có cơ hội gặp nhau. Vừa rồi may mắn được gặp lại Trang, để nhớ đến những đêm Noel nói dối mẹ đi lễ nhưng thật ra đã cùng bạn bè tham dự những party bỏ túi, với những bước chân e thẹn ngập ngừng trên sàn nhảy. Để nhớ đến con chim giấy ngày nào được phóng từ đầu bàn bên kia lớp học bay đến chỗ tôi ngồi, con chim giấy cầm chơi trong tay, ngắm nghìa, mân mê chán định vo tròn vứt vào hộc bàn, bỗng Trang hét lên quên mình đang ở trong lớp học..."Ê mày, đừng vứt đi, thư anh tao trong đó..." tiếng hét của Trang làm cả lớp giật mình, làm tôi ngượng đỏ mặt. Gặp nhau mừng rỡ tưởng chừng như một phần đời của mình sống lại. Vừa xuống xe, Trang đã đứng chờ trước cửa tiệm cười thật là tươi:
- Trời ơi Ti, Ti vẫn vậy, Ti không thay đổi mấy.

Tôi vẫn vậy sao? hay Trang lịch sự nói cho tôi vui lòng? tôi bây giờ đã khác xưa nhiều chứ, tôi bây giờ buồn hơn xưa, không còn líu lo như chim mà mẹ tôi vẫn than buồn khi không có tôi ở nhà... Tôi bây giờ có còn là tôi ngày xưa không?... Những câu hỏi tới tấp không kịp trả lời nhau, khuôn mặt vẫn còn giữ được phần nào nét của ngày xưa để khỏi phải ngỡ ngàng nhận diện. Hai đứa gặp nhau, tíu tít đủ chuyện, chuyện của áo trắng thuở nào. Chuyện của những lần trốn học đến nhà bạn bè tập nhảy, chuyện cúp cua những giờ học khô khan khó nuốt để chui vào rạp Cine vừa xem vừa thút thít, ra khỏi rạp đứa nào mắt cũng đỏ hoe, phải dán lên mặt cái kính đen cho không ai để ý. Nhắc đến Noel năm nào, cả đám con gái mặc mini ngồi gác chân dựa vào tường, đâu ngờ tường chỉ là một tấm màn sau lưng nên cả đám ngã kềnh đưa chân lên cao cho mọi người được dịp cười thỏa thích, trong khi cả đám mắc cỡ không dám bước ra ngoài...nhắc lại cả tôi và Trang đều tưởng như mới xảy ra cho hai đứa cười khúc khích. Hai đứa nói đủ chuyện... Trang kể tôi nghe chuyện của Trang, chuyện ba chìm bảy nổi. Tôi kể Trang nghe chuyện của tôi, chuyện đã cũ thế mà mắt vẫn ướt, môi vẫn run...kể chuyện mình chán đến chuyện bạn bè. Chuyện có đứa gẫy gánh giữa đường, có đứa hạnh phúc bầm dập, có đứa bỏ học ngang lấy chồng ra tận ngoài Huế, sanh 1 lượt 7 nàng công chúa chỉ vì cứ ráng tìm một hoàng tử nối ngôi, thế mà cũng đành chịu thua trong khi có đứa mong mỏi 1 lần làm mẹ cũng không được. Có đứa vừa tìm thấy hạnh phúc cho riêng mình, có đứa vừa cùng chồng sang được bên này nhưng các con còn lại...

Hai đứa nói chuyện suốt mấy đêm liền, chuyện dài chuyện ngắn, nhớ được chuyện gì kể hay hỏi chuyện ấy, chẳng cho nhau lấy một giờ nhắm mắt dù chỉ còn vài tiếng nữa phải ra phi trường. Thế mà bây giờ ngồi đây lại chợt nhớ những điều quên nói, quên hỏi. Giờ nghe tin con bạn bên kia trời đông đang quằn quại, đang đau đớn với khăn trắng trên đầu. Nghe chị tôi báo tin mà chết lặng đến không thốt nên lời, nước mắt rơi xuống má ướt mặn môi lúc nào không hay. Con bạn tội nghiệp của tôi từ lúc biết yêu cho đến bây giờ hạnh phúc vẫn không tròn trịa... Tôi tìm số ĐT của Linh gọi về. Linh như chưa hoàn hồn với những gì mới xảy ra hay sao mà lại không nhận được giọng nói của tôi, cứ hỏi đi hỏi lại:
- Xin lỗi ai đầu giây đó?
- Linh ơi! Ti đây!
- Ti nào?
Tôi cố nói tên mình cả chục lần mà Linh bên kia đầu giây vẫn không nhận ra, cứ hỏi mãi, tức quá tôi gắt lên trong điện thoại:
- Con khỉ, tao Ti đây chứ ai mà cứ hỏi hoài.
Lúc đó Linh mới nhận ra, hay lúc đó mới tỉnh người vì cái hét của tôi trong máy. Nhận ra tôi, Linh mừng quýnh:
- Ồ, mày hả? vậy mà tao cứ tưởng cô nào, giọng mày nghe như giọng con gái.
Tôi kêu lên:
- Rõ vô duyên, thế giọng như thế nào thì mới là giọng bà già? nãy giờ tao gọi mấy lần mà không ai bắt phone.

Thế là hai đứa cứ mày tao như xưa. Giọng Linh sũng nước mắt:
- Mày biết ông xã tao vừa mất không?
Nghe Linh hỏi, mắt tôi cay cay:
- Biết, chị tao mới cho hay nên gọi về cho mày đây, anh ấy sao vậy?
- Bị ung thư nhưng không biết, lúc biết thì muộn rồi, không kịp nữa.
- Gia đình anh ấy có biết tin chưa? có ai về không?
- Biết nhưng không về được
- Vậy mày lo cho anh ấy đến đâu rồi?
- Mời đưa đi xong, tao vừa bước vào nhà là mày gọi.
Im lặng một lúc, Linh tiếp:
- Mày có biết ông xã tao không?
Nghe Linh hỏi ngớ ngẩn, tôi nhíu mày tưởng như Linh có thể thấy được:
- Mày nói gì lạ vậy? Chuyện mày với ông ấy quen nhau sau khi ông ấy đi học tập về sao tao lại không biết? Lúc đó tao vẫn còn ở nhà mà. Sau đó năm 96 tao có về VN thăm gia đình. Ông ấy chở mày đến, Trong tiệc giỗ, mời anh ấy 1 lon bia, anh ấy từ chối nói: "Anh không dám uống đâu, anh mà uống là anh gục luôn, không dậy nổi, anh thèm ngủ lắm mà không có thì giờ ngủ, anh thèm một giấc ngủ dài..." mày nhớ chưa?

Nhắc lại với Linh lời của chồng Linh mà lòng tôi xót xa, cổ tôi như muốn nghẹn...Ừ anh thèm một giấc ngủ dài, bây giờ anh toại nguyện rồi nhé, anh ngủ có ngon không? anh có biết là bạn em đang quằn quại, khốn khổ vì mất anh không? anh có tội nghiệp nó không?... Giọng của Linh cất lên làm tôi giật mình:
- Ừ nhỉ, tao quên, dạo này tao hay quên quá.
Tôi an ủi:
- Tao cũng vậy, có khi tao chẳng nhớ hôm qua đi làm mặc gì, màu gì nữa.
Tiếng Linh buồn rũ:
- Tao nhiều lúc không nhớ được là mình đã ăn cơm hay chưa...
Nghe giọng Linh tôi thấy thương bạn vô cùng, chồng Linh cũng có bố mẹ anh em ở Canada
thế mà không bảo lãnh gia đình Linh sang, chỉ có ông bà thỉnh thoảng dắt nhau về... Tôi chẳng hiểu vì sao, chỉ biết có lần anh tâm sự khi em tôi sang Mỹ, sang Canada thăm gia đình trở về:
- Anh cũng có gia đình ở Canada, thế mà anh lại không may mắn được như cậu, anh thèm và ước ao được gặp lại các em anh...

Linh như quên đi cái đau trong chốc lát, hay có lẽ mấy hôm nay vật vã, khóc lóc nhiều nên không còn nước mắt để khóc, hay cái đau đã tận cùng nên không còn đau hơn được nữa. Hai đứa nói đủ chuyện, hỏi thăm về gia đình, con cái, hỏi thăm về bạn bè. Hứng chí tôi nói với Linh:
- Khi nào retired, tao về VN ở luôn.
Linh mừng rỡ kêu lên:
- Ừ, mày nhớ về ở với tao, nhà tao bây giờ rộng quá, tụi nhỏ rồi cũng đi hết, chỉ còn mình tao thôi.

Tôi bốc đồng trong giây lát quên cả suy nghĩ, nhưng khi nghe Linh nói, tôi định hỏi Linh "Tao về ở với mày, thế ông xã tao thì sao?" nhưng thấy Linh cứ ríu rít nên tôi im, tôi không dám lên tiếng bởi bạn tôi đang lẻ loi, đang một mình. Hỏi địa chỉ của Linh, Linh dẫy nẩy:
- Mày hỏi địa chỉ làm gì? mày định gởi gì?
Tôi nói quanh:
- Gởi gì? hỏi để biết thôi.
- Mày định gởi tiền cho tao chứ gì? đừng gởi, tao chưa cần, khi nào cần tao sẽ xin.
- Mày đừng có vớ vẩn, lúc mày xin tao không có thì sao? đưa địa chỉ lẹ lên. À này, mày có địa chỉ e-mail không? thỉnh thoảng nhớ viết thư cho tao.
- Tao không biết dùng e-mail, con tao nó chỉ mấy lần mà cứ quên tuốt. Mày chịu khó viết bằng tay cho tao đi.
Tôi kêu lên:
- Trời ơi, bây giờ mà mày bảo tao viết thư bằng tay thì bao giờ mới có thư cho mày đọc? Gõ thì tao gõ còn lẹ chứ ngồi viết nắn nót rồi chạy đi bưu điện gởi coi bộ chẳng bao giờ mày có thư đọc quá, vả lại thì giờ đâu mà ngồi viết?
Linh băn khoăn:
- Nếu thế mày cứ viết thư cho tao qua địa chỉ e-mail của em mày, nhận được tao đưa ra ngoài thuê họ viết thư trả lời cho mày ngay.
Nghe Linh nói, tôi thắc mắc:
- Mày nói thuê cái gì?
- Thuê người ta viết thư hộ, bên này bây giờ có dịch vụ viết thư giùm, lẹ lắm.
Tôi ngẩn người ngạc nhiên:
- Nhưng sao mày lại phải thuê người ta viết thư cho tao? Để làm gì?
Linh vẫn thản nhiên như không biết cái hoang mang, cái thắc mắc của tôi:
- Thì thuê họ viết thư trả lời cho mày, chỉ có 3000 đồng thôi.
Nghe Linh nói, tôi kêu lên như không tin những gì tôi vừa nghe:
- Cái gì? mày nói thật hay nói đùa? tay chân chữ nghĩa mày đâu hết rồi mà đến nỗi phải bỏ tiền thuê người viết? mày sao vậy? điên hả?
- Thật chứ đùa gì, tao bây giờ đầu óc mụ đi không viết được nữa, nhờ con cái thì tụi nó sức mấy mà ngồi yên cho mình nhờ.

Tôi lặng người, tôi không ngờ Linh ngày nay lại như vậy. Tôi không thể tin được con bạn của tôi ngày nào, Linh ngày xưa tự tin, dáng đẹp, hát hay, văn chương giỏi, là một trong những cây viết bích báo trong trường thế mà hôm nay lại bị tuột dốc một cách thảm hại như vậy sao?... Có phải bạn tôi đang lăn xuống triền dốc cuộc đời của mình không?... tai tôi ù đi, tôi nghe Linh cắt nghĩa vì sao, vì sao mà lòng tôi đau, tim tôi nhói, nước mắt tôi long lanh, tôi thấy nghẹn ở cổ, tôi thấy thương và tội nghiệp Linh, tôi ước tôi có thể về VN ngay lúc này để ôm Linh trong tay, để được khóc với Linh, để cùng chia sẽ những nỗi bất hạnh mà Linh đang cưu mang, để hâm nóng lại thời con gái đã qua, để làm sống lại một tiềm thức đang ngủ mê cho bạn tôi tỉnh táo hơn ra... Nhưng tôi không về được.

Tôi cầm điện thoại cố nén tiếng nấc mà nước mắt tuôn dài. Bạn của tôi thê thảm đến thế sao?... còn những người bạn khác của tôi hiện giờ sống ra sao? Đang tản mạn nơi nào? có hạnh phúc? có bình an hay cũng lao đao lận đận? Thời gian đi nhanh quá, như những bánh xe quay càng lúc càng nhanh. Tôi không dám đứng lại, tôi sợ mình bị nghiền nát bởi những vòng quay vô tình ấy. Những vòng quay của giòng đời đang biến đổi chúng tôi thành những người đàn bà khác biệt nhau, những con đường riêng rẽ mà tất cả chúng tôi đều phải đi tới với con đường trước mặt. Trái tim tôi đau vô cùng. Tôi vội bỏ điện thoại xuống, quay sang nhà tôi đang đứng gần, bật khóc:
- Anh, sao bạn em kỳ vậy? sao nó có thể biến thành một người như vậy được?... Tại sao?
2063

LỤA





Một trăm mười sáu bậc thang dẫn xuống hầm rượu. Hơi lạnh chích áo mùa hè gây gây. Tối. Thỉnh thoảng bóng đèn nhỏ chiếu ánh sáng vàng xỉn không soi đủ ngõ ngách, hồi hộp kinh dị. Lại sắp thêm một đời rưng rức thịt da. Phải qua nhiều đời. Còn bao nhiêu đời nữa?

Người đàn ông dìu qua nhiều khúc quanh, không rắc rối nhưng khó nhớ. Giải thích mỗi hầm mang tên kỷ niệm một xứ bà cố anh chinh phục thị trường. Bà cố đã cho nối lại mười tám cây số đường hầm ngang dọc chéo chồng thời La Mã. Ròng rã mười năm. Như gả con cưới cháu. Như hàn gắn bất hoà tộc họ. Chúng gặp nhau như những con người bất ngờ chạm trán trên đường. Xa lạ nhưng cùng dòng. Cách chia nhưng tiếp nối. Hầm nào cũng từng núi sâm banh chờ ngày đưa đi tiêu thụ. Chai nhỏ bảy lăm xăng ti lít đến chai lớn chín lít. Chất chồng đủ kiểu: nằm lên nhau cao vài thước, hoặc chúc đầu trên kệ… Trong những ngõ ngách này, có thể giết người dấu xác.

Tôi vẫn đều chân những bước mộng du. Chưa giọt rượu nào đã thấy ngây ngây. Anh kể chuyện về giòng dõi mình vẻ dửng dưng kiêu hãnh. Một bà cố đã thành huyền thoại nhờ tài tiên phong chế tạo sâm banh, trí thông minh và lòng can đảm . Cơ ngơi mỗi ngày cứ tăng dần theo tuổi cố, huy hoàng bề thế. Và mình, đứng đâu được trong nhà anh, trong tim anh mà hoài vọng? Tôi chợt rùng mình.

- Vous lạnh hả?

- Vâng. Hơi lạnh.

Giờ đã quen cách xưng hô. Vous. Chẳng thân mật, dân quý tộc không suồng sã buông tuồng. Sung sướng cảm giác mình cũng đưọc tôn vinh trân trọng. Người đàn ông cởi áo vét khoác vai tôi, siết thêm vòng tay.

- Sắp đến rồi, vous sẽ không lạnh nữa.

Anh dắt tôi băng băng dọc ngang thế giới. Từ New York đến Barcelone. Từ Rome đến Québec. Từ Franfort đến Moscou. Hầm Glasgow có tấm nệm cố ý xé rách. Đang mùa triễn lãm. Bà cố say mê nghệ thuật, muốn không gian dòng họ này như quyển sách mở, mở ra thế giới, mở với thời gian. Tấm nệm rách kỷ niệm Glasgow nghèo khó cuối thế kỷ mười chín, thị trường tiêu thụ rượu thứ mười lăm của cố. Tưởng sẽ ngả người lên ấy. Nhưng anh kéo tôi đi nhanh hơn về phía bắc Manchester. Nghệ sĩ nào đó dựng tám mươi con ma áo trắng. Bước vào nghĩa địa không mồ mả. Tôi khựng lại. Anh cười:

- Ma giả mà. Ta vào trong này.

Tôi len lỏi giữa tám chục con ma. Đứa cười đứa mếu. Đứa trợn ngược tròng chăm chăm hù doạ. Ðứa vừa ăn thịt sống miệng còn bê bết máu. Ðứa tránh né cho qua. Ðứa dang tay cản đường. Ðứa ỡm ờ liếc mắt đưa tình. Và có đứa suồng sã vuốt ngực sờ mông khi tôi lách người bên cạnh. Nhủ thầm đang dan díu cõi vô hình, nó sẽ chứng kiến điều mình sắp làm. Tôi dừng lại cuối hầm, tám mươi con ma che phía trước. Đẩy tôi vào tường, có cái hốc nhỏ chênh vênh như cuộc đời, anh cao lớn che chở tôi khỏi bầy ma. Liếc nhìn bìa tóc dợn sóng cao trên mình cái đầu, màu nâu sáng óng ánh. Áo vét anh trên vai tôi rơi xuống. Hầm nhờ nhờ ánh sáng từ rừng thông triển lãm bên cạnh leo lét đổ về, khúc khuỷu. Tôi rướn người. Tám mươi con ma trắng tinh đẩy đưa bóng tối. Thỉnh thoảng gió luồn từ đâu rung rinh tám mươi chiếc áo, âm khí lởn vởn chung quanh. Nhướng mắt tưởng tượng bà cố nhập vào đám ma im lặng dõi mình từng cử chỉ. Láo liên tìm bà cố. Môi anh khép mi tôi lại hơi thở dồn dập áp sát má môi. Người đàn ông tao nhã quý phái biến dạng thành núi sùng sục lửa, thích trò đấu vật. Hai cánh tay quyền uy mạnh mẽ nhịp nhàng theo điệu nhạc riêng hơi thở. Tôi nghèn nghẹn, nửa hoang thú nửa gái lẳng lơ. Thịt da sưng sững. Đắm đuối, tôi nhoài người tựa vào hốc nhỏ, lao chao bềnh bồng cưỡi cuồng phong. Tám mươi con ma hùa theo từng cử động, nhấp nhô, nhấp nhô, lên xuống, chao đảo tròng trành quay cuồng chóng mặt.

Anh hôn xuống cổ, tôi liếc đám ma. Con bên trái đôi mi ướt át cái nhìn người đàn ông thời tôi con gái - cái nhìn dạy con thú nhỏ hoang mang tập tễnh chuyện đời. Lớp học đã ra về, mình tôi loay hoay đáy quần ướt đỏ. Giấy học trò xé, vò mềm, lau lót. Chợt đụng phải cái gì trong vùng lau lách đàn bà, tôi giật nẩy lạ lẫm, kinh hãi, thích thú. Tay bỡ ngỡ mê mê man man, ngập ngừng hối hả rứt từng sợi từng sợi tấm lụa hồn con gái… Từ đây không chỉ bấm phím dương cầm. Khi mở mắt tôi suýt rú: anh gác dan đứng trước mặt tự bao giờ, nháy mắt cười cười. Và sỗ sàng không ngờ, anh ghì hôn hối hả, sờ soạng khắp nơi. Liếc tay anh vấy đỏ. Tôi đắm đuối lịm người. Xấu hổ bỗng loãng tan theo máu. Tuần lễ sau tôi nấn ná trong lớp trống vắng. Cửa phòng học mở ra, khoá lại. Mỗi chiều xác tôi trên ghế, da thịt lừng lựng chỉ mong hết giờ, đầu óc lang bang nhớ cây phượng sân trường loang lổ hắt bóng lên mặt anh cai trường thật sát mặt mình, thân anh đổ ập lên người tôi sẵn sàng hứng đỡ. Thầy giảng bài sốt ruột, chỉ mong nghe âm thanh hừng hực trên bụng, rin rít chân ghế chao đảo dưới lưng. Mẹ bảo con gái vú to xấu hổ lắm, con phải khom lưng xuống. Tôi đi lom khom, ghì cặp sách trước ngực ép dấu phần da thịt rất người. Trên hai băng ghế học trò kê sát, tôi rướn người bay bổng, ngực thênh thang phơi phới ưỡn cao. Làm được điều cấm đoán, tôi tự do sảng khoái, đâm hào sảng mời anh dằn vặt thân mình suốt mỗi cuối chiều. Nghiện giờ tan học. Anh cai trường thành anh cai nghiện cơn đồng bóng thú hoang quẫy đạp trong tôi. Trên ghế nhà trường, đôi tay gỗ rừng lau vội giọt máu nhỏ đoá hoa trinh nữ - khắc ấn một đời... Con ma miệng bết máu ăn món thịt ngựa xay đỏ tươm, dặn tôi bỏ nhiều tiêu và mù tạt. Tôi lắc đầu chịu thua, bên nhà bố thường ăn tiết canh cũng toàn máu … Con ma trước mặt biết tôi vụng dại, siết tay dịu dàng : cha mẹ cho vous du học chắc chắn muốn vous học cái gì, không phải làm nghề này. Ráng học đi, cần gì liên lạc với tôi. Đặt tờ giấy bạc và bưu thiếp trên bàn quày quả xoay lưng, mắt người đàn ông trong suốt áy náy. Tấm bưu thiếp còn giữ đâu đó trong ngăn kéo, bao nhiêu lần cần chẳng hề dám gặp. Bao nhiêu bóng ma đã trượt vào đời. Lãng đãng. Chẳng quên chẳng nhớ. Ma bố đứng kia, nghiêm khắc lạnh lùng. Và xa xa lẻ loi ma mẹ buồn tăm tối...

Từng đứa, từng đứa từ từ quay nhìn tôi, uyển chuyển dợn sóng lao xao. Từng cánh tay dang ra, dang ra mãi, vô tận, kết lại thành cánh tay dài ngút tận trời. Cánh tay ma tập thể quay vòng vòng trên đầu người trần thế trêu chọc, doạ dẫm, kích động. Môi anh xuống ngực. Quay cuồng. Xuống. Rốn thuộc phần trên. Anh trở về cắn môi tôi đau điếng. Cánh tay dài ngoằng trắng nhỡn từ từ nhỏ lại, nhọn hoắc, ánh biếc màu thép, bổ thẳng xuống đầu anh. Tôi rú lên. Sức lực tám mươi mốt đàn ông đàn bà đâm xoáy người tôi. Đau thốn. Cố ơi. Cuốc xẻng cố sai thợ cày xới một trăm hai mươi mỏ phấn trong mười tám cây số địa đạo đang nghịch ngợm dày xéo thân con. Nó xuyên suốt ra sau, đục vào hốc vách, đục
thủng cả tường. Đất gạch loảng xoảng rơi, bụi phấn mịt mùng… Suýt té. Đôi mắt lẳng lơ trữ tình nhắm riết. Kho bà cố tràn ngập giấy bạc, đơn đặt hàng, sung túc, hạnh phúc, phơi phới, huyênh hoang, lìm lịm… Đôi mắt lẳng lơ mở ra không nổi. Thèm được nằm. Căn phòng độc thân anh sực mùi trưởng giả. Chiếu chăn sẽ ươm hoan lạc kéo dài.

Người tôi nhão trên tay anh. Hụt hơi. Ngay cả lúc tám mươi mốt người rút cuốc xẻng về sau tiếng tru rùng rợn hoà lẫn cõi âm dương. Tiếng tru chạy vòng suốt mười tám cây số đường hầm có một trăm hai mươi mỏ phấn. Vang vang. Vang vang. Trong tận cùng từng ngõ ngách. Rồi nó trở về, mệt mỏi đứt hơi, hắt ra rin rít, chia nhỏ trả lại tám mươi mốt đôi mắt đợi chờ. Từng giỏ, từng giỏ nho đủ màu xanh vàng đỏ tím ào ạt đổ vào vựa. Thợ hái nam nữ leo lên xắn váy xắn quần ra sức đạp, đạp, cười, cười. Chất lỏng màu máu hối hả tuôn xuống bồn chứa (hệt nước ấm áp hai đùi sau chén thuốc năm mười sáu tuổi). Mát lạnh. Ngọt ngào. Nồng nàn…

Tôi mở mắt. Đám ma đã quay lưng tự lúc nào, văng vẳng cười khúc khích. Thầy tướng số gọng kính gãy một bên, đôi mắt hiêng hiếng trên màu da nghệ chiếu tôi suốt chân đến đầu rồi ngược lại, lắc mãi không chịu nói. Mẹ năn nỉ nhiều lần, thầy cứ nói đi, biết trước có gì xấu thì còn liệu giữ gìn. Thầy cười, muốn thì tui nói, nhưng không giữ được đâu. Con bé này nghiệp nặng lắm. Mắt ướt át trữ tình lại hay liếc là người lẳng lơ, tình cảm dồi dào, sẽ truân chuyên lắm. Năm Thân, vô phúc tản mạng, hữu phúc thêm người. Phải qua nhiều đời mới mong yên ấm. Không chừng... Ông bỏ lửng. Vặn mãi không trả lời. Hỏi đời là gì. Nói đời là đàn ông. Giản dị quá, đời là đàn ông. Mắt mẹ tối tăm hơn đêm ba mươi quanh ngọn lửa nấu bánh chưng ngày tết…

Đời thứ mấy rồi không đếm được nữa. Nhưng có tình yêu thì mới lần đầu. Con đường đến miền yên ấm ngắn đi một chút.

- Có ai tắm sâm banh như vous chưa?

Tôi giật mình vì ướt lạnh. Liếc chai trên tay anh.

- Rượu này sang năm sẽ nằm trên kệ hàng.

Sẽ nằm trên kệ hàng tức đã nằm hầm hơn ba năm, đã được tháo nút kim loại, gạt bỏ cặn đóng. Chưa, chắc chắn chẳng ai được tắm sâm banh như tôi, ngay cả bà cố đã công khó tìm tòi chế biến đưa tên tuổi dòng họ lên hàng đầu thế giới. Ướt đẫm từng sợi tóc, từng lỗ chân lông. Mùi sâm banh thơm phức. Tôi liếm rượu đọng trên môi. Say. Tình và rượu.

Nước trong vắt vàng nhạt sủi bóng trên da. Trộn với nhựa người. Tiếng cười đàn ông mạnh mẽ vang dội len lách giữa các đường hầm. Tôi nhoài nhuyễn cũng cố bịt mồm anh.

- Lỡ có ai nghe?

- Không ai cả, trừ những người xoay chai các hầm bên kia, cách đây cả cây số.

- Ngày nghỉ mỗi tuần?

- Không, mỗi năm, kỷ niệm ngày bà cố ra đời loại sâm banh brut, hai mươi hai năm sau bà cố mất cũng ngày này. Mọi người đều trong nhà nguyện.

- Sao vous không đi?

Không trả lời, đôi mắt đẹp nheo nheo chế riễu. Tôi rướn người đứng lên, khua chân tìm giày trong tối:

- Vous có biết phong tục chúng tôi, cháu đích tôn phải thế nào không?

Anh chỉ nhún vai, cuối xuống nhặt áo vét khoác lên vai tôi, bảo mình lên, dưới này luôn luôn mười độ, coi chừng vous bị cảm. Chưa muốn lên, chẳng muốn lên. Mỗi lần trong tay anh tôi ước ao tan loãng, nát ngướu, dính vào anh mãi mãi. Tôi chồm hôn trán, bọc khuôn mặt thân yêu vào lòng tay run run. Muốn khóc. Cảm giác lần đầu sau bao lần vật vã đàn ông. Nhưng tôi im lặng.

Cả hai vuốt lại áo quần. Tôi rùng mình thấm lạnh. Trong ngoài ướt đẫm.



X



Con được tin mẹ mất một sáng mùa đông, có tuyết. Bức điện tín màu xanh bầm giấy xấu mang chiếc dao găm lao trong băng giá cắm phập ngực con. Căn phòng sụp xuống, vật dụng tan tác khắp nơi. Tối ám vây quanh. Con rũ trên giường, không một giọt nước thoát ra khỏi mắt. Mẹ đi không có con bên cạnh, con không nhìn mẹ lần cuối, không nghe mẹ tiếng nào. Buổi sáng dẫn con về quê ngoại, đến nhà bà lang xa lắc xó xỉnh nhà quê, mẹ nhỏ to với bà trong khi con tẩn mẩn ngắm mấy củ khoai mì nằm bên cánh liếp, nghĩ cuộc sống thôn quê buồn bã cách gì. Đêm trằn trọc trên chõng tre xa lạ, mẹ thì thầm sáng mai phải cố uống chén thuốc thần, chén thuốc sẽ cứu con khỏi khổ và gia đình khỏi nhục. Năm đó là năm Thân, con tròn mười sáu, đã biết hơi đàn ông vì mắt lẳng lơ hay liếc.

Mẹ bưng chén thuốc nài nỉ, dỗ dành, hăm doạ. Con uống từng ngụm, mẹ gật gật nửa áy náy nửa hài lòng. Con nhăn nhó cố uống. Suýt ói nhiều lần. Những chiếc lá khô queo, những cành cây rộc rạc bẻ ra từng nhúm, từng nhúm nấu mãi, keo lại thành chén thuốc nhiệm mầu cứu gia đình ta. Đắng. Chát. Nồng. Bà lang âm thầm ít nói, to nhỏ dặn dò mẹ điều gì rồi cặp nón ra đi. Còn lại hai mẹ con trong căn chòi chênh vênh giữa đồng, chẳng biết nói gì, chỉ nhìn nhau vừa thương vừa ngại.

Buổi trưa theo dõi cơn đau bụng, mẹ dặn nếu thấy kinh nguyệt phải đưa mẹ xem, đừng vất máu. Và mẹ thở ra như cất xong gánh nặng ngàn đời, thấy trên chiếc xi líp nhỏ xíu trắng tinh có cái gì lợn cợn bất thường. Bầm. Bầm hơn mọi lần, mỗi tháng. Bầm hơn bữa thôi làm con gái. Chiếc xi líp nhỏ như con đôi tám, trắng phau như cuộc đời và vật gì gồ ghề giữa máu đã làm màu trắng thành nhơ nhuốc. Mẹ săm soi vết nhơ cẩn trọng, mắt từng cơn chợt tối sáng bất ngờ, con thấy tim nhói buốt. Giọng bà lang thật trầm, chắc nịch:

- Ngoài góc vườn kia bà. Chỗ đó yên tịnh.

Mẹ chặt cành lá chuối, tay vẫn cầm xi líp, ra vườn. Dùng tay xới lớp đất xốp mềm nhiều cát, đào khoang nhỏ sâu sâu. Mẹ xẻ nửa tàu lá chuối đặt xuống lỗ, xé thêm một mảnh để lên trên, mảnh nhỏ khác khều khều chút lợn cợn trên xi líp xuống. Dù có vẻ an lòng, tay mẹ cũng run run dưới nắng. Kính cẩn thì thầm, chắp tay cúi đầu. Mẹ đắp tàu chuối lại, lấp đất vun vun, chẳng khác ngày bé con chơi chôn con cá nhỏ, tưởng tượng là đám ma người. Chợt hiểu con đã đẩy mẹ vào tội lỗi. Vậy là con chưa chết, nhà cũng chẳng thêm người. Thương mẹ quá, con khóc, xanh xao ẻo lả như lau trước gió. Nắng chiều xuyên qua tóc mẹ anh ánh màu nâu. Soãi chân qua mấy vồng khoai khô đất nứt, lá quắt queo dính cuống vàng úa mỏng manh lòng con với mẹ. Mẹ ôm con nhìn từng chặp sợ con té chết bất ngờ. Và bây giờ mẹ chết, con không được nhìn mẹ lao chao ngã xuống. Trên đường làng ra về lần đó, mấy đứa nhỏ chạy theo rủa xả « đồ đĩ, đồ đĩ ». Vẫn biết trẻ nhỏ nhà quê thường gọi người phố về bằng tiếng ấy, nhưng không ngờ đó là lời tiên tri định mệnh.

Con tung cửa lao ra dưới tuyết, tìm kiếm hình ảnh mẹ ôm giải lụa bay bay trên trời như đã tình cờ nhìn thấy trước đó mấy hôm. Chẳng thấy mẹ đâu, chỉ có tuyết lất phất từng cụm bông nhỏ trắng phau nhức mắt. Tuyết bám tóc, phủ vai con, tan chảy ướt át khắp người. Con vẫn đứng ngoài trời tìm mẹ. Nước len lén chui vào áo như nước mắt dội ngược vào lòng. Ngày tiễn con mẹ khóc như đám tang ông ngoại. Mẹ đứt ruột phải để con đi, con siết cứng mẹ trong vòng tay mười bảy. Môi mẹ run lắm, mãi mới thành lời, dặn qua ở với dì, cố học hành và giữ thân cho đến khi gặp người tử tế yên nơi yên chốn hẵng về. Con chưa bao giờ yên nơi yên chốn. Nên chưa bao giờ về từ ngày bước ra khỏi cửa. Mẹ dặn con đừng bắt chước mấy đứa hoang đàng. Con không bắt chước ai, chỉ cư xử theo nhịp tim mình. Bố nhìn con căm phẫn, khinh bỉ. Mẹ buồn rầu nhỏ nhẹ « Con gái trả nợ cha. Nó trả nợ bịnh ông trăng gió ». Bố thôi không thở dài xỉu mặt, vội lo giấy tờ cho con xuất ngoại. Đêm trước khi đi, bố mời ngồi, như khách, pha cho chén trà và thuyết một hồi thế nào làm con gái. Con gái như tờ giấy trắng, phải giữ tinh tươm. Nhưng thế nào là « giữ tinh tươm »? Tức đừng bao giờ yêu cả? Nếu cánh cửa mọi giấc mơ đều mở rộng, nếu thực sự màu trắng của giấy tượng trưng cho tâm hồn trong sạch, thì tất cả đều lệ thuộc vào nhịp đập cục thịt treo trong lồng ngực. Con khóc. Tại bố mẹ thương, đặt con ngồi cao quá, giờ con vấp té, kéo cả gia đình vẫn luôn nề nếp.

Con đứng đây một mình trên xứ người, nghe tin mẹ mất mà không khóc, chỉ có tuyết tan thấm suốt đáy lòng. Mùa này bên nhà gần tết. Hơi ấm chung quanh nồi bánh chưng giao thừa ngày xưa không giúp con bớt lạnh. Cây mùa đông chơ vơ trụi lá, con cũng trần trụi cả linh hồn, trống hoác, dửng dưng. Trời trắng đục mệt mỏi, thầm lặng, rải bông dệt thảm khắp nơi. Nhưng không nơi nào lạnh buốt như con. Cố hình dung con chẳng nhớ mẹ ra sao, chỉ nhớ đôi mắt xa vắng rất buồn bay theo giải lụa màu gạch đỏ mỏng tênh nhẹ hẫng, nó mang mẹ ngang qua phòng con rồi biến mất giữa trời…



X



Tôi chầm chậm mở từng hạt nút nhưng tên đàn ông khoát tay, bảo thích chính gã làm. Đôi mắt màu hạt dẻ sáng quắc sắc sảo, mũi hơi khoằm chiếc cằm vuông đỡ đôi môi dày nhục cảm trơn ướt. Có cảm tưởng gã vừa xong bữa chưa chùi miệng.

Nhưng chẳng làm gì, gã chỉ ngồi đó nhìn tôi như nhìn bình hoa, quyển sách, chai rượu hay viên sỏi, dửng dưng mà mắt không rời. Chẳng cho cởi thêm chẳng cho cài lại. Gã cứ nhìn, vô cảm, ánh mắt không say mê không khinh bỉ: cửa sổ mở toang mà chẳng linh hồn. Tôi vuốt nếp chân chim trên khoé mắt trữ tình. Sợ con gái rỗ hoa chẳng lấy được chồng, bố mẹ đã tốn cả kho tàng. Bốn lần sang Nhật tôi hả hê vuốt làn da mịn màng mỗi sáng. Giờ nó đã ỉu…

Để đỡ khó chịu, tôi nhìn cái chao thủy tinh lá ru rủ bao quanh chùm bóng đèn tròn trái nho sắp chín. Giống chao đèn phòng trà đầu tiên tôi đàn mỗi tối sau khi ra khỏi nhà dì. Ánh sáng mờ mờ ảo ảo và nhạc dập dìu quấn quýt chân tôi càng lúc càng sâu vào con đường gập ghềnh khúc khuỷu. Thấy tôi liếc, gã đến cạnh cười cười:

- Vous sốt ruột à? Tôi trả theo giờ mà, đừng lo.

Không lo, nhưng thái độ gã rờn rợn âm khí rừng Amazonie. Ánh mắt nâu hừng hực lửa địa ngục chưa hề thấy từ ai. Mùi gì lờm lợm không vật chất khó kham thoang thoảng khắp phòng. Liếc quanh, đồ đạc và cách trang hoàng sang trọng chẳng như phòng mình tối tăm chật hẹp. Mình đã bán thân trong những căn phòng đàn ông như thế này đây, để chúng hưởng thụ mọi điều: giàu sang và khoái cảm. Chợt mọi thứ tình lẫn lộn ngùn ngụt dâng lên: ghét gã, thương mình, căm phẫn đời. Đâu là cuối đoạn đường oan nghiệt tôi phải bước qua, mỗi ngày, để chẳng dẫn dắt về nơi nào cả? Tôi uể oải vuốt mái tóc hãy còn mượt dài, nâu ánh rừng thu, lơi lả vài tép màu vàng lúa mạch chưa tới mùa, chín vội. Kéo ra trước che bớt phần thịt hở hang. Gã lắc đầu chậc lưỡi ra dấu bảo đừng. Tôi thỏng tay, chẳng hất tóc ra.

Không biết gã lặng lẽ nhìn như vậy bao lâu, một khắc, một giờ hay cả đời tôi trôi nổi, đến cạnh vén tóc tôi ra sau bắt đầu sờ mó. Gã sờ mó cực kỳ nhẹ như sờ thủy tinh quý hiếm. Nhẹ tới nỗi phát nhột. Gã chẳng vội vàng gì, có cả thời gian nấu vuốt ve thành lửa. Lâu lắm, rồi dễ dàng như ôm đứa bé, xốc tôi đặt trên bàn, đẩy đống sách báo xuống đất. Bằng cử chỉ nghệ sĩ mân mê cọ vẽ, gã từ từ cởi từng cúc áo nhưng lại bứt phăng xu chiêng thô bạo. Chẳng hiểu sao tôi chéo tay ôm ngực. Gã bĩu môi cười cười. Đôi môi ươn ướt bẩn thỉu dục tình. May là gã không đặt nó lên tôi. Hay chưa. Mở ngăn kéo, gã lôi chiếc cặp da đen sáng bóng, liếc thấy toàn cà vạt thẳng tinh tươm.

Luôn luôn chầm chậm, gã nhẹ nhàng lấy từng cái buộc hai tay tôi với lụa vàng, xanh biển, lá cây, vẽ nhạc hình khoá sol đỏ sậm. Như thể mười ngón tay bị trói sẽ búng nốt thành lời. Bồng tôi đến bức tường trống gắn cái móc, treo lên, lùi lại nhìn. Gã nhìn từ trên xuống dưới, dừng lại một vài chỗ lâu hơn, lươn lướt khắp nơi. Rồi sự im lặng trở lại, kéo dài. Vẫn chẳng nói chẳng rằng, chỉ ngồi trên chiếc ghế gỗ bóng loáng chạm đầu sư tử nhe răng, nhìn tôi như vật tế thần… Da rờn rợn. Cảm giác sức nặng trì xuống, cánh tay rướn ra, thân thể lửng lơ trên không, và từ trên cao nhìn xuống chiếc mũi hơi khoằm… cũng có phần thú vị. Tôi mỉm cười. Ngồ ngộ. Chợt nhớ Chúa Jésus. Người nghĩ gì khi bị thiên hạ treo trên thập giá? Xin Đức Chúa Cha hãy tha tội thế nhân, vì chúng không hiểu những gì chúng làm. Tôi hiểu gã biết rõ những gì gã làm. Bỗng cơn ham muốn đàn ông ập tới ran rực khắp người. Giờ thông cảm bố hơn, sao không trọn lòng thủy chung với mẹ. Mẹ ơi, xin mẹ tha tội cho con. Xin mẹ tha tội cho con. Nếu chỉ trả nghiệp cha ông thì hẳn con không qua những cơn cuồng dục. Con khinh bỉ mình, như bố. Con thương con, như mẹ. Và thịt da sường sượng mỗi ngày là con, mãnh liệt hơn lòng yêu lòng ghét. Sao không bắt chước dân Phi Châu, cắt bỏ phần gì trong lau lách đàn bà, để quả lựu đạn trong con không còn ngòi nổ…

Đàn rắn từ vườn địa đàng túa xuống chui rúc vào thân, trườn trượt từng mạch nhỏ, quẫy đạp máu cuồn cuộn tràn trề từng lỗ chân lông. Nhắm mắt nghĩ đến người anh con cậu của gã đã đưa qua triền miên cực lạc. Tự nhủ thôi đây lần cuối, sẽ giữ thân tể cho người mình yêu.Tôi gọi anh khe khẽ, thật khẽ giữa tiếng kêu rên. Muốn cầm tay anh đặt lên đùi để cảm nhận sức rung điện toàn thân. Ngực tôi sẽ nưng nức căng phồng, tim tôi sẽ dập dồn túa máu nóng lan tràn từng tế bào rượn đực ham yêu, sẽ tựa đầu lên vai anh, nhắm mắt cho ngũ quan dập dờn khoái cảm. Chúa đi trong phố, vác thập giá lên đồi tử nạn, tôi khoác khăn lụa đi giữa bạt ngàn đồi nho ngày hai đứa nắm tay chạy sâu vào giữa. Chúa vấp té tự gượng đứng lên, đất xôm xốp gập ghềnh tôi chưa vấp té anh đã siết vào đôi tay vững chãi, cuộn vào hoan lạc. Dưới ánh nắng ấm áp năm giờ chiều tháng tám, hái trái nho xanh đặt lên rốn tôi, cười sảng khoái:

- Vous xem, cứ như hạt ngọc trên tấm lụa ngà…

Chiếc giày chân trái lỏng lẻo rơi xuống, âm thanh khô ngắn đánh thức cơn mơ màng. Gã bật dậy lột váy, giật mạnh ném xuống đất. Tôi thấy màu trắng xi líp. Không giữ được mình như tờ giấy tinh tươm, tôi dành màu trinh bạch này cho mẩu vải che phần thân thể vẫn thường gây phiền nhiễu. Tuyệt không được để gì lợn cợn dính vào. Bởi vì thước đo phẩm hạnh căn cứ vào số đàn ông công khai đìu địu bên trên… Tôi khép mi. Muốn say sưa nghĩ đến anh con cậu gã hơn nhìn vẻ dửng dưng thô bạo. Màu trắng xi líp tràn trề trong mắt. Gã xoay người tôi mở dây kéo váy, tôi hơi đong đưa chóng mặt. Lênh đênh, lênh đênh…

Lại mở mắt nhồn nhột: gã chọt ngón trỏ vào xi líp tôi, kéo ra rồi thả. Kéo ra rồi thả. Càng lúc càng nhanh. Tách. Tách. Tách tách. Tách tách tách... Tiếng cao su búng da vang dội căn phòng, âm thanh chua, sắc, gắt gỏng đến nỗi tấm gương bầu dục treo cạnh tủ sách ran rạn nho nhỏ rồi bựt đứt làm hai. Liếc thấy thân thể mình cắt đôi không đổ máu… Gã tuột chiếc xi líp trắng từ từ, từ từ như e làm da sướt. Với cử chỉ trân trọng đầy kịch tính, gã choàng xi líp lên đầu:

- Đây, tôi ban cho vous một vòng nguyệt quế.

Chúa đội vòng gai chuộc tội thế gian. Mình đội vòng nguyệt quế...



X



Tôi gục đầu vào cánh tay tê điếng mỏi mệt. Hy vọng từ nay được yên ấm…

Cảnh sát tìm ra thủ phạm chẳng khó khăn gì. Dấu vết để lại khắp nơi. Con dao rọc giấy cán cẩm thạch xanh lục. Những sợi tóc nâu trong bồn tắm. Mùa này đang mùa tóc rụng. Cũng tên tài xế Pierre ngày nào đón tôi đến cho anh dẫn xuống thăm hầm rượu sâu ba mươi thước luôn luôn nhiệt độ mười, có hai triệu rưỡi chai nằm ỉm say mèm vì bụng chứa nước nho lên men cao độ – đã đưa tôi đến với gã nhiều lần. Pierre khai cô gái da vàng có mặt hôm tang lễ bố anh tựa hạt đậu phộng vô duyên trong ly rượu. Chính gã ra dấu bằng ánh mắt cho Pierre theo dõi. Từ đó không chỉ chiếc xe kính đen đón đưa tôi, còn thêm xe kính trắng. Gã con cô, không mang họ danh tiếng nhà anh. Cũng chẳng có dáng vẻ bên ngoài phong nhã.

Cảnh sát hỏi vì sao giết gã. Tôi không giết, chỉ trả thù. Hỏi thù gì. Vì gã đánh, bảo mẹ mày là đĩ. Tôi cãi không phải. Gã bảo câm mồm. Nhưng mày không được nói động đến mẹ tao. Tao giết mẹ con mày còn được nữa là! Mẹ nào con nấy, mẹ mày đĩ mày mới làm đĩ. Thứ chintoc tụi mày! Cái gì trong bụng trườn lên, trườn lên, trào ra. Nước nhờn bữa cơm trưa chưa tiêu xối lên người, mùi lợm giọng. Gã cười sang sảng khoái trá. Nhìn tôi chăm chăm cười khoái trá. Mắt gã long lanh chó sói. Trang trọng giữ thân tôi tròng trành, gã liếm những cộng rau chưa nát, những mẩu thịt chưa tan. Nhột. Tôi liếc, cười theo, thích thú, hả hê nhìn gã làm công việc con chó nhỏ sau bữa cơm trưa hôi cơm tanh cá năm mười sáu tuổi...

Cuộc hỏi cung lâu quá. Và nhảm nhí nhiều điều. Tôi mệt, ngáp lia. Trong mơ thường đánh tôi thức giấc mỗi đêm, những cái ngáp cũng triền miên không dứt. Ngáp rồi rơi… rơi… rơi… rơi xuống cái gì đen ngòm nhầy nhụa. Dưới đó hàng vạn cánh tay lông lá thô bạo tóm lấy tôi, tung lên thả xuống cười hô hố. Sau tiếng thét tôi choàng dậy hoảng loạn một mình, trong đêm, cô độc tận cùng. Nhìn quanh, căn phòng nhỏ xíu u mê, tôi bé bỏng bơ vơ giữa mênh mông tăm tối…

Viên cảnh sát đứng lên quay lưng, nhìn qua cửa sổ. Tấm lưng ngang phè, tôi nhớ lại tảng lưng gã khi quay đi cởi áo. Nốt ruồi to nâu như đính hạt hạnh nhân, rung rinh mỗi cử động. Gã treo tôi lên đánh rất đều tay, nhịp nhàng điệu nhảy riêng trong chiếc đầu tóc bờm xờm ngang ngược. Ánh mắt gã lúc rừng rực căm hờn, lúc u ám thin thít tối tăm. Mỏi nhừ mới kéo xuống cưỡi lên. Tôi dang tay nhìn chỗ đỏ au khuỷu tay bị trói. Gã nhăn mặt kéo tay tôi vất lên tấm lưng dày cộm. Đau điếng. Tôi nhăn mặt rên siết. Trong đớn đau hay khoái lạc, đàn bà đều nhăn nhó rên siết như nhau. Gã hùng hục nặng nề công việc thợ mỏ. Anh phiêu lãng tung tôi lên tận bìa mây, dìm xuống vực sâu, ngụp lặn bềnh bồng đứt hơi, nhịp nhàng cuồng dại. Tự nhủ thôi đây lần cuối, sẽ giữ thân thể cho người mình yêu. Tôi nghĩ đến anh tìm khoái cảm. Nó đến. Hung hãn. Bạo liệt. Đau dần từng thớ thịt... Gã ực một tiếng, mắt chỉ còn tròng trắng đứng sững. Mắt tôi liếc con dao rọc giấy. Và khi gã đổ người bên cạnh ngáy lâm râm như kinh nguyện, tôi lặng lẽ chồm lên chộp con dao báu vật. Trong đầu thoáng nhớ phim gì, để tên khổng lồ một mắt không bắt được mình, cả bọn phiêu lưu trên đảo tìm cái sống đã đốt cây chọc vào mắt hắn. Tôi chọc vào mắt. Gã rú lên, chiếc miệng đỏ lòm ươn ướt mở rộng. Tôi đâm mạnh vào mồm. Gã hét phọt máu. Và cứ thế bổ xuống, bổ xuống chẳng ngừng. Nhớ lần anh cai trường cười cười: em mạnh dễ sợ! Chợt hiểu vì sao gã thích thú, chợt hiểu vì sao ngày nhỏ các bạn thích châm kim vào con búp bê nhồi bông của bà tiệm may mà mình lại sợ. Dao rọc giấy không sắc, không cắt được, tôi đâm nát phần thân thể đàn ông vẫn rủ rê đàn bà rắn rồng thiên đàng địa ngục.

Chỉ là trò chơi, nhưng chưa bao giờ chơi ngày còn bé.

Mỏi nhừ. Màu đỏ vương vãi. Lấm tấm chấm đỏ trên da tôi không quần áo. Mùi gì khó kham khi nãy bây giờ đã có vật chất dính vào. Gã chẳng còn kêu rên. Chẳng còn cử động. Tiếp tục trò chơi, tôi đá đống thịt ngả nghiêng phải trái, hả hê vào phòng tắm nhìn trong gương lộng lẫy đồng cát vàng lưa thưa hoa mào gà tươi rói. Mở nước tuôn xối xả, gột rửa hết tội lỗi nhơ bẩn tổ tông… Mơ hồ nghĩ có đúng mình làm vật thí thân trả nợ cha ông trọn kiếp? Khi mặt mũi không còn son phấn, trong gương thấy mẹ đối diện. Da mặt mẹ xanh và mắt rất buồn…

Thành xe lạnh ngắt. Một năm sau ngày mẹ mất. Cái lạnh trở về nhưng không có tuyết, khô khốc, nghiệt ngã hơn bao giờ. Không phải cái lạnh lần tắm sâm banh được đưa vào cung cấm nhà anh qua từng dãy hành lang dài đầy tranh ảnh. Tôi đã đối diện ông cao ông cố, bà cố bà cao, với lung tung bà con nội ngoại. Đã nhìn thấy hình cưới anh bên cô vợ tân thời quý phái, chợt thấy mình hèn mọn chẳng ra sao. Năm thế hệ cao sang sắp hàng trên bức tường gỗ bóng nhẫy. Tôi đưa tay chạm được lịch sử một danh gia vọng tộc. Giờ sắp bước vào hành lang tù dài hơn âm u hơn, chẳng có lịch sử nào ngoài mảnh rách đời mình.

Có cái gì đo đỏ vướng bên cửa xe bưng bít. Mơ hồ thấy giòng máu vọt ra từ cổ gã đỏ tươi, hay cái gì lợn cợn trên xi líp trắng tinh ngày thơ dại… Tôi chồm lên gọi thất thanh Mẹ, Mẹ ơi. Bởi vì cái gì đo đỏ lơ lửng ngoài kia là giải lụa vừa chở mẹ bay qua. Mà lạ, mẹ bíu hai đầu, gió thổi giữa lụa căng căng chiếc xi líp đỏ. Tôi rùng mình. Chỉ vướng một lần, sao còn máu mãi?

Chẳng sợ bị tù, chỉ sợ thịt da không kham nổi cô đơn. Xe chạy vun vút, tách người yêu mỗi phút một xa. Xin phép mẹ, con sẽ thay thế anh cai trường bằng anh cai ngục - mảnh lụa đời con sẽ rứt đứt tận cùng…

1852

Feb 26, 2007

Phạt cũng "chơi"



Người phụ trách ký túc xá nói với các sinh viên mới:


- Tôi nhắc lại, nam ở khu A, nữ ở khu B. Anh nào léng phéng qua khu B, lần đầu phạt 100 USD, lần 2 phạt 500 USD, lần 3 phạt 1.000 USD. Còn ai có ý kiến gì không?


- Xin hỏi, đóng trước tiền phạt cả năm là bao nhiêu ạ?

1232

Chuyến Đi Về Phương Nam



Tôi chẳng khi nào lưu lại vùng quê một thời gian dài. Ở đó thật buồn. Tôi muốn đi đây đi đó, muốn thấy những miền đất lạ, gặp gỡ mọi người. Nhìn chung, đó là một cuộc sống dễ chịu. Khi cần tiền thì tôi kiếm việc làm. Tôi có thể làm đủ thứ - từ việc nhà hàng, khách sạn, đến xây dựng và thu hoạch trái cây. Ở Châu Âu người ta có thể thu hoạch trái cây hầu như quanh năm. Tất nhiên, bạn cần có mặt đúng nơi, đúng lúc. Đấy không phải là công việc nhẹ nhàng, tuy nhiên cũng kiếm được kha khá.
Mùa đông tôi thích đi về phương nam. Sinh hoạt dưới ánh mặt trời thật dễ chịu, còn Bắc Âu mùa đông vô cùng lạnh giá. Tháng 10 năm ngoái tôi ở Venice. Ba tuần liền tôi làm vài việc lặt vặt tại một khách sạn, sau đó tôi nhẩn nha dời xuống phương nam. Khi nào có thể tôi luôn luôn đi tàu. Tôi thích tàu hoả. Trên tàu người ta có thể đi lại, có thể gặp gỡ nhiều người.
Tôi rời Venice và đi Trieste. Tôi mua vé loại thường đi tàu chậm tới Sofia. Chuyến tàu này qua Nam Tư và mất khá nhiều thời gian - một ngày rưỡi cả thảy. Nhưng với tôi việc đó chẳng thành vấn đề.
Tàu rời Trieste lúc 9 giờ sáng thứ năm. Lúc đầu khách vắng hoe, nhưng tới Zagreb khách lên đông hơn. Hai cô gái đi dọc hành lang qua khoang của tôi. Họ dòm qua cửa nhưng lại bỏ đi. lát sau một phụ nữ đứng tuổi bước vào. Tìm được chỗ của mình bà liền lăn ra ngủ. Hai cô gái đi ngược dãy hành lang và lại nhìn vào khoang. Tàu dời Zagreb. Tôi nhìn qua cửa sổ chừng mươi phút rồi cũng chìm vào giấc ngủ.
Khi tôi thức giấc, hai cô đã có mặt trong khoang. Trông họ có vẻ thân thiện vì thế tôi lên tiếng:
- Chào các cô.
- Chào anh! - họ đáp lại.
- Các cô là người Mỹ - tôi nói - Hoặc người Canada, phải không?
- Người Mỹ - cô cao hơn đáp và nở nụ cười - Còn anh 23 tuổi, tên anh là Tom Walsh, anh có cặp mắt xanh và mẹ anh sống ở Bumham bên Anh chứ gì?
- Làm sao cô biết tất cả những thông tin đó? - tôi hỏi. Cô thứ hai phá lên cười: " Thì người ta xem hộ chiếu. Nó nằm trong túi áo khoác của anh đấy thôi" .
" Ồ, phải rồi" . Chiếc áo khoác nằm trên ghế sát bên tôi. Tôi lấy cuốn hộ chiếu ra khỏi túi và nhét vào trong túi xách - Thế các cô là ai? - Tôi hỏi.
Họ đáp lời tôi. Melanie và Carol quê Los Angeles. Họ nói thích Châu Âu. Họ nói đã đến nhiều xứ sở: Anh, Hà Lan, Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Italia, Đan Mạch, Nam Tư, Bulgaria, Hy Lạp...
- Tôi đang trên đường tới Bulgaria - tôi nói - Ở lại đó khoảng một tháng. Sau đó tôi sẽ rời xuống miền nam sống qua mùa đông. Tôi sẽ đến Síp, cũng có thể là Bắc Phi" .
- Ồ, vậy sao? Chúng tôi yêu đất nước Bulgaria. Sofia là một thành phố tuyệt vời" .
- Các cô làm gì để kiếm tiền nào?
- À, anh biết không - Carol mỉm cười - Đôi khi chúng tôi kiếm một việc vặt vãnh nào đấy. Thôi thì đủ cả. Thế còn anh?
- Phải đấy - Melanie xen vào - Kể cho chúng tôi nghe về anh đi - chàng Tom Walsh có cặp mắt xanh. Anh đang làm gì vậy hả?
Thế là tôi kể cho họ nghe. Họ là những cô gái tốt. Họ lớn tuổi hơn tôi, có lẽ độ 27, 28 gì đó, nhưng tôi mến họ. Chúng tôi chuyện phiếm và cười đùa hàng tiếng đồng hồ. Tôi kể họ nghe nhiều chuyện về đời mình. Một số chuyện là có thật, một số thì không. Tuy nhiên cả hai đều cười và bảo rằng tôi là một gã cừ. Tôi hỏi họ về Bulgaria bởi tôi không biết gì về xứ ấy. Họ nói họ biết rõ Sofia.
" Này Carol - Melanie cất lời - Chúng mình sẽ ở Bela Palanka một hai ngày rồi cuối tuần này qua Sofia gặp Tom. Chúng mình có thể gặp cậu ấy vào đêm thứ bảy tại khách sạn Marrmara" .
" Tuyệt! Đó là một khách sạn ngon lành - Carol bảo tôi - Rẻ nhưng tốt. Anh nghĩ sao hả Tom?" .
- Còn gì bằng! - Tôi đáp - Cứ thế nhé.
Tàu đi rất chậm. Mãi sáu giờ tối chúng tôi mới đến Belgrade. Nhiều hành khách xuồng tàu. Lúc này trong khoang chỉ còn tôi và hai cô gái. Trưởng tàu đi tới kiểm tra vé của chúng tôi rồi lại bỏ đi.
Carol đưa mắt nhìn Melanie: " Này Mel, sao cậu và Tom không xuống toa hàng ăn nhỉ? Mình không thấy đói và mình muốn chợp mắt khoảng một tiếng đồng hồ" .
- Ờ... đồ ăn trên tàu đắt lắm - tôi nói - Lúc này tôi lại chẳng dư dả gì cho lắm. tôi sẽ kiếm việc làm ở Sofia.
- Ôi, Tom! - Melanie thốt lên - Sao anh không nói với chúng tôi? Xem này, anh là một chàng trai tử tế phải không nào? Chúng tôi còn đủ tiền cho tuần này. Chúng tôi có thể đãi anh mà.
- Tất nhiên rồi - Carol tán thành - Mà này, đến Sofia, chúng tôi có thể đưa anh vào một nhà hàng sang trọng nhất thành phố. Đó là một nơi hết ý. Chúng tôi thích chỗ đó lắm.
Tôi còn có thể nói gì chứ? Tôi đang đói. Họ lại có tiền còn tôi thì không. Thế là tôi và Melanie xuống toa hàng ăn lót dạ. Khi chúng tôi quay lại, Carol vẫn ở một mình trong khoang. Melanie thả chân lên ghế và thiếp đi.
Đến Nis thêm một số hành khách lên tàu. Có hai ông lão vào khoang chúng tôi. Họ vừa nhìn chân Melanie đặt trên ghế vừa nói chuyện ầm ĩ. Carol phì cười, còn Malanie mở mắt và ngồi bật dậy:
- Chúng mình sắp đến chưa? - cô hỏi Carol và nhìn ra ngoài cửa sổ.
- Sắp đến rồi. Khoảng nửa tiếng đồng hồ nữa, mình nghĩ gì vậy.
- Tại sao các cô lại xuống Bela Palanka? - tôi hỏi - Các cô sẽ làm gì ở đó?
Malanie mỉm cười: " Tìm một khách sạn rẻ tiền, gặp gỡ mọi người, thăm thú thành phố... anh biết đấy" .
- Chỉ một hai ngày thôi mà - Carol nói.
- Nhưng có quái gì ở đấy đâu!
- Ồ, anh chẳng biết được đâu - Malanie cười - Gặp anh ở Sofia, được chứ? Đêm thứ bảy đấy.
- Khách sạn Marmara. Lúc 8 giờ" , Carol bổ sung - Đừng quên nhé!
- Nhất định rồi - tôi đáp - Hẹn gặp lại hai cô ở đó.
Tàu vào ga Bela Palanka và dừng bánh. Hai cô gái xuống tàu và đứng lại trên sân ga. Qua cửa sổ họ mỉm cười với tôi. " Thứ bảy. Lúc 8 giờ" , Malanie hét lên. " Nhớ rồi" , tôi đáp. Họ không nghe được lời tôi bởi tiếng ồn ào trên sân ga. Họ mỉm cười, nhấc túi xách và bước đi. Quả là những cô gái tuyệt vời. Tôi nghĩ mình sẽ có những phút giây thú vị tại Sofia.

o0o

Tàu rời Nam Tư và vượt qua biên giới vào Bulgaria lúc 2 giờ sáng. Sau đó dừng lại tại một làng nào đó mà tôi không nhớ tên. Tôi ăn một quả táo và ngó qua cửa sổ. Bỗng nhiên có nhiều cảnh sát xuất hiện trên tàu. Hành khách trên khoang đứng cả dậy và bắt đầu xầm xì.
- Chuyện gì đang xảy ra thế? - Tôi hỏi ông lão ngồi bên bằng tiếng Italia.
- Tôi không biết - Ông trả lời bằng thứ tiếng Italia tệ hại - Có lẽ họ tìm một người nào đó. Xem kìa. Cảnh sát đang hỏi một số người vừa xuống tàu.
Lát sau hai viên cảnh sát bước vào khoang của chúng tôi, một người cao gầy còn người kia thì thấp béo. Họ nhìn chăm chú vào từng người... và rồi lại hướng vào tôi.
- Làm ơn đi theo chúng tôi - Gã mập nói bằng tiếng Anh.
Tôi mở miệng nhưng cảnh sát có bao giờ thích những câu hỏi của đám thanh niên tóc dài. Vì thế tôi im lặng, xách túi và đi theo họ. Trong nhà ga có rất nhiều cảnh sát và một số người vừa xuống tàu. Tôi nhận thấy tất cả bọn họ đều còn trẻ. Một số tỏ ra sợ hãi, một số có vẻ rầu rĩ. Cảnh sát khám xét từng chiếc túi, và sau đó mọi người lại lên tàu. Hai viên cảnh sát dẫn tôi đến bên một chiếc bàn. " Làm ơn cho xem hộ chiếu của anh - gã mập nói. - Và làm ơn mở túi xách ra" . Họ kiểm tra hộ chiếu của tôi và mở túi. Bàn bên có một nữ cảnh sát trẻ có mái tóc đỏ. Cô ta có khuôn mặt dễ thương, vì thế tôi mỉm cười với cô ta và cô ta cười đáp trả.
- Aaah! - Gã cảnh sát cao kều bỗng reo lên. Tất cả mớ quần áo dơ của tôi đã được trút ra bàn. Gã nhấc chiếc túi của tôi lên và dốc xuống. Từng bó đôla Mỹ rơi khỏi túi xuống mặt bàn. Toàn những tờ đôla mới cứng. Những bó lớn toàn tờ 50 đô. Nhiều tiền quá.
Tôi há hốc mồm không thể thốt lên lời. Bỗng chốc tôi trở thành một người được quan tâm. Rất nhiều cảnh sát chạy đến đứng sau tôi.
- 50.000 .... 100.000 .... 150.000... Ở đây có đến 200.000 đôla - gã cao kều nói. - Chiếc túi mới tuyệt vời làm sao, thưa ngài Tom Walsh!
Tôi nhanh chóng hoàn hồn. " Nhưng đây đâu phải là túi xách của tôi!" - tôi hét lên.
Gã ngoác miệng cười đắc chí: " Lạ nhỉ. Có tên anh trên đó cơ mà. Nhìn xem!" .
Tôi đưa mắt nhìn, tất nhiên là có tên tôi, và đương nhiên đấy là túi của tôi. Làm thế nào mà 200.000 đôla lại chui vào đó được?
- Anh không được mang đôla Mỹ vào đất nước chúng tôi - gã mập nói. Gã có mái tóc xám cắt ngắn và đôi mắt đen ti hý. Gã ta không hề cười cợt.
- Nhưng tôi không mang chúng - tôi nói nhanh. - Chúng không phải là tiền của tôi. Trước đây tôi chưa từng nhìn thấy chúng, và...
Có nhiều tiếng ồn ào ngoài sân ga, tôi nhìn qua cửa sổ thấy con tàu. Nó bắt đầu từ từ lăn bánh.
" Này! - Tôi la lên. - Đấy là chuyến tàu của tôi..." .
Gã cao kều phá lên cười. Đây là một ngày trọng đại của gã. " Ồ không - gã nói. - Anh sẽ không lên chuyến tàu đó nữa, sẽ phải ở lại đây với chúng tôi, tại đất nước xinh đẹp này" . Gã cười đắc chí.
Thế là tôi không đến được Sofia vào ngày thứ bảy. Tôi rất tiếc vì điều đó. Tôi muốn nói đôi điều với Melanie và Carol, hỏi họ một hai câu. Anh là một tràng trai tử tế, Tom ạ. Hẹn gặp anh ở Sofia, được chứ? Đưa anh đến khách sạn sang trọng nhất thành phố. Phải. Tuyệt lắm.
Và tôi không đến được Síp cũng như Bắc Phi mùa đông năm ấy. Tôi phải đi cải tạo. Trong tù cuộc sống đâu có an nhàn. Tuy nhiên mùa đông ấy khá ấm áp và đồ ăn không đến nỗi tệ. Tôi gặp một số người thú vị. Có một người quê ở Georgia, một nơi bên bờ biển Đen, tên anh là Boris. Một gã rất cừ. Khi ra tù tôi và anh sẽ sang Australia... có lẽ đến Brisbane hoặc Sydney. Kiếm một việc làm trên tàu và bắt đầu một cuộc sống mới. Hy vọng mọi chuyện sẽ tốt đẹp.266

Feb 25, 2007

Trào Lộng U Mặc Là Gì?



Cái Cười Của Thánh Nhân
Tác giả: Nguyễn Duy Cần


Trào Lộng U Mặc Là Gì?


Một nhà văn tây phương có viết:

"Tình yêu là một vị thần bất tử,
U mặc là một lợi khí,
Cười là một sự bổ ích.
Không có ba cái đo,ù không đủ nói đến văn hóa toàn diện" Cười

đùa quả là một sự bổ ích, u mặc quả là một lợi khí căng thẳng, ngột ngạt, cái khô khan của những chủ thuyết một chiều, cái máy móc của tâm hồn do văn minh cơ khí điều khiển uốn nắn... đang biến loài người thành những bộ máy vô hồn, không dám nói những gì mình nghĩ, không dám làm những gì mình muốn... mà chỉ thở bằng cái mũi của kẻ khác, nhìn bằng cặp mắt của kẻ khác, nghe bằng lỗ tai của kẻ khác... theo nghệ thuật tuyên truyền siêu đẳng của văn minh cơ khí ngày nay! Một con người hoàn toàn là sản phẩm của xã hội, chưa biết sống và dám sống theo ý mình... đó là mục tiêu chính mà u mặc nhắm vào.

Chính u mặc đã khiến cho bà Roland, khi lên đoạn đầu đài đã "cười to" với câu nói bất hủ này: "Ôi Tự Do, người ta đã nhân danh mi mà làm không biết bao nhiêu tội ác!"

Lâm Ngữ Đường, mà trí thức Trung Hoa tặng cho danh hiệu "u mặc đại sư" có nói: "U mặc là một phần rất quan trọng của nhân sinh, cho nên khi mà nền văn hóa của một quốc gia đã đến một trình độ khá cao rồi ắt phải có một nền văn hóa u mặc xuất hiện".

U mặc xuất hiện là để đặt lại mọi nghi vấn về các giá trị thông thường của xã hội mà đời nào cũng tự do là "văn minh nhất" lịch sử! Nhà văn Georges Duhamel khuyên người Tây Phương, trong hoàn cảnh hiện thời, cần phải đặt lại tất cả mọi giá trị của văn minh, vì chưa có xã hội nào trong văn minh lịch sử mà người trong thiên hạ điêu linh thống khổ bằng! Ở xã hội Trung Hoa ngày xưa, thời Xuân Thu Chiến Quốc, một thời đại điêu linh nhất đã phải sinh ra một ông Lão, một ông Trang, để đặt lại tất cả mọi giá trị của xã hội đương thời.

Nhà văn họ Lâm cho rằng: "Tinh thần ở u mặc Trung Hoa ngày xưa cũng đã thấy bàng bạc ngay trong kho tàng ca dao Trung Quốc. Trong Kinh Thi, Thiên Đường Phong, một tác giả vô danh, vì thấy rõ cái "trống không" của cuộc đời hết sức vô thường của con người, đã trào lộng hát lên:

Ngài có xe ngựa, sao không cưỡi, không tế...
Đợi lúc chết rồi, kẻ khác hưởng đi mất thôi!

Đó là một phần nào đã bộc lộ cái trạng thái u mặc.

Nhưng phải đợi đến nhân vật chủ não là Trang Châu xuất hiện, mới có được một thứ văn chương nghị luận ngang dọc... mở ra cho người đời một thứ tư tưởng và văn học u mặc hẳn hòi. Trang Tử là thủy tổ của văn học Trung Hoa.

Các tung hành gia như Quỷ Cốc Tử, Thuần Vu Khôn... điều là những nhà hùng biện trào lộng thật, nhưng vẫn chưa kịp phong thái u mặc thượng thừa của Trang Châu...

Nền văn Trung Hoa với "bách gia chư tử" đã phát triển rất mạnh. Người ta nhận thất rõ ràng có hai luồng tư tưởng khác nhau xuất hiện: Phái cẩn nguyện (Lấy lễ, nhạc, trang nghiêm, cung kính và nghị luận tuyệt đối một chiều làm chủ yếu), và phái siêu thoát (lấy tự do phóng túng, trào lộng u mặc, nghị luận dọc ngang làm yếu chỉ). Trong khi phái cẩn nguyện cúc cung tận tụy phó vua giúp nước, chăm chăm lấy sự "sát thân thành nhân", "lâm nguy bất cụ" làm lẽ sống, nhưng nhóm đồ đệ của Mặc Địch hay nhóm cân đai áo mão đồ đệ của Khổng Khâu, thì phái siêu thoát lại cười vang... cho bọn khép nép chầu chực ở sân rồng còn kém xa "loài heo tế", hoặc già như nhóm đồ đệ của Dương Chu, nhổ một sợi lông chân mà đổi lấy thiên hạ cũng không thèm, hoặc coi nhân nghĩa như giày dép rách, xem lễ là đầu mối của loạn ly trộm cướp...

Phái Nho gia có thuyết tôn quân nên bị nhà cầm quyền khai thác lợi dụng, nhân đó mà có bọn hủ nho xuất hiện, được nhóm vua chúa nâng đỡ đủ mọi phương tiện.

Nhưng, dù bị đàn hạc, bị bức bách đủ mọi hình thức, văn học u mặc chẳng nhưng không bị tiêu diệt lại còn càng ngày càng mạnh. Đúng như lời Lão Tử: "Tương dục phế chi, tất cố hưng chi". Cũng như văn trào lộng của nước Pháp ở thế kỷ mười tám sở dĩ được phát đạt một thời với những ngòi bút trào lộng bất hủ của Voltaire và Rousseau, phải chăng là "nhờ" nơi cái nhà ngục Bastille mà được vừa tế nhị, vừa rực rỡ! "Họa chung hữu phúc" là vậy!

Nguồn tư tưởng phóng khoáng của Đạo gia quá to rộng như đại dương, không sao đụng được trong những ao tù nhỏ hẹp, nó vượt khỏi thời gian không gian, ôm chầm vũ trụ, siêu thoát Âm Dương... không ai có thể lấy ngao mà lường biển. Cho nên tư tưởng Trung cổ về sau, dù đại thế của Nho gia được đề cao và chiếm địa vị độc tôn, cũng không làm sao ngăn trở nó được. Văn khí của u mặc hồn nhiên mạnh mẽ như giông to gió lớn, trước nó không một chướng ngại vật nào có thể đứng vững.

Huống chi người Trung Hoa trí thức nào cũng có hai tâm hồn: Bên ngoài là một ông Khổng, bên trong là một ông Lão. Nho Lão cùng ở trong một người mà không bao giờ nghịch nhau. Hạng trung lưu, không một người Đông phương nào, cả Trung Hoa, Nhật Bản hay Việt Nam mà đọc lên bài "Quy khứ lai từ" của Đào Uyên Minh lại không biết thích thú, nhất là hạng người say mê trong con đường nhập thế. Ngày có làm, thì đêm phải có nghĩ, đó là định luật của thiên nhiên: "Nhật hạp nhật tịch vị chi biến". Văn học u mặc là "mở", văn học cẩn nguyện là "đóng", nghĩa là khép kính trong vòng tiểu ngã, trong các giáo điều luân lý tôn giáo, nguồn gốc sinh ra không biết bao nhiêu việc nhỏ nhen ích kỷ và giả dối.

Văn học Trung Hoa, ngoài thứ văn học lăng miếu trong triều đình không kể, còn điều là thứ văn học rất đắc thế cho tư tưởng u mặc.

Văn học trong miếu, thực ra, chưa đáng kể là văn học, vì nền văn học có linh tính chân thật phải đi sâu vào tâm tư con người để khám phá và cởi mở những khác vọng thầm kính của nó mà ước lệ giả tạo của xã hội cấm đoán. Để hòa đồng với thiên nhiên phải tránh xa lối văn nhân tạo. Đó là đặc điểm đầu tiên của u mặc.

Ở Trung Hoa, nếu chỉ có nền văn học cẩn nguyện của Nho gia đạo thống mà thiếu nền văn học u mặc của Đạo gia, không biết văn học Trung Hoa sẽ cằn cõi khô khan đến bậc nào, tâm linh người Trung Hoa sẽ sầu khổ héo hắt đến chừng nào!

Nhận xét trên đây của nhà văn họ Lâm rất đúng, không riêng gì cho Trung Hoa mà cho tất cả mọi nền văn học trên khắp địa cầu. Nhà văn Chamfort có viết: "Triết lý hay nhất là hỗn hợp được sự vui đời mà trào lộng chua cay với sự khinh đời mà độ lượng khoan hòa"
<
BR>U mặc là ngọn t hanh phong trong những buổi trưa hè oi ả... của cuộc đời!

Khổng Tử đi hỏi lễ Lão Tử. Lão Tử nói: "Lời nói của ông là lời nói của những kẻ nay đã xương tàn cốt rụi. Vả, người quân tử đắc thời thì đi xe, không đắc thời thì tay vịn nón lá mà đi chân. Ta nghe rằng kẻ buôn giỏi khéo giữ của quý như không có gì, người quân tử đức thạnh, dung mạo như người ngu. Họ khác với cái kiêu khí và đa dục của ông. Thái sắc ấy và dâm chí ấy không ích lợi gì cho ông cả! Ta sở dĩ báo cho ông biết có bấy nhiêu thôi".

Đoạn văn trên đây của Tư Mã Thiên nói về Lão Tử và Khổng Tử, có cái ý vị trào lộng mà chua cay của người thời chiến quốc đối với hạng người thích làm thầy đời, chưa thể là văn u mặc thượng thừa. Phái siêu thoát, nếu lại nhập vào dòng yếm thế và phẫn thế, sẽ mất lần đi cái tinh thần chân chính của u mặc. Căn cứ vào tiêu chuẩn này, ta có thể nhận thấy rằng sách của Trang Tử gồm cả thảy ba mươi ba thiên, nhưng chỉ có nội thiên là toàn bích, phản ảnh đúng tinh thần u mặc thượng thừa của Trang Châu mà thôi. Các thiên chương khác, cũng có một số mà giọng trào lộng không kém Trang Châu, nhưng lại có giọng chua cay phẫn the (có thể do các tay Trang học, đạo theo lối văn u mặc của Trang), nên kém xa thần thái siêu thoát của Trang, như ở Thiên đạo chích chẳng hạn.

Khổng Tử lắm lúc cũng tỏ ra tinh thần u mặc: Sau một thời gian bôn ba thuyết khách, cốt đem đạo học truyền bá cho hàng đế vương mà không thấy ai biết dùng đạo mình, bèn than: "Dư dục vô ngôn. Thiên hà ngôn tai!". Rồi khi bị dồn vào thế kẹt, lại trào lộng tự bảo "tri kỳ bất khả nhi vi chi!!"

Bởi vậy, điều mà ta thích ở Khổng Tử, đâu phải lúc ông thiếu thời, sớm được thành công, đầy hăng say và tiểu khí ra tay giết Thiếu Chính Mão, mà chính ở vào lúc liên miên thất bại nhưng không mất vẻ trào lộng, thời mà ông không muốn chỉ "làm trái bầu treo lủng lẳng mà không ăn được!!". Vậy mà bọn hủ nho chỉ biết thích thú vỗ tay hoan nghênh cái ông Khổng Tử giết Thiếu Chính Mão, mà không biết thích cái ông Khổng Tử, vời cái cười trào lộng, khen cái chí của Tăng Điểm " Tắm sông Nghi, hứng gió ở nền Vũ Vu, trên đường về, cùng nhau nắm tay ca hát!" Nghĩa là họ chỉ biết thích cái ông Khổng bên ngoài của ông Khổng, mà không biết thích cái ông Lão ở bên trong của ông Khổng, cái ông Khổng "tòng ngô sở hiếu"!

Về sau Mạnh Tử cũng còn giữ được cái tính chất khôi hài khi ông " vượt bức tường đông để ôm chầm người con gái", điều mà bọn sĩ phu về sau không bao giờ dám hở môi.

Đến sau này, bọn hủ nho lại càng ngày lại càng kém, không đủ để bàn đến. Ngay như Hàn Phi Tử, tuy có tính cách trào lộng, nhưng lại thiếu sự nhẹ nhàng tự nhiên, nên cũng không sao theo kịp u mặc. Đến như bọn Đông Phương Sóc, Mai Cao đều chỉ là hạng người hoạt kê trào phúng, chưa có đủ bản sắc u mặc thượng thừa.

Mãi đến Vương Bật, Hà Án với tinh thần phóng khoáng của lão Trang, lại thêm có nhóm Trúc Lâm thất hiền tiếp tục khởi xướng, nên mới mở ra được cái phong thái thanh đàm, quét sạch được cái khí vị nặng nề móc meo của hủ nho thời ấy.

Trong cái không khí tự do đó, tư tưởng đời Chu Tần được cơ hội khai phóng, biến thành một phong trào hoạt đàm tự thích, như cây cỏ được cái nắng mùa hạ mà xum xuê, để rồi tiến sâu vào cảnh vật mùa thu. Kết quả là cuối đời Tấn, một nhà thơ trào lộng u mặc thành thục Đào Tiềm xuất hiện. Theo nhà văn họ Lâm, thì "cái vẻ đạm bạc tự thích của Đào Tiềm không giống cái vẻ cuồng phóng của Trang Châu, cũng không có cái bi phẫn của Khuất Nguyên"

So sánh bài " Quy Khứ Lai Từ" của Đào Tiềm với các bài "Bốc cư", "Ngư phụ" của Khuất Nguyên, tuy điều là những bài văn cao quý như hoa thơm cỏ lạ, nhưng văn họ Đào không có cái hồn âm kịch liệt và ai phẫn của Khuất Nguyên.

Họ Đào, như họ Trang, đều chủ trương về với tự nhiên, nhưng đối với thế tục, Đào không có cái bén nhọn như Trang. Đào không chịu " khom lưng, quỳ lụy vì năm đấu gạo" mà thương xót cho mình quá ngu dại vì miếng ăn đem đổi nhân phẩm của mình, còn Trang sinh thì lại cười vang cho bọn bon chen theo danh lợi không hơn gì bò lợn được dưỡng nuôi để mà xẻ thịt!

Nói thế, đâu phải chê Trang mà khen Đào, là vì, sự thật, có nhiều thứ u mặc: U mặc trong thi ca tự thích thì Đào là thủy tổ, mà u mặc trong văn nghị luận thì Trang là tối cao. Bản chất của thi ca là nhẹ nhàng thanh nhã, cho nên Đào rất ôn hòa là cái lẽ nó phải vậy. Họ Lâm cho rằng Trang Tử là thứ u mặc thuộc dương tính, còn Đào Tiềm là thứ u mặc thuộc âm tính: Khí chất khác nhau mà thôi.

Người Trung Hoa chưa nhận thức rõ ràng ý nghĩa sâu xa và vai trò quan trọng của u mặc nên cho rằng u mặc cũng đồng nghĩa với hoạt kê trào phúng, khiến nên u mặc bị kẹt trong một phạm vi hoạt động co hẹp.

Sau Trang Tử, văn chương u mặc có tính khí ngang tàng không thấy tiếp tục xuất hiện nữa. Là vì những tư tưởng phóng dật ấy bị thế lực đạo thống của Nho gia và quyền uy của vua chúa áp đảo. Trong khoảng hai ngàn năm người viết văn nghị luận đều phải theo đòi thánh hiền còn kẻ sĩ cầm bút cũng chỉ múa may trong vòng Khổng Miếu. Nếu có thứ văn nghị luận nào mới mẻ, kiến giải có hơi siêu phàm thoát tục liền bị coi là phản lại đạo đức, biện ngôn hay ngụy thuyết. Thậm chí bọn đại sĩ phu còn quy cho Hà Án, Vương Bật về tội xúi giục thối lan tràn của Kiệt Trụ, làm cho nhân nghĩ bị chìm đắm, nho phong mờ mệt, lễ nhạc băng hoại. Sở dĩ nước Trung Hoa điên đảo, họ cũng đều quy tội cho u mặc gây ra. Vương Lạc thanh đàm, vậy mà bọn hủ nho cho đó là triệu chứng diệt vong của nước tấn. Sự thanh đàm còn chẳng được chấp nhận, thì còn ai dám chủ trương nói đến chuyện " tuyệt thánh, khí chí", " tuyệt nhân, khí nghĩa!"

Các hủ nho có thể đem vứt bỏ văn học u mặc ra ngoài văn chương lăng miếu, mộ bia, nhưng không thể vứt nó ra khỏi cuộc sống của con người, vì u mặc là phần đặc biệt và quan trọng nhất của đời người. Dù là trong sinh hoạt của các nhà đại nho, dù học là những người sáng tạo ra văn học cần nguyện trang nghiêm đạo mạo bậc nào, trong những khi cùng bạn hữu đàm đạo, há chẳng có những lúc cười đùa châm chọc nhau sao? Chính những phút ấy là những giấy phút thần tiên, tâm hồn cởi mở và sống thật. Chỗ khác biệt giữa văn học cẩn nguyện và văn học u mặc là văn cẩn nguyện thiếu cái "ướt át" của u mặc mà thôi.

Trong nền văn học Việt Nam, mà thiếu văn chương lãng mạn u mặc của ca trù, thử hỏi còn có cái gì là tự do sinh khí nữa! Vậy mà bọn đạo đức giả nước ta không ngớt lên án là thứ văn chương du hí và vong quốc! Người ta đã kém thành thật đối với mình.

546

Feb 24, 2007

Ngủ ngon lần cuối



Trước khi rút xương sườn của Adam để làm cho anh ta một người đàn bà, Thượng đế đã đánh thuốc mê cho Adam rồi thở dài:
- Tội nghiệp, đây là lần cuối cùng con được ngủ yên.

2368

Vẫn Chưa Muộn Màng





Diệu từ Paris sang Montréal thăm Trầm, cô em bạn mà Diệu đã quen trong những dịp làm văn-nghệ giúp vui cho đồng bào Tị-nạn trong trại tạm cư Créteil ngoại ô Paris. Tính đến nay đã hơn mười lăm năm rồi. Bây giờ Trầm đã có chồng, sanh được hai con và sinh sống tại nơi này hơn hai năm qua.

Xế trưa, vào đầu mùa hè mà trời hôm nắng, hôm mưa và nóng hầm, oi bức. Diệu mặc áo thun trắng và chiếc quần sọt cũng màu trắng và xách dù đi ra trung tâm Montréal để nhìn ngắm lại những đường phố cũ. Bởi năm sáu năm về trước, nàng thường sang đây lo công việc cho hãng H.P. nơi thành phố này. Dạo đó, Diệu chỉ giao thiệp với dân bản xứ, nàng chẳng có quen biết ai là người Việt Nam.
Diệu đang lang thang và ngắm nhìn những tiệm quần áo trong thương xá... nằm dưới hầm của đại lộ René Levesque. Tâm hồn Diệu đang bình lặng không gợn một chút buồn vui. Bỗng nàng nhìn phía bên tiệm quần áo đàn ông, nằm đối diện với tiệm quần áo đàn bà. Một người đàn ông Á-Châu, tuổi ngoài năm mươi cũng đang nhìn ngắm đồ trong tiệm. Vóc dáng của ông hơi gầy, cao vừa vừa, mái tóc muối tiêu, đôi mắt to tròn và sâu thẳm. Ông ngước lên nhìn Diệu. Hai người đi đến gần cùng gật đầu chào. Diệu mở lời hỏi trước :
- Xin lỗi ông. Có phải ông là người Việt Nam không ?
- Dạ, phải. Còn bà ?
- Tôi đang nói tiếng Việt với ông đây.
- Ha ! Tôi thật là ngớ ngẩn. Chắc bà từ xa mới đến đây ?
- Dạ, đúng .
- Có phải bên làng Sàigòn-Nhỏ Cali. không ?
- Dạ, không phải. Tôi đến từ Paris !
- Ô, vậy à ! Xin lỗi bà ! Paris chắc đẹp lắm phải không bà ?
- Dạ, đẹp. Ông có viếng Paris lần nào chưa ?
- Dạ, chưa ! Vì...
Diệu cướp lời:
- Vì bận gia cảnh hay công việc làm ăn chớ gì ?
Ông kia ngập ngừng... rồi nói bằng một giọng nhẹ :
- Gia cảnh ! Không. Không phải vì gia cảnh, mà vì công việc thôi.
Diệu thoáng nghĩ và nhủ : ''Vậy là chàng tóc muối tiêu này không có vợ hoặc là tình duyên bị dang dỡ gì rồi ? Trông gương mặt của chàng có nét hiền từ, ánh mắt buồn, nụ cười như gượng gạo. Chàng tên gì và làm gì cà ?''. Diệu đang nghĩ ngợi. Ông nhìn Diệu và hỏi :
- Bà đang suy nghĩ gì mà trông bà có vẻ đăm chiêu quá vậy ?
Diệu giựt mình :
- Dạ, dạ. Tôi muốn hỏi ông tên chi ? Còn tôi, tên Diệu.
- Diệu ! Tên của bà sao nghe buồn quá. Xin lỗi bà, từ hồi nãy giờ tôi cũng quên tự giới thiệu. Tôi tên Thế !
- Nguyễn Văn Thế phải không ?
- Dạ, không. Trần Văn...
Diệu vuốt đuôi nhanh :
- Thế ! Mà Nguyễn, Trần, Lê gì cũng là nguyên thủy gốc Việt Nam !
Thế gật đầu và hỏi sang chuyện khác :
- Bà có mua sắm gì chưa ?
- Dạ, chưa. Mà mua sắm làm chi. Tôi chỉ thích đi dạo để rửa mắt thôi !
Thế nghĩ : ''Mình cũng rảnh, vậy mình thử mời bà này đi uống nước''. Ông mỉm cười và hỏi Diệu :
- Bà có bận gì không. Bà cho phép tôi mời bà đi uống cà-phê với tôi đàng kia được chứ ?
- Dạ, được. Lòng vòng nãy giờ tôi cũng hơi khát nước rồi.
Trong lòng Thế nghĩ : ''Người đàn bà này ăn mặc và cử chỉ bên ngoài như Âu-Mỹ mà nói chuyện thì thật là Việt Nam''. Thế chẳng biết nói gì, vì ông thuộc loại người ít nói. Nhưng chàng cũng phải mở lời :
- Hỗm rày đã vô hè. Dầu trời có mưa nhưng vẫn nóng bức. Bà thích nóng hay lạnh ?
Diệu quay mặt qua và nói :
- Ai mà thích lạnh bao giờ ông. Ngày đầu qua đây trời nắng và nóng. Tôi rất thích. Vì bên Paris ít khi có nắng. - Vậy thì bên Paris còn lạnh à ?
- Dạ, vẫn còn. Lúc tôi đi trời lạnh hơn bên đây nhiều.
(...)
Thế và Diệu, hai ông bà đi song song và bước từng bước chậm lướt qua những cửa hàng trang trí thật sang trọng và đẹp đẽ. Tới quán cà-phê... Thế ga-lăng kéo ghế cho Diệu ngồi. Rồi đi ông vòng qua bên kia ngồi đói diện với Diệu. Thế ân cần hỏi :
- Bà dùng chi ?
- Dạ, bia.
Thế ngước lên nhìn cậu bồi bàn đang đứng chờ, Thế nói :
- Cậu cho chúng tôi hai chai bia Hen-nơ-ken.
Cậu bồi bàn đi lấy bia và đem lại rót vào hai cái ly rồi bỏ đi. Thế xoa hai bàn tay, miệng mim mỉm cười và hỏi Diệu :
- Bà sang đây chơi được bao lâu rồi ?
- Dạ, mới hai ngày.
- Chừng nào bà trở về Paris ?
- Dạ, cỡ chừng mười ngày nữa.
- Nhanh vậy à !
- Dạ, vì tôi không thích bỏ nhà lâu.
- Hỗm rày bà viếng thăm những thắng cảnh nơi đây chưa ?
- Dạ, chưa. Hồi trước, tôi có qua đây nhiều lần, nên bây giờ làm biếng đi xem lại, mà cũng chẳng cần thiết gì ông à !
- Bà có thân nhân ở đây chứ ?
- Dạ, có, Tôi có quen cô em bạn lấy chồng nơi đây.
Diệu thấy cách xưng hô giữa nàng và Thế còn quá khách sáo, nàng nói tiếp :
- Sao mà ông Thế gọi tôi bằng bà hoài vậy ?
- Thì... thì mới vừa quen ... chị mà !
Diệu mỉm cười :
- Hết bà, rồi tới chị... Chắc ông thấy ... nó già lắm hả ?
Thế trở bộ ngồi, tay bưng ly bia lên hớp một hớp, rồi nói trỏng :
- Chắc chắn ... nhỏ hơn tôi rồi ! Mà sao chị cũng gọi tôi bằng ông hoài !
- Được, được. Tôi đổi lại đây... Anh bao nhiêu tuổi ?
- Ngoài năm mươi !
Thế chỉ tay vào Diệu, chàng tiếp :
- Còn... Xin lỗi, tôi hơi bất lịch sự hỏi tuổi đàn bà...
- Dạ, đâu có sao. Tôi nhỏ hơn anh chắc vài ba tuổi. Già rồi anh ơi !
Thế đưa ánh mắt diệu dàng nhìn Diệu :
- Tôi tưởng đâu... trẻ hơn nhiều nữa chớ !
Diệu đưa tay vén mái tóc đàng trước trán và chỉ cho Thế :
- Nè, tóc tôi nhuộm. Nếu không thì cũng trắng như tóc của anh đó. Anh lớn tuổi mà tóc của anh còn nhiều ghê hén !
Thế vừa nghe lời của Diệu khen mái tóc mình. Bất chợt chàng nhớ cảnh học tập, cải tạo ngày xưa. Ánh mắt của Thế quắc lên và nói một giọng mai mỉa :
- Tại nhờ tôi bị ăn rau muống với muối hột suốt mười bốn năm trời đó.
Diệu ngạc nhiên :
- Hả ! Anh nói cái gì mười bốn năm ăn rau muống ?
Thế thở ra và gằn giọng :
- Học tập, cải tạo. Tù của Cộng-Sản Việt Nam !
Diệu vừa nghe Thế nói, nàng nghe trong lòng quặn thắt đau như vừa bị ai cắt đứt ruột. Đôi mắt nàng cũng quắc lên liền nói :
- Trời ơi ! Tụi nó dày anh dữ vậy sao ? Thiệt là cái thứ tàn nhẫn... Chắc hồi đó anh là sĩ quan cao cấp trong quân đội Việt-Nam Cộng-Hòa phải không ?
- Không. Tôi không phải là lính. Mà tôi làm trong Bộ Thông-Tin - Tâm-Lý-Chiến !
- Trời ơi ! Hèn chi !
Thế và Diệu chuyện trò hỏi thăm nhau, và trao đổi địa chỉ mà đã hơn cả tiếng đồng hồ rồi. Hơn sáu giờ chiều, Diệu đứng lên cáo từ. Nhưng Thế không để cho Diệu đi métro về một mình. Chàng gọi người ta tính tiền. Trả tiền xong, chàng và Diệu ra xe, rồi trực chỉ đưa Diệu về tận cửa nhà của Trầm. Và họ hẹn nhau qua ngày sau sẽ liên lạc bằng điện thoại.
Diệu đứng trông theo chiếc xe và Thế khuất dạng, nàng đi vào nhà nhận chuông, Trầm ra mở cửa trên tay đang ẵm bé Vũ, còn bé Thu cũng chạy theo sau, Trầm tư1830

Cầu Cho Bạo Chúa Sống Lâu.



Cái Cười Của Thánh Nhân
Tác giả: Nguyễn Duy Cần

Cầu Cho Bạo Chúa Sống Lâu.


Có một lão bà ở Syracuse. Lúc bấy giờ vua Dennys trị dân tàn bạo một cách không thể nói.

Thiên hạ đều cầu khẩn cho vua chóng chết.

Thế mà lão bà sáng nào cũng vào giáo đường cầu nguyện cho bạo chúa sống lâu. Hơn nữa lại còn vái lạy thần linh, nếu có làm chết xin làm chết mình thay cho hôn quân.

Vua biết tin lấy làm lạ lùng quá, bèn vời lão vào hỏi cho rõ lý do. Lão bà nói:

- Tôi nay không có xuân xanh nữa! Trước đây, khi tôi còn trẻ, nước tôi đã phải gặp hôn quân vô đạo, thật là khổ sở vô cùng. Tôi cầu nguyện cho nước thoát khỏi hôn quân. Sau đó kẻ hành thích vua khác lên kế nghiệp. Ngờ đâu lại tàn bạo hơn vua trước. Tôi lại nghĩ, giả sử vua này chết đi, thì có lẽ nhân dân thoát khỏi lầm than. Hay đâu vua ấy qua đời, thì đến bệ hạ lên ngôi, thiên hạ lại lầm than nhiều hơn các đời vua trước nữa. Lấy đó mà suy, thì đời sau chắc hẳn vua lại còn tàn ác hơn đời này. Sở dĩ tôi cầu nguyện đem thân này thế cho nhà vua được trường thọ là để trì hoãn được cuộc thay đổi ấy ngày nào hay ngày đó!

Lời bàn:

Câu chuyện bắt đầu là đã có sự bất ngờ. Và từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, ta đi đến một bất ngờ vô cùng hài hước này: Trong khi ai ai cũng đều cầu mong cho bạo chúa chết đi, lại có một bà lão vái van cho bạo chúa sống lâu, và nếu cần, chết thế cho bạo chúa.

Nhất là câu giải thích cuối cùng của lão bà, thì quả là điều mà không ai tưởng tượng. Phải chăng đó là lời nói của một tâm hồn tuyệt vọng hay một tiếng cười nghịch ngợm chua chát, vô cùng can đảm, để mà đùa cợt với cuốc đời?

Sau hồi ngạc nhiên và thỏa mãn với câu "chửi" táo bạo vào mặt hôn quân, ta cảm thấy có một ý vị sâu sắc trong lời nói đầy kinh nghiệm và "khôn ngoan" của lão bà. Lúc bà còn trẻ tuổi, bà cũng tin rằng hễ giết được bạo chúa thì thay đổi được cuộc diện xã hội tức khắc. Nhưng, qua bao nhiêu lần thay đổi, bà lại thấy xã hội này càng điêu linh thống khổ hơn. Nay bà đã già rồi, với bao kinh nghiệm đã trải qua, bà không còn ảo vọng nữa.
570

Feb 19, 2007

VỎ ỐC CÔ ĐƠN





Quỳnh Hoa yêu thương,

Suốt tuần lễ nay anh như lên cơn sốt mỗi khi nghĩ đến phải viết bức thư này cho em. Anh muốn quên đi điều này, tránh né điều mà anh thật lòng muốn mất đi trí nhớ để không còn một chút gì trong ký ức nữa... Nhưng rồi anh phải đối diện với sự thật. Có nghĩa là anh phải viết lá thư này đến em...

Quỳnh Hoa em,

Anh không biết phải đặt em vào cương vị nào trong đời anh? Người vợ ư? Người tình ư? Hay thôi, anh tạm gọi em là cố nhân đi em nhé! Khi đã gọi em hai chữ “cố nhân” tức là anh đã quyết định chấm dứt cuộc tình của chúng mình rồi!


Anh tự động dứt khoát chưa có sự đồng ý của em nhưng anh tin em đọc kỹ thư này rồi sẽ hân hoan chấp nhận vì biết rằng anh vẫn kính yêu em.


Cho anh nhắc lại một lần kỷ niệm êm đềm của chúng mình Quỳnh Hoa nhé!


Lần đầu tiên theo bạn bè về thăm lại quê hương sau hai mươi năm trời xa cách. Bỏ bạn bè lại Saigon, anh len lỏi về quê thăm gia đình, ngang qua bờ sông đầy sỏi trắng, anh như bị chôn chân lại ở dòng sông nhỏ khi thấy em đang ngồi ngâm hai chân xuống nước với dáng vẻ trầm tư. Anh bị thôi miên bởi những ngón chân đỏ hồng của em dưới dòng nước đang xuôi chảy. Em hoảng hốt, lúng túng khi bất chợt nhìn thấy anh đang đăm đăm đứng lặng người nhìn... Rồi anh cũng hoảng hốt xin lỗi sự có mặt đường đột ấy. Người ta gặp gỡ thường tương tư nét đẹp và thanh tú của người thiếu nữ. Riêng anh, anh cũng lấy làm lạ vì sự tương tư khác thường của chính mình.


Rồi vì cùng xóm, ta quen nhau dễ dàng. Bạn bè anh về thăm quê hương hầu như với những ước mơ hưởng thụ. Anh suýt có lần đánh lộn với một người bạn khi nó bảo: “Hãy hưởng thụ để trả thù dân tộc”. Dân tộc mình có gì để mà trả thù? Câu nói vô ý thức ấy đã khiến anh tách rời lũ bạn để về ở hẳn với gia đình. Trong vòng một tháng, một tháng ấy anh không khai thác gì thêm được nơi em ngoài vẻ trầm mặc, ngoan hiền và có vẻ chịu đựng; ba em, một phế binh QLVNCH cụt hai chân, ngồi lê lết trên chiếc mo dày, mẹ em lao lực quá sức đã ho suốt đêm, suốt ngày, phần em từ khi đổi đời đã cởi bỏ chiếc áo mô phạm để buôn tảo bán tần nuôi cha, nuôi mẹ. Gặp em, anh cảm tưởng như là định mệnh vì từ lâu rồi, từ lúc tình đầu anh dang dở, anh quyết không lập gia đình... Nhìn em trong hoàn cảnh thương tâm ấy, anh càng yêu quý em hơn. Anh đã xin phép mẹ anh ngỏ lời xin cưới em.


Đêm tân hôn vui vẻ, tiếp đãi bạn bè nhưng anh vẫn không ngừng theo dõi những diễn tiến nội tâm em... Mặt em trắng bệch, môi em run run khi đứng trước mặt Duy, em nâng ly rượu uống cạn như uống hết đắng cay cuộc đời. Em cám ơn từng người, riêng Duy em không nói lời nào chỉ quay nhìn hướng khác.


Lần đầu tiên uống rượu nên em đã ngủ say đêm ấy. Sự ghen tuông, ích kỷ khiến anh không ngủ được khi nhớ lại thái độ em và ánh mắt buồn diệu vợi của Duy. Anh tò mò lục lạo tìm kiếm dấu tích về quá khứ của em. Không khó khăn gì: trong chiếc vali lớn đựng quần áo mang sang nhà anh trong ngăn vải nhỏ em giấu một bức thư gửi cho Duy nhưng chưa kịp trao. Đọc một lần nhưng anh vẫn nhớ mãi nội dung, anh đã cầm bức thư ấy về Mỹ, anh ghi lại đây để em được đọc lại những gì em đã viết cho Duy: “Duy! Tha thứ cho em và hãy cố quên đi kẻ bội tình. Tuy tha thiết yêu anh nhưng mẹ bệnh quá nặng, nếu không có tiền trị bệnh, mẹ có thể mất. Em không nở nhìn Ba lê lết trên tấm mo cau mỗi ngày, bữa đói, bữa no. Anh thì không làm gì ra tiền, vì sự bất công của xã hội sau khi anh đi cải tạo về, ước mơ sang Mỹ với diện H.O. cũng tan thành mây khói vì anh không hội đủ điều kiện. Em nhận lời cầu hôn của anh Đỗ ở Mỹ về là có lỗi với anh khi bội ước lời thề, nhưng xin anh hãy tha thứ và thông cảm cho em. Ngoài sự lựa chọn này, em không còn có một con đường nào khác. Và em cũng cảm thấy có lỗi với anh Đỗ, do đó em nguyện với lòng giữ mãi sự thủy chung để đáp lại ơn nghĩa. Cúi xin anh lượng thứ cho em.”


Trong đêm khuya, đọc lá thư em anh đã tự trách mình quá hấp tấp, không chịu tìm hiểu sâu vào quá khứ của em. Anh vô tình cướp đi một mối tình của chiến hữu. Đã làm khổ em. Anh thấy Duy xứng đáng để hưởng tình yêu của em hơn anh. Bao nhiêu năm cải tạo về, không còn một chút gì để bám víu ngoài tình cảm của em. Anh lại “cướp” em đi, anh biết Duy sẽ đau khổ lắm. Với ý nghĩ ấy, nên anh đã bảo em rằng anh giữ gìn trong trắng cho em chờ ngày đón em qua Mỹ. Em lại tin anh, vì sự thánh thiện của em nên ngay hôm sau anh đã hấp tấp nhờ người đổi vé máy bay để về sớm hơn dự định vì anh không biết gần gũi em lâu, anh sẽ thế nào...


Đến Mỹ, hình dáng em, tính tình em lại càng nung nấu anh hơn. Những ngày phép còn lại, chiều chiều anh lái xe ra biển nhìn vọng về quê hương... Anh lại chui vào vỏ ốc cô đơn của mình, anh buồn và nhớ em lắm nhưng anh chấp nhận sự hy sinh này vì dù gì anh vẫn còn diễm phúc hơn Duy nhiều.


Anh kèm theo thư này với số tiền hai ngàn đô. Với số tiền này, anh xin làm quà cưới cho em và Duy. Em sẽ cười anh “quân tử Tàu”. Nhưng Quỳnh Hoa ơi! Cho anh được làm một điều mà anh cảm thấy ý nghĩa trong cuộc sống của anh: xoa dịu phần nào khổ đau của dân tộc mình. Một điều anh tha thiết nhất. Hãy quên anh và mong em cũng như Duy được an vui hạnh phúc, đó là trả ơn anh.

Vẫn thương em như người em gái.

1266

Gặp Nhau Giữa Đám Đông



Gặp Nhau Giữa ĐSống trên đời, nếu bạn làm được nghề bạn ưa thích thì thật hạnh phúc, giống như bạn lấy được người mà bạn thương yêu. Nhưng sống trên trái đất ở giữa thì tròn hai đầu hơi méo, bạn cũng đừng đòi hỏi mọi chuyện phải tròn vo. Nếu bạn phải làm nghề bạn chưa ưa thích, bạn cứ yêu nghề đi, nghề sẽ "yêu" lại bạn. Ðối với người bạn chưa yêu cũng vậy.
Bạn không tin ư ? Tôi xin đưa ra một ví dụ để chứng minh.

Cách đây mười bốn năm, khi còn dạy học ở một tỉnh miền Trung, tôi đã ra cho học sinh một đề tài luận văn : "Em hãy chọn một nghề em mong ước và cho biết lý do". Tôi đã xúc động khi đọc bài làm của Mai. Em là học sinh duy nhất trong lớp mong ước nghề dạy học. Em đã đưa ra những lý do thật cao quí khiến tôi lần đầu tiên cảm thấy nghề mình đang theo đuổi cao quí thật !

Ðến giữa năm học lớp 12, Mai đột nhiên bỏ học. Em đã nhất quyết lấy người mình yêu, mặc cho gia đình ngăn cấm. Sau đó, em theo chồng về miền Nam sinh sống và tôi bặt tin em.

Tôi biết trái tim có lý lẽ riêng của nó, nhưng tôi vẫn tiếc cho Mai. Em là một học sinh thông minh, luôn luôn đứng hạng nhất, nhì trong lớp. Nếu em không bỏ học và sau này làm nghề dạy học như em mong ước, chắc em sẽ giúp ích cho nhiều người.

Cũng có thể chính tôi đã sai lầm. Em đã biết nắm bắt ngay tình yêu khi nó đến. Còn tôi cứ để nó trôi qua rồi nuối tiếc, ích gì ? Trong một đời người đã chắc gì tình yêu (như thần tài) gõ cửa lần thứ hai.

Vào ngày ngăn sông Ðồng Nai tạo dòng thủy điện, tôi đã theo đoàn báo chí lên Trị An để viết bài tường thuật. Tôi không ngồi ở khán đài mà lẫn trong đám đông công nhân để hỏi chuyện. Nghe những chuyện họ kể, bài viết của tôi sẽ có nhiều chi tiết lý thú hơn là nghe những bài diễn văn.

- Chào thầy.

Tôi giật mình quay qua nhìn cô gái đứng kế bên. Tôi đã bỏ dạy học và chuyển hộ khẩu về thành phối hơn mười năm. Chẳng mấy người biết nghề cũ của tôi. Có lẽ tại cái kính cận bốn độ tôi đang mang khiến cô gái này nhận lầm tôi với một ông giáo làng.

- Thầy quên em rồi sao ? Em là Mai.

Trời đất ! Cô học trò cũ của tôi đây ư ? Tôi thật sự không nhận ra em. Khuôn mặt học trò với đôi mắt liếng láu ngày xưa đã biến mất, thay vào đó là một khuôn mặt rám nắng với đôi mắt cương nghị. Tôi lúng túng nói :

- Tôi xin lỗi. Em thay đổi nhiều quá.

- Em đâu có sửa mắt, sửa mũi mà thầy nhận không ra. Còn thầy chẳng có gì thay đổi. Em đã nhận ra thầy ngay từ xa.

- Tôi cũng thay đổi nhiều chứ. Em không nhìn thấy tóc tôi bạc rồi à.

Mai che miệng cười.

- Nhưng tướng thầy trông vẫn lù khù như xưa. Thầy chuyển về dạy học ở gần đây ?

- Không. Tôi đã chuyển qua làm báo. Còn em làm gì ở đây ?

- Công nhân lái máy ủi đất.

Tôi trợn mắt nói :

- Em lại đùa rồi.

Mai cười :

- Em đã nói thầy không thay đổi mà, kể cả đầu óc.

Vừa lúc đó tiếng pháp lệnh nổ vang làm chúng tôi giật mình. Mai nói vội vã :

- Thầy đợi em ở đây. Em còn nhiều chuyện muốn nói với thầy.

Mai cùng một số công nhân nữa chạy đến bãi đậu xe cơ giới ở bên bờ sông. Em leo lên một chiếc xe có cắm lá cờ đuôi nheo màu đỏ. Cả đoàn xe rồ máy tiến lên giữa tiếng hoan hô vang dậy. Những khối đất, đá, bê tông được đổ ào ạt xuống cửa khẩu. Nước sông bắn lên trắng xóa lẫn trong đám bụi đỏ bay mờ mờ. Không khí náo nhiệt như một ngày hội lớn. Tiếng động cơ rầm rú, tiếng còi xe hòa với tiếng vỗ tay reo hò. Tôi không còn nhận ra chiếc xe nào Mai đang lái giữa đoàn xe đang tiếng lên nhịp nhàng.

Hai giờ sau, con đê ngăn sông đã xong. Các xe cơ giới trở về bãi đậu ở hai bên bờ. Ðoàn xe con chở đại biểu từ từ đi qua con đê vững chắc. Theo sau là đoàn người đi bộ nhảy múa vui mừng.

Tôi đứng lại một mình trên đồi lởm chởm những tảng đá, không một bóng cây. Nắng chói lòa làm mắt tôi hấp háy. Mai từ dưới đồi đi lên. Áo em dính đầy bụi đỏ. Em cầm chiếc mũ nhựa màu vàng quạt quạt khuôn mặt đẫm mồ hôi. Chúng tôi đi đến ngồi ở một tảng đá gần bờ sông. Mặt nước còn ngầu đục vì đất, cát vừa đổ xuống. Mai ném một hòn đá xuống sông, chăm chú nhìn những vòng tròn đang lan ra.

- Lúc nãy em nghĩ có nhiều chuyện cần phải bày tỏ với thầy. Bây giờ lại chẳng thấy cần thiết, như con sông kia giờ đã đổi dòng.

Không phải lúc nào người ta cũng dễ dàng giải bày tâm sự. Tôi tránh hỏi Mai về chuyện cũ mà hỏi về đội máy ủi của em đã thi công xây dựng đập thủy điện Trị An.

- Thầy định đưa em lên báo à. Thôi em sợ lắm.

- Em có yêu thích nghề hiện nay hay chỉ vì hoàn cảnh bó buộc ?

- Thầy biết tánh em rồi, nếu không yêu thích, em bỏ ngay.

- Thế sao ngày xưa em lại mong ước làm cô giáo ?

Mai thở dài, đưa hai tay vuốt mái tóc ngắn về sau gáy :

- Em đã định không nói, nhưng thôi, để em kể cho thầy rõ. Ngày ấy, em ước mơ làm cô giáo vì đi học về em tập tành dạy học. Gia đình em có nhiều ruộng đất nên ba em thuê thợ làm rất đông. Ða số họ đều đọc viết chưa rành, mỗi tối em bỏ chút thì giờ dạy họ học. Thấy mỗi khi hiểu biết được một điều mới lạ, mắt họ sáng lên em rất sung sướng.

Trong số người học đó có anh Ðịnh, thợ lái máy cày thuê cho ba em. Anh học rất chăm chỉ và thường nhờ em chỉ vẽ thêm. Bù lại, anh Ðịnh đã dạy em học lái máy cày. Trong một buổi tập, em ngồi ở buồng lái, còn anh Ðịnh đứng ở dưới hướng dẫn xe quẹo phải quẹo trái. Ðể xe tránh ủi vào bờ ruộng của người khác, em đã quẹo xe quá gắt, không làm chủ được tay lái, chiếc xe đã chồm lên tông vào anh Ðịnh.

Gia đình em đã hết lòng lo thầy thuốc cho anh Ðịnh, nhưng bàn chân phải của anh vẫn bị cưa. Ba em đã bồi thường một số tiền lớn để anh có vốn sinh sống. Riêng em vẫn áy náy. Em muốn được săn sóc anh để chuộc lại lỗi lầm. Vì vậy em đã theo anh Ðịnh về quê của anh, mặc cho gia đình em ngăn cấm.

Tụi em làm ruộng được một năm thì đến ngày giải phóng. Em xin vào hợp tác xã làm công việc lái xe máy cày. Lúc đầu anh Ðịnh không cho, viện lý do em sẽ lại tông vào người khác. Em nói đâu phải mỗi lần tông một người là người đó sẽ thành chồng em. Anh Ðịnh cười nhưng chắc bụng không vui.

Khi xí nghiệp xây dựng thủy điện tuyển người, em xin vào lái xe ủi đất. Anh Ðịnh không cho, nhưng em cứ nhất quyết đi làm và tụi em đã cãi nhau. Em hiểu vì cái chân, anh Ðịnh chỉ muốn quanh quẩn ở nhà, nhưng em lại muốn đi xa. Em rất buồn khi biết anh Ðịnh làm đơn ly dị. Cũng may, tụi em chưa có con nên mọi chuyện cũng dễ dàng thôi.

Mai ngừng nói, lượm một hòn đá quăng xuống nước. Tôi châm một điếu thuốc rồi hỏi :

- Vì chiếc xe máy cày em lấy chồng, rồi vì chiếc xe máy ủi em xa chồng. Em có hấp tấp quá không ?

- Lần đầu thì có. Em đã sai lầm khi nghĩ tình yêu là một sự trả ơn hay chuộc lại lỗi lầm.

- Còn bây giờ, em phải nghĩ đến đôi chân của Ðịnh chứ.

- Anh ấy cũng phải nghĩ đến đôi chân của em.

Tôi biết, cãi tay đôi với cô học trò này, tôi luôn luôn thua. Tôi còn nhớ có lần giảng một bài thơ trong lớp, tôi nói hoa hồng thường được ví với người đẹp. Mai đã đứng dậy hỏi :

- Thầy có thích hoa hồng không ?

- Thích chứ, vì ngoài vẻ đẹp, hoa hồng còn có gai.

- Thầy không sợ bị gai chích à ?

Cả lớp cười ồ lên. Tôi cố giữ bình tĩnh trả lời :

- Những cái gai làm bông hồng đẹp hơn. Như người đàn bà đẹp có thêm óc thông minh.

- Thầy ví von thật lạ. Óc thông minh mà là những cái gai ?

- Phải. Vì nó tự bảo vệ được mình và đôi khi làm người khác đau nhói.

Mai đứng im một lúc, rồi nói :

- Thật may. Tên em là loài hoa không gai.

Bây giờ nghe Mai kể chuyện, tôi nghĩ em là một bông hồng có rất nhiều gai.

- Thầy có điều gì khuyên bảo người học trò cũ không ?

Tôi ngồi im lặng. Người học trò biết ơn thầy là người phải vượt qua ông thầy của mình. Theo câu danh ngôn đó, Mai đã vượt qua tôi. Không phải vì em to đầu hơn tôi mà là em có trái tim lớn hơn tôi. Vậy làm sao tôi có thể khuyên bảo em ?

Nếu bạn biết điều gì khuyên bảo, xin bạn hãy viết thư cho Mai. Tôi tin cô ấy sẽ rất nhớ ơn. ám Đông
686

Ăn mày trúng số



Một con sông rộng, cầu sắt bắt ngang. Người qua kẻ lại trong cái buổi sớm mai nầy kể có hằng chục, hằng trăm mà không ai để ý lão ăn mày kia đang dựa mình vào lan can vừa cúi đầu suy nghĩ. Không một ai để ý đến lão, mà chẳng dè lão là người đóng vai tuồng trong chuyện này. Không một ai tưởng rằng lão mừng lão vui mà chẳng ai dè lão đương mừng vui hơn cả mấy trăm người đã qua lại trước mặt lão từ sớm mai cho đến bây giờ.

Hôm nay gương mặt lão không thèm làm bộ đau đớn, thảm khổ; cái miệng của lão không thèm nói tiếng than vãn rên xiết. Ai đi ngang qua trước mặt lão thì mặc họ, lão cũng chẳng buồn đưa tay ra xin từng đồng xu lớn nhỏ như mọi bữa nữa.

Một người ăn mày, quần áo lang thang thúi hôi rách rưới mà hôm qua xin từng đồng xu, lượm từng đồng điếu mà hôm nay đã thấy tánh ý đổi xa. Ai đi ngang qua trước mặt, lão cũng cho rằng người ấy là không bằng lão, lão tưởng như vậy là có lý lắm chớ chẳng phải không vì hôm nay lão chẳng còn phải như mọi bữa nữa, lão không còn ăn xin ăn mày nữa.

Lão có mua một tấm giấy số mà tấm giấy số ấy lại trúng độc đắc mười ngàn đồng! Mười ngàn đồng bạc! Một triệu xu!

Theo ý tưởng của lão và những người như lão thì mười ngàn đồng bạc là một số tiền to tát, một số tiền nhiều không biết là bao nhiêu mà kể. Lão đứng dựa lan can cầu tự hồi hừng đông cho tới bây giờ. Bụng lão suy, trí lão nghĩ, suy nghĩ nghĩ suy mãi mà không biết phãi chi dùng số bạc 10.000 đ mà lão sẽ đặng lãnh vào việc gì?

Lão đứng ngó mông lại đằng xa kia thì thấy một toà nhà ngói, vách tường rất là đẹp mắt. Gương mặt của lão bổng lộ vẻ vui mừng. Lão nhìn ngay lại toà nhà ấy mãi. Lão đã thấy chỗ dùng số bạc 10.000 đ của lão rồi. Trước hết lão phải lo cho lão một chỗ ở. Lão muốn một cái nhà rộng, thật khéo, thật đẹp, chung quanh có vườn tược, có đủ thứ cây ăn trái và đủ thứ bông hoa kiểng vật. Bấy giờ đứng dựa lan can mà lão đã tưởng rằng đương đứng trong ngôi nhà tốt đẹp ấy rồi. Một chiếc xe mui kiến sơn láng bóng chạy ngang qua cầu, trước mặt lão làm cho lão chống hai con mắt ngó theo không nháy, mà bụng bảo dạ rằng: - Rồi đây mình cũng sẻ phải có một xe hơi cũng đẹp cũng tốt như cái xe đó, mới cho là sướng. Mình ở trong một cái nhà lớn tốt mà nếu như không có sắm xe hơi không khác gì là một người con gái lịch sự mà què chơn. Phải! Lão ăn mày ta trúng số độc đắc 10.000 đ thì thật là có trúng nhưng vậy tiền chưa lãnh đồng nào, nhà cữa chưa cất, xe hơi cũng chưa sắm, thế mà lão ta nghiễm nhiên làm bộ tịch như một bực giàu sang, phong lưu, quyền quí đâu tự mấy đời rồi. Dầu cho có lầu cao cửa rộng, xe hơi, ca nốt, thì cũng chưa đầy đủ cái lòng ham muốn của lão đâu. Lão cũng như ai, phải cây cỏ chi chi mà chẳng có tình. Ngoài những chuyện món ăn, nhà ở, xe đi, lão còn tính cần phãi có một cô vợ vừa non vừa đẹp đẻ cùng nhau trong lúc canh vắn chia cái buồn vui. Lão tính tới tính lui, tưởng xa tưởng gần rồi gục mặt xuống sông, nhấm xem hình bóng của mình dưới dòng nước chảy. Bộ tướng xấu xa, thân hình dơ dáy làm cho lão có một điểm buồn cho lão rồi. Nầy là cây gậy, nầy là cái bị, hôm nay lão cần giữ lấy nó mà làm gì đây nữa. Lão đã có 10.000 đ bạc là tấm giấy số trong mình thì lão đã thành một ông nhà giàu rồi, lão phải mau mau cỗi cái lớp ăn mày đi.

Lão cầm cây gậy quăng ngay xuống sông, nó trôi lờ đờ trên mặt nước. Lão cầm cái bị mà quăng theo luôn cho nước chảy. Cây gậy trôi trước, cái bị trôi sau, lão đưa mắt nhìn theo mà lòng khoan khoái. Lão đưa tay lên xuống làm như muốn xô đuổi hai cái món vật ấy trôi đi cho mau, cho xa lão. Thình lình gương mặt lão vùng biến sắc, lão nhớ lại rằng tấm giấy số của lão đương nằm trong bị mà cái bị ấy đang lờ đờ đằng xa kia.

Nóng quá mà quên rằng mình không biết lội nên lão vùng nhãy xuống sông ý muốn vớt cái bị lại, nhưng vậy không được, cái bị cứ trôi lần lần xa ra còn lão thì chìm lần lần xuống đáy.

Than ôi! Nhà lầu, xe hơi, gái đẹp, những những đều thấy trôi theo dòng nước, còn lão ăn mày ta thì nằm dưới đáy sông làm cho giấy số mười ngàn không ai lãnh được.
132

Feb 18, 2007

Ngất xỉu là im lặng



Ngất xỉu là im lặng


Trong phòng thử quần áo, một phụ nữ mặc chiếc áo măng tô sang trọng lên người. Cô ta hơi vén tấm rèm phòng thử ra hỏi người bán hàng:

- Cô có nói giá tiền cho chồng tôi biết không?

- Có ạ, thưa bà.

- Phản ứng của ông ấy ra sao?

- Ông ấy ngất đi.

- Cô biết câu tục ngữ "Im lặng là đồng ý" rồi chứ. Tôi lấy chiếc áo này.



o O o


Chẳng có kết quả

Tên ăn trộm lần thứ 6 ra tòa.

- Anh có điều gì nói để biện hộ cho mình không?

Quan tòa hỏi:

- Có, thưa ngài chánh án. Tôi muốn đề nghị các ông đừng đưa tôi vào tù nữa. Đã 5 lần người ta cho tôi đi tù mà chẳng đem lại kết quả gì cả.



o O o


Tặng quà

Một chàng trai Scotland hỏi người yêu:

- Sinh nhật này em muốn tặng cái gì?

- Em không biết, em chưa nghĩ đến điều đó.

- Được, anh gia hạn một năm để em suy nghĩ cho kỹ.
37

Feb 17, 2007

Hãy giải thích



Giám đốc ngân hàng thố lộ nỗi lo lắng của mình với viên trợ lý:

- Trưởng phòng kế toán làm tôi lo lắng. Đã hai tuần nay hắn ta nghiên cứu mọi chuyến bay của tất cả các hãng hàng không quốc tế.

- Có lẽ ông ấy chuẩn bị đi nghỉ chăng?

- Nhưng anh hãy giải thích cho tôi tại sao hắn ta lén lút ôm vợ tôi và thì thầm vào tai cô ấy: "Gắng chút nữa, cố bình tĩnh chờ đợi".1929

Chuyện con nít



Tèo đứng ở ngưỡng cửa nói với chàng trai đến tán tỉnh chị gái.


- Em nhìn thấy anh ôm hôn chị em.


- Nói bé thôi, cho em 10.000 đồng.


- Cảm ơn anh, trả lại anh 5.000 đồng.


- Thằng này ngoan thật.


- Không, em chỉ muốn công bằng, các anh khác cũng chỉ trả em có 5.000 đồng.

1237

Những biểu tượng tình yêu



Những biểu tượng tình yêu

Quả táo


Là trái cấm mà khi ở trong vườn Địa Đàng, Adam và Eva (trong tình trạng hoàn toàn khỏa thân) đã bị "khuyến cáo" không được ăn. Thế nhưng sau khi nếm quả táo kia, tình cảm trai gái giữa họ bắt đầu trỗi dậy. Kết quả là họ bị đuổi ra khỏi vườn Địa Đàng.


Quả trứng


Người Ai Cập cổ và người Hồi giáo cho rằng trứng là sự sinh sản dồi dào, biểu hiện cho sự tái sinh của mọi loài vật. Vì thế nó tượng trưng cho đôi vợ chồng mắn con hơn là cho tình yêu đôi lứa.


Hoa hồng


Theo những triết gia xưa, đây là hình ảnh của tình yêu mẹ con giữa thần Vệ Nữ và con trai, thần Cupid (thần tình ái nam). Hoa hồng cũng tượng trưng cho hòa bình và sự tha thứ. Ngày nay hoa hồng là biểu hiện cho tình yêu đôi lứa.


Đôi môi


Là dấu hiệu của tình yêu thể xác (theo các nhà nghiên cứu). ở người đàn bà, đôi môi được xem là gợi tình khi đỏ mọng, dầy và hơi hé mở. Trong khi ở đàn ông, môi phải hơi mỏng và mim mím.


Nhẫn cưới


Sự kết hợp giữa cô dâu và chú rể bằng chiếc nhẫn là một phong tục cổ xưa, có xuất xứ từ thành Rome cổ đại. Chiếc nhẫn như lời hứa với tất cả mọi người về cuộc sống đôi lứa vĩnh cửu. Thời kỳ đầu, nhẫn chỉ được làm bằng loại thép đơn giản, sau này người ta mới dùng vàng. Đến thế kỷ 15, kim cuơng bắt đầu xuất hiện và phổ biến đến nay. Nguời công giáo rất trân trọng nghi thức trao nhẫn, và nó đã trở thành một khoảnh khắc thiêng liêng trong ngày hôn lễ.


Hoa Súng


Được xem là dấu hiệu của sự mong muốn và sức mạnh về tình dục. Dân địa phương ở miền Bắc nước Mỹ ăn loại hoa này để cảm thấy sảng khoái, quên đi những ưu phiền, bực bội trong lòng.


Mặt trăng


Sự bình an sẽ có mỗi khi ta nghĩ đến hoặc ngắm trăng. Người châu á thường cầu nguyện đến mặt trăng cho những ước muốn về cuộc sống hạnh phúc. Trai gái hay lấy vật này để làm chứng cho tình yêu chân thành.


Con Rồng


Theo người Trung Hoa, rồng là hình ảnh của sự phồn vinh, thịnh vượng. Còn trong tình yêu, nó lại là biểu hiện của sự đam mê mạnh mẽ không gì lay chuyển nổi. (thế giới Phụ nữ)


Trái tim

Cảm xúc là những xúc cảm mà chúng ta cảm nhận được như tình yêu, hạnh phúc, tức giận hay sợ hãi (hỉ , nộ, ái, ố). Từ cách đây rất lâu, người ta đã tin rằng tất cả những cảm xúc này đều bắt nguồn từ trái tim. Những năm sau đó, người ta chỉ nghĩ đến sự liên hệ giữa cảm xúc tình yêu và trái tim. Trái tim vẫn được coi là biểu tượng của tình yêu và bởi vậy nó cũng là biểu tượng của ngày Tình Yêu.

Ðăng ten

Ðăng ten là một loại vải rất đẹp được tạo ra bằng cách đan những sợi chỉ mảnh với nhau. Cách đây hàng trăm năm, phụ nữ mang những chiếc khăn choàng bằng đăng ten. Nếu một người phụ nữ đánh rơi chiếc khăn choàng của mình, người đàn ông đứng gần đó sẽ nhặt nó lên và đưa lại nó cho cô. Ðôi khi người phụ nữ gặp được người đàn ông của cô. Cô có thể giả vờ đánh rơi chiếc khăn choàng để làm một cuộc hẹn hò lãng mạn. Thế rồi chẳng mấy chốc người ta nghĩ đến sự lãng mạn khi họ nghĩ đến đăng ten. Họ bắt đầu sử dụng những loại đăng ten bằng giấy để trang trí cho các hộp Sôcôla và bưu thiếp Valentine.

Tất tay

Cách đây nhiều năm, khi một người đàn ông ngỏ lời cầu hôn với một người phụ nữ anh ta thường yêu cầu được hôn tay người phụ nữ đó. Bàn tay trở thành một biểu tượng của tình yêu và hôn nhân. Những chiếc tất tay cũng nhanh chóng trở thành biểu tượng của tình yêu.

Nơ tình yêu

Một dải nơ tình yêu gồm một loạt các nút thắt và đường cong bằng vải không có đầu mà cũng không có cuối. Ðó là biểu tượng của tình yêu vĩnh cửu. Người ta tạo ra những dải nơ từ những dải ruy băng hay vẽ chúng lên trên giấy. Thông thường, người ta viết lên dải nơ tình yêu một bức thông điệp. Bức thông điệp không có bắt đầu mà cũng không có kết thúc. Nó có thể được lặp đi lặp lại mãi.

Chim uyên ương và bồ câu

Chim uyên ương thường là những chú vẹt sặc sỡ thường thấy ở châu Phi. Phần lớn đều có mỏ đỏ. Chúng được gọi là chim uyên ương bởi lẽ chúng thường đứng sánh đôi bên cạnh nhau. Người ta cho rằng bồ câu là loài chim yêu thích của thần Vệ Nữ. Chúng thường chung sống với người bạn đời của mình suốt cả cuộc đời. Cả chim trống và chim mái đều chăm sóc cho những đứa con của mình. Bởi vì chim bồ câu biểu tượng của sự thủy chung và tình yêu nên người ta cũng xem chúng như là biểu tượng của ngày Tình Yêu.

Thần ái tình - Biểu tượng truyền thống của ngày Tình yêu

Con trai của thần Vệ Nữ, nữ thần của tình yêu và sắc đẹp. Thần ái tình có thể khiến cho người ta yêu nhau bằng cách bắn thủng trái tim họ với một trong những mũi tên kì diệu của mình.


Thần ái tình luôn đóng một vai trò không thể thiếu được trong các ngày l540