Trang
Sep 28, 2007
Chiếc Phong Cầm Trong Nhà Thờ Cổ
Nơi tôi ở trọ gần một nhà thờ. Mỗi buổi chiều, sau khi ăn cơm xong, tôi thường ngồi ở ghế xích đu trước hiên nhà, nhìn thiên hạ đi lễ và chờ đợi tiếng chuông vang lên báo hiệu buổi lễ tối bắt đầu. Không hiểu sao tiếng chuông kia quyến rũ tôi rất nhiều. Như con chó của Pavlov đã có phản ứng ứa nước miếng mỗi khi nghe tiếng chuông rung dù không có miếng thịt trước mặt, tâm hồn tôi cũng có phản ứng khát khao mãnh liệt một đức tin mỗi khi nghe chuông nhà thờ đổ, dù tôi không phải là một tín đồ Thiên Chúa giáo.
Buổi chiều nay trời quá nóng. Bữa ăn chiều xong đã lâu. Ngồi đợi mãi vẫn chẳng thấy các con chiên đi lễ và cũng chẳng nghe tiếng chuông đổ, tôi uể oải đi ra biển hóng gió. Con đường dẫn ra biển phải đi vòng phía sau nhà thờ và ngang qua những dãy nhà lá chất đầy những chiếc rổ nhỏ được người lớn, trẻ em đua nhau đan, để bán cho các nhà thầu buôn cá hấp đem lên các tỉnh ở miền cao nguyên. Vượt qua một cồn cát đầy những cây xương rồng hoa nở đỏ ối, tôi đối diện ngay với mặt biển xanh thẩm. Lẫn trong ngọn gió mát từ ngoài khơi thổi vào, thỉnh thoảng có mùi tanh nồng của những con cá óc nóc nằm chết trên bờ gần mé nước. Tôi tiếp tục đi bộ thẳng xuống nơi có miếu thờ cá ông, nơi đó không khí trong lành hơn, vì xa khu dân chài đông đúc.
Trên bãi cát phẳng mịn có nhiều chiếc ghe được kéo lên nằm chờ con nước. Tôi đến ngồi trên một lưng ghe đen bóng, che gió châm thuốc hút, rồi nhìn chăm chăm mặt biển êm. Tôi thầm mong mình sẽ gặp con K. như nhà văn Ý Dino Buzzati đã mô tả. Theo truyền thuyết, con K. là một loài quái vật sống ở biển, nó luôn luôn sát hại kẻ nào đã lỡ nhìn thấy đó, dù cho kẻ đó có tìm mọi cách để chạy trốn. Tôi tưởng tượng con K. có đôi mắt thật lớn (tôi luôn luôn thích những đôi mắt lớn) và rồi chúng tôi sẽ im lặng nhìn nhau trong suốt đêm nay. Phải có một cái gì theo đuổi mình suốt đời dù là kẻ thù (như con K.) tôi thấy đời sống cũng đỡ tẻ nhạt.
- Chị xem ông kia tức cười không ?
- Um, để người ta ngồi suy nghĩ.
Chắc tôi không quay lại nếu tôi không nghe tiếng "Um" lạ tai đó. Có hai chị em gái đang đi vòng phía sau chiếc ghe tôi đang ngồi. Tôi cười hỏi cô em nhỏ :
- Trông tôi tức cười lắm sao ?
Cô nhỏ giơ tay chỉ.
- Tóc ông bay trông giống như con gái.
Cô chị cú lên đầu em nhỏ rồi nhìn tôi.
- Nó liếng lắm, xin ông đừng chấp.
Lúc này tôi mới nhận ra cô chị chính là người thường mặc áo dài trắng đi lễ ngang qua chỗ tôi ăn cơm. Em là một con chiên ngoan đạo và tôi thường nói với bạn bè : trông khuôn mặt dịu hiền của em, chắc lớn lên em phải đi tu, vì đời sống trần tục này không có chỗ nào dung chứa khuôn mặt đó mà không làm nó hư hỏng đi. Tôi hỏi cô chị :
- Chiều nay em không đi nhà thờ ?
- Dạ em đã đi lễ buổi sáng. Ông thường đi chầu buổi chiều ?
- Không. Tôi thường thấy em đi ngang qua nơi tôi ở trọ.
- Vậy ông là người ở xa đến đây ?
- Phải.
- Nơi đây buồn quá trời, ông đến đây làm gì ?
- Tôi đến để "bắt ốc hái rau" sống qua ngày.
- "Bắt ốc hái rau", nghề gì kỳ vậy ?
- Tôi cũng không hiểu nữa. Một ông bạn người Huế nói việc làm của tôi như vậy và tôi cũng chỉ biết vậy. Có lẽ ông ấy muốn ám chỉ việc làm của tôi rất nhàn và chẳng kiếm được bao nhiêu tiền.
Cô bé cười :
- Làm công việc nhàn thật khỏe. Em cũng mong được đi "bắt ốc hái rau" như ông.
Tôi lắc đầu cười.
- Chẳng khỏe gì đâu. Ðói lắm !
Những nụ cười đã giúp chúng tôi nói chuyện với nhau cởi mở hơn. Cô bé hỏi tôi đã thấy thích quận lỵ nhỏ bé này chưa. Tôi nói : "Người ở đây nhiều tình nghĩa lắm !" Em nói :"Ông định "mọc rễ" luôn ở đây không ?". Tôi cười đáp : "Nếu nhà em còn đất, tôi sẵn sàng "mọc rễ" ở đó". Cô bé vội cúi đầu, tóc xõa che lấp khuôn mặt. Một lúc sau ngẩng mặt lên, em hỏi lảng sang chuyện khác.
- Khi nãy gặp ông, em thấy ông nhìn chăm chăm như muốn tìm kiếm cái gì ở biển vậy ?
Tôi không biết nói với em tôi đã tìm kiếm cái gì. Tôi chẳng thể nói ra ý định muốn gặp con K. kỳ quặc. Nhưng sợ hết chuyện nói, cô bé sẽ đòi đi về, nên tôi đã bịa ra tôi đã đánh rơi một vật quí giá xuống biển và tôi tin biển sẽ đem trả lại tôi. Nghe xong câu chuyện, cô bé ngạc nhiên hỏi :
- Ông đánh rơi cái gì vậy ?
Tôi đáp gọn lỏn.
- Ðức tin.
Cô bé trố mắt nhìn tôi.
- Người ta có thể tìm thấy "đức tin" ở biển ?
- Chứ em nói tôi phải tìm ở đâu bây giờ ?
- Theo em, ông chỉ có thể tìm thấy ở nhà thờ.
- Chắc không ?
- Chắc chắn. Ông cứ đến nhà thờ rồi ông sẽ tìm thấy đức tin.
- Vậy ngay chiều mai tôi sẽ đến nhà thờ dù cho tôi là một người ngoại đạo.
- Chúa ơi ! Ông là người ngoại đạo ?
- Vậy chắc tôi không thể tìm thấy đức tin ở nhà thờ phải không ?
Cô bé nhíu mày suy nghĩ một lát, rồi đáp :
- Chúa đã dạy "Hãy tìm sẽ thấy". Ông cứ đến nhà thờ đi. Bây giờ trời tối rồi, em xin phép ông dẫn em nhỏ về kẻo ba má trông.
Hai chị em cô bé chậm rãi đi về phía có dốc cát cao để vào phố. Dốc cát đầy những bụi xương rồng rậm rạp che khuất cô em và tôi chỉ nhìn thấy đôi vai của cô chị nhô lên in rõ trên bầu trời tím hồng. Trước khi em xuống dốc, tôi thấy em quay lại nhìn về phía tôi. Ðôi mắt em đen, mở lớn và mặc dù cách một khoảng xa, tôi vẫn tin mình đã tìm thấy đôi mắt kia khẽ chớp. Ngay buổi chiều hôm sau tôi đi đến nhà thờ. Ðây là một nhà thờ cổ có màu vôi trắng, nhưng từ lâu lớp vôi chưa được quét lại nên biến thành màu xám nhạt. Trên gác chuông cao nhô lên từ phía sân sau, tôi thấy còn có treo một chiếc trống lớn, tôi rất ưa thích nhà thờ này bởi vẻ đơn giản và cổ kính của nó. Tôi không ưa được những nhà thờ tân tạo với kiến trúc đồ sộ và trang hoàng rắc rối. Tôi có cảm tưởng người ta khó mà tìm thấy đức tin ở một nơi đồ sộ và rắc rối như thế.
Bên trong nhà thờ không rộng lắm, chỉ vừa đủ kê hai dãy ghế dành riêng cho nam và nữ tín đồ. Trên tường có treo những bức tranh tả lại cuộc đời của Chúa, lồng trong những khung kính cũ mờ. Cha cả đang giảng kinh ở bục cao. Cha nói về sự hy sinh của Chúa để cứu vớt nhân loại và cha mong các tín đồ hay cố gắng noi theo gương sáng của ngài, để giúp con người bớt đau thương. Khi cha giảng xong, mọi người quỳ gối xuống và bắt đầu đọc kinh. Tôi không thuộc kinh, không biết làm dấu thánh, nên lẳng lặng ngồi im nhìn tượng Chúa đóng đinh trên thập giá bằng gỗ nâu bóng.
Ðiện trong nhà thờ không quá sáng. Bóng tối còn ẩn nấp ở gầm ghé và lảng vảng ở khung cửa sổ mở ra một khu vườn rộng. Chúa đã phán "Ta là ánh sáng". Nhưng cũng may, các tín đồ của Ngài không để nơi thờ phụng sáng rực, như một ngọn đèn néon cực mạnh. Người ta đã biết giữ lại bóng tối để giúp con người dễ tạo đức tin và dễ cảm thấy khát khao ánh sáng.
Bài kinh chấm dứt, các tín đồ ngồi lại ngay ngắn trên ghế. Tiếng phong cầm đột nhiên vang lên cùng lúc với tiếng đồng ca của các em gái mặc áo dài trắng. Tiếng đàn nghe thánh thót như những giọt mưa đầu mùa và đôi lúc trầm ấm như ngọn gió mùa Xuân. Chiếc phong cầm thực sự đã mê hoặc tôi và tôi quay lại nhìn nó bằng đôi mắt trìu mến.
Nó nằm đó, sát một góc nhà thờ, phía bên trái cửa ra vào, lẫn trong bóng tối, nhưng tôi vẫn nhìn thấy nó rõ ràng. Toàn thân nó tỏa ra một thứ ánh sáng kỳ lạ như hào quang ở đầu các thiên thần và có lẽ chỉ mình tôi nhìn thấy điều đó. "Hãy tìm sẽ thấy". Tôi tin rồi Chúa sẽ mặc khải cho tôi, đức tin sẽ đến với tôi từ chiếc phong cầm cũ kỹ kia chứ không phải từ lời giảng dạy của cha cả đã vang lên đều đều qua máy phóng thanh.
Tiếng phong cầm ngưng. Buổi lễ đã xong và mọi người lặng lẽ ra về. Ðiện trong nhà thờ tắt hết, chỉ còn hai bóng đèn nhỏ màu vàng đục cháy sáng ở đầu hai cây nến đặt trên bệ thờ. Tôi nghe có tiếng cửa đóng nhẹ, nhưng vẫn ngồi im trên ghế. Tự nhiên tôi linh cảm hãy kiên nhẫn đợi chờ thêm chút nữa, rồi tôi sẽ thấy điều tôi bằng khát khao tìm kiếm. Tôi nhìn chăm chăm vào tượng Chúa như bị thôi miên và miệng lẩm bẩm : "Lạy Chúa ! Ngài đã nói "Ta là ánh sáng" nhưng sao mắt Ngài lại đầy bóng tối ? Ôi ! Nếu Ngài còn nói thêm "Ta cũng là bóng tối", chắc con đã quì gối phủ phục dưới chân Ngài".
Cơn mệt mỏi ùa chiếm thân thể, tôi uể oải đứng dậy, tôi ngạc nhiên thấy vị sư huynh trẻ tuổi vẫn còn ngồi bên chiếc phong cầm. Tôi gật đầu chào anh. Anh chào lại và mỉm cười.
- Ông đã cảm thấy mệt mỏi ?
Tôi e thẹn đáp.
- Vâng, nhưng anh cũng biết tôi chẳng thể ngồi một mình ở đây lâu hơn nữa.
- Không sao, nếu thích, ông vẫn có thể ngồi lại. Người coi nhà thờ đã đi nghỉ, tôi sẽ đợi ông và đóng cửa sau.
- Như thế thật phiền. Chắc anh cũng có nhiều việc cần làm sau buổi lễ.
- Tôi làm việc rất khuya. Chúng ta có thể nói chuyện với nhau được chứ ?
Thấy sư huynh trẻ chuyện trò cởi mở, tôi vui vẻ nói cho anh biết tôi là một người ngoại đạo và đang đi tìm đức tin. Tôi cũng xin lỗi không biết gọi anh bằng gì, gọi "ông" như thế khó nghe quá. Anh nói : "Thôi chúng ta cứ gọi nhau bằng "anh" cho tiện". Rồi anh kể anh là người Bùi Chu đi tu từ nhỏ, di cư vào Nam sống ở Biên Hòa và ra đây ở đã được ba năm.
Con chiên ở đây rất ít nên anh đều quen mặt. Ngay khi tôi bước vào nhà thờ lúng túng tìm một chỗ ngồi, anh đã nhận ra tôi mới tới đây lần đầu và không phải là tín đồ Thiên Chúa giáo. Anh cũng đoán được tôi là người đang đi tìm đức tin. Ðức tin thật khó đến với một người ở tuổi tôi, nếu không có ai hướng dẫn.
Tôi nói, tôi muốn tự mình tìm kiếm đức tin dù có khó khăn. Tôi không thích nhờ vả bất cứ ai, ngay cả giáo lý. Tôi đã chán nghe lời giảng của các cha và cũng chán đọc những quyển sách kinh. Tôi tin một ngày nào đó Chúa sẽ nhắn nhủ tôi không phải qua một pháp lạ kỳ bí, mà có thể qua tiếng chuông nhà thờ đổ mỗi chiều hay qua tiếng đàn phong cầm mà anh đánh mỗi tối.
Vị sư huynh cười đáp :
- Anh đừng tin vào tiếng đàn của tôi. Tôi không phải là người đánh đàn giỏi.
Tôi cười nói :
- Ðánh đàn hay hoặc dở, điều đó đâu quan trọng. Ðiều quan trọng là tiếng đàn của anh đã vang lên đúng lúc. Chắc anh cũng đồng ý với tôi. Chúa không phải chỉ lựa chọn phát ngôn qua những người miệng lưỡi trôi chảy, có thể Ngài lựa chọn một người nói ngọng.
Vị sư huynh vỗ nhẹ lên chiếc phong cầm.
- Nghe anh nói, tôi nghĩ chắc anh mê chiếc đàn này lắm.
- Vâng. Bề ngoài trông có vẻ cũ kỹ nhưng thanh âm của nó nghe thật tươi mát và quyến rũ.
- Anh có thể đánh thử một bản nhạc anh thích.
Tôi lắc đầu.
- Tôi chưa đánh Harmonium lần nào.
- Không sao, anh đã nói : điều quan trọng không ở chỗ đánh đàn hay hoặc dở mà ta là đánh đúng lúc.
- Nhưng tôi không biết nhạc thánh ca.
- Anh có thể đánh một bản nhạc tình cảm.
Tôi ngạc nhiên hỏi :
- Tôi có thể đánh một bản nhạc tình cảm ở đây ?
Vị sư huynh mỉm cười :
- Tại sao không ? Biết đâu anh chẳng đánh đúng lúc.
Lạy Chúa, tôi thật xúc động. Ngồi xuống ghế, tôi mân mê nắp đàn đen bóng và không dám chạm tay xuống những phím đàn trắng ngà. Ðột nhiên như bị đồng nhập, tôi đã vội vàng đánh một đoạn nhạc nào đó tôi không biết tên, tôi cũng chẳng rõ mình đánh có đúng phím nhạc không. Tôi chỉ biết tôi tay tôi lướt đi thành thạo trên những phím ngà cho đến khi đột nhiên nó chấm dứt như lúc đó mới bắt đầu. Tiếng đàn còn âm vang trong nhà thờ run rẩy như hai bàn tay tôi một lúc lâu. Tôi gục đầu xuống mặt bàn và đã nhận ra điều tôi hằng tìm kiếm.
Tôi cảm thấy có bàn tay ai đặt lên vai mình, tôi ngẩng mặt lên bắt gặp khuôn mặt nghiêm trang của sư huynh trẻ. Giọng anh nói thì thầm :
- Tôi không tin anh đã đánh được đoạn nhạc đó.
Tôi đã khóc, nên mọi việc đều trở nên sáng sủa. Tôi đáp :
- Anh nói đúng. Tôi không đánh được đoạn nhạc đó. Chính chiếc đàn tự nó đã vang lên.
- Tôi nghĩ khác. Anh đã đánh đúng lúc và có người đã giúp anh.
- Không, chẳng ai giúp tôi. Chỉ có chiếc đàn đã giúp tôi đánh lên tiếng nhạc của lòng mình.
- Anh có tin đấy là một phép lạ ?
- Nếu tin vào phép lạ, anh sẽ cho là Chúa đã giúp tôi đánh đoạn nhạc kia, vậy tôi chỉ tin vào chiếc đàn.
Vị sư huynh gằn giọng :
- Anh thật cứng đầu. Suốt đời, anh sẽ chẳng bao giờ tìm thấy đức tin.
- Vâng, suốt đời tôi sẽ chẳng tìm thấy đức tin nếu tôi cứ tiếp tục tìm kiếm ở những nơi thờ phụng Chúa. Cám ơn anh đã cho tôi có dịp đánh đàn. Tôi hứa sẽ không bao giờ đến đây làm phiền anh nữa.
Tôi biết vị sư huynh đang giận nên không bắt tay chào anh. Tôi không thích làm những điệu bộ thân thiện khi lòng thân thiện chẳng còn. Tôi lặng lẽ bước ra khỏi nhà thờ. Bầu trời cao xanh biếc không một đám mây. Sao lấp lánh như những mảnh kính vỡ vụn và mặt trăng non màu vàng nhợt không chiếu xuống chút ánh sáng nào. Gió từ biển thổi vào từng đợt mát lạnh. Những chòm dương trong sân nhà thờ phát ra tiếng kêu vo vo như tiếng gió thổi những sợi tóc bay qua tai. Ở đây mười giờ đêm đã là khuya. Mọi nhà đều đóng cửa và ngay cả những quá chè bán đêm dọc lề đường cũng đã dọn dẹp hết. Ði ngang qua căn nhà nằm sát mặt đường, cách nhà thờ một khoảng ngắn, tôi nhìn thấy bóng một người đang ngồi trên bậc tam cấp. Khi tôi đến gần, người đó đứng dậy.
- Ông vừa đánh một đoạn nhạc trong nhà thờ phải không ?
Vì người đó đứng trong bóng tối, nên khi nghe nói xong, tôi mới nhận ra em là cô bé, tôi đã gặp ngoài bãi biển. Tôi nói :
- Nhà em ở đây à ?
- Không, đây là nhà bà dì của em.
- Sao em biết tôi đã đánh một đoạn nhạc trong nhà thờ ?
- Em ở trong ban hợp ca của nhà thờ nên rất dễ nhận ra tiếng đàn của vị sư huynh, vả lại, đoạn nhạc vừa rồi không phải là thánh ca. Ông đã tìm thấy điều ông muốn tìm không ?
Tôi lắc đầu, nói :
- Tôi đã sai lầm khi đi tìm điều ấy ở nhà thờ.
- Sai lầm ? Vị sư huynh cũng không giúp gì cho ông ?
- Chẳng ai giúp được tôi, trừ chiếc phong cầm.
- Chiếc phong cầm ? Ông không nói đùa chứ ?
Tôi kể lại trường hợp đánh đàn vừa qua. Tôi cố diễn tả thật giản dị để cho cô bé hiểu. Em gật đầu tỏ vẻ đã hiểu và còn hiểu hơn tôi nữa là khác. Em nói :
- Em tin Chúa đã giúp ông đánh đoạn nhạc đó. Chúa đã đến với ông, sao ông còn không tin Ngài ?
Tôi thật sự chán nản. Cô bé này đã suy nghĩ y như vị sư huynh kia và tôi không biết phân giải làm sao cho em thay đổi ý kiến. Sau cùng tôi đành nói :
- Ðấy không là phép lạ của Chúa. Ðấy là phép lạ của chiếc phong cầm. Nó đã đáp lại lòng mến mộ của tôi. Nó đã phản ảnh lòng tôi như tấm gương phản ảnh gương mặt người soi. Chỉ giản dị như vậy.
- Câu chuyện không giản dị như vậy, nếu ông không tin vào Chúa.
- Trong trường hợp này, tôi nghĩ tin vào Chúa chỉ rắc rối thêm.
- Em xin ông đừng xúc phạm đến Ngài.
- Không, tôi chỉ nói thật điều tôi nghĩ. Tôi xin lỗi, nếu có xúc phạm đến đức tin của em.
- Với em, ông không cần phải xin lỗi. Ông hãy xin lỗi Chúa, vì đã lầm lỡ không tin Ngài.
- Tôi chẳng thể xin lỗi Ngài,vì nếu tôi làm như thế, chiếc phong cầm sẽ đau lòng ghê lắm !
- Dù cho em tha thiết cầu mong, ông cũng không xin lỗi Ngài ?
- Không.
- Ông đã làm em đau lòng.
- Ðành vậy. Em đừng bắt tôi gian dối, em cũng biết Chúa rất ghét những người gian dối.
- Thật đáng buồn, chúng ta đã làm mất cơ hội để gặp lại nhau.
Cô bé quay người, bước vội vào bóng tối của căn nhà. Tôi thở dài buồn bã, đứng lặng im chẳng muốn bước đi. Rồi đột nhiên, tôi nghe có tiếng phong cầm trầm ấm từ nơi nào đó đang nhẹ nhàng vang vọng lại.249
Sep 27, 2007
Sân Ngoài Còn Lá
Có một chú tiểu đâu chừng mười ba tuổi thôi, mà đã bỏ chùa của thầy tổ lên tĩnh tu trên một ngọn núi cao, cao đến nỗi không ai nhọc công lên đến chỗ chú ở.
Chú tu trên núi đã được bốn năm. Nay chú đã trở thành một chàng thanh niên tu sĩ cao lớn, mạnh khỏe. Lâu lâu chú xuống núi một lần để về nhà thăm mẹ và đứa em trai trong làng. Mỗi lần chú xuống núi, trong làng ai thấy chú cũng xì xầm những lời khen ngợi hoặc xuýt xoa như tiếc rằng chú đi tu là làm uổng phí mất một thanh niên đẹp trai của làng xã.
Chỗ chú ở là một hang đá lẩn khuất đâu đó gần đỉnh núi. Cây cối to lớn, cỏ gai rậm rịt, bít hết mọi chỗ trống, chẳng thấy đâu là con đường đi lên. Những hiểm trở, gai góc, vách đá cheo leo của ngọn núi như là một thái độ rõ rệt của chú đối với tục lụy. Chưa hết, từ ngọn núi mà chú ẩn dật đi đến một làng gần nhất cũng phải đi băng qua một cánh rừng hoang mà nơi đó chỉ có đời sống của muông thú chứ không có bóng dáng của loài người. Qua khỏi cánh rừng hoang đó, phải đi bộ khoảng nửa ngày đường nữa mới đến được những bụi tre làm ranh giới của một ngôi làng, mà trong làng này, có căn nhà nhỏ của bà mẹ già của chú.
Thường thường, chú xuống núi thăm mẹ vào dịp tết trung nguyên rằm tháng bảy, nhằm vào ngày lễ Vu Lan. Chú đi xuất gia không phụng dưỡng mẹ già được nên mỗi năm cứ vào dịp lễ Vu Lan—mà người ta quen gọi là Mùa Báo Hiếu—thì xuống núi để thăm mẹ đồng thời giảng thuyết đạo lý của Phật cho mẹ nghe.
Năm nay, còn nửa tháng nữa mới đến rằm tháng bảy nhưng chú linh tính có chuyện bất tường, bèn khăn gói lên đường xuống núi sớm hơn mọi năm. Chú phải mất một ngày để xuống khỏi núi và hai ngày để ra khỏi rừng, sau đó là nửa ngày để đến làng của mẹ già. Vừa đến đầu làng, đã có mấy người láng giềng hối hả chạy đến chỗ chú, vừa vái chào vừa thưa với giọng ái ngại:
"Thưa chú... thưa chú... có chuyện chẳng lành..."
Chú hỏi mau:
"Chuyện gì vậy?"
"Dạ... cậu Tú em chú bị... rắn độc cắn chết. Mẹ chú đau khổ quá, bỏ ăn bỏ uống, chẳng ai dỗ dành gì được. May có chú về..."
"Em tôi mất bao lâu rồi?"
"Thưa cũng ba tuần rồi. Mẹ chú ngồi thẫn thờ suốt ngày này qua ngày kia..."
Chú lặng người đi một lúc, không nói gì. Rồi vội vàng về nhà tìm mẹ.
Bà mẹ đang ngồi lặng câm bên thềm cửa, nhìn xa xăm. Thấy chú, đứa con trai yêu dấu của mình trở về, mắt bà sáng hẳn lên, nở một nụ cười, đứng dậy. Chú bước vội đến bên mẹ. Hai mẹ con ôm nhau. Bà mẹ khóc òa lên, chẳng nói được lời nào. Chú thì ôm mẹ một cách ngượng ngập tuy nhiên nỗi thương cảm của chú lại dâng trào mãnh liệt. Chú thấy thương, thấy tội nghiệp cho mẹ quá. Chú không ngờ chú đã bỏ mẹ đi tu bảy năm rồi, mà giờ đây, trước tình huống này, bao nhiêu tình cảm thế tục lại quay về dào dạt như thể chú vẫn cứ là một đứa con lâu nay khắng khít chưa rời mẹ nửa bước. Một sơn tăng ẩn cư trên núi cao, quyết chí đạt đạo thì không có những xung động tình cảm ủy mị như vậy. Lâu nay chú tưởng rằng lòng mình đã nguội lạnh với tình trần, ngay cả tình huynh đệ, phụ tử, hay mẫu tử. Nay, trước cái chết thảm thương của đứa em trai và nỗi sầu thảm đơn chiếc của người mẹ già, chú nhận thức thật rõ rằng bảy năm xuất gia học đạo của mình vẫn chưa đạt được kết quả gì đáng kể. Kẻ ôm chí xuất trần trước tiên phải ý thức tính cách vô thường, mong manh, giả tạo của thế gian. Nhờ ý thức đó mà vượt thoát cái đau khổ thường tình của biệt ly chia cách. Nhờ ý thức đó mà vươn lên khỏi cuộc đời. Nhưng hôm nay, đứng bên người mẹ già đau khổ, chú thấy mình chìm lỉm trong nỗi thống khổ vô vàn của thế nhân. Chú đứng im, ôm mẹ, không nói gì. Bà mẹ thì chỉ khóc nức nở. Lâu lâu bà lại gào lên, gọi tên đứa con trai đã chết. Giọng bà nghe thật bi thảm khiến chú không khỏi bùi ngùi, quặn đau trong lòng.
"Nín đi mẹ, con đưa mẹ vào trong nhé!"
Rồi chú dìu bà mẹ vào nhà. Ngồi trên chiếc chõng tre, bà mẹ vẫn cứ sụt sùi khóc. Chú ngồi kế bên bà, chẳng biết nói gì. Lâu nay, cứ mỗi lần về thăm mẹ, chú có thể giảng cho bà nghe đạo lý vô thường, nhân quả, v.v... nhưng bây giờ chú chẳng biết nói gì. Chú không hiểu sao mình lại có thể thụ động, cứng nhắc và vô dụng trong những trường hợp đặc biệt mà sự khổ đau được biểu lộ rõ rệt như vầy. Không phải chú đã từng quán sát về khổ đau, quán sát về tính hư huyễn, tạm bợ của thế gian đó sao! Công phu thiền quán lâu nay, coi như không kết quả gì trước thực tế đau thương đang diễn ra trước mắt.
Rồi cũng từ đau thương này, chú biết mình đang đứng trước một hoàn cảnh mới, hoàn cảnh khó xử cho một người đã từ bỏ gia đình xuất gia. Trước kia, người em trai của chú hãy còn, chú có thể yên tâm rời nhà xuất gia, tìm nơi ẩn tu để đạt đạo giải thoát. Nay đứa em đã mất, chú không thể để mẹ mình phải sống đơn côi quạnh quẽ trong tuổi già, không người phụng dưỡng dâng cơm dâng nước. Huống chi, từ ngày chồng mất, mẹ chú tuy không nói ra nhưng hẳn nhiên là trong lòng cũng mong đợi hai anh em sẽ làm tròn chức năng của những đứa con trai, không để cho dòng họ phải tuyệt tự. Nghĩ đến đó, chú không khỏi rùng mình và đau xót cho chí nguyện xuất gia của mình. Chú không ngờ cuối cùng rồi chú cũng phải đương đầu với nghịch cảnh ghê rợn nhất đối với một người xuất gia: lập gia đình. Rõ ràng như vậy. Chú phải lập gia đình để có con nối dõi tông đường. Không bao lâu đâu, mẹ chú sẽ mở lời yêu cầu về chuyện đó. ở làng này, và ở trong tộc họ nhà chú, chuyện nối dõi tông đường là một bổn phận thiêng liêng mà không người trai nào có thể và có quyền từ chối, trừ phi kẻ ấy xuất gia. Nhưng nếu là đứa con trai độc nhất trong gia đình thì chuyện xuất gia hầu như không bao giờ được chấp nhận như là một chọn lựa hợp lý. Trong làng, người ta rất quí mến những người xuất gia; nhưng quan niệm về sự nối dõi vẫn mạnh mẽ, thâm căn, lâu đời hơn, khiến người làng không thể chấp nhận một đứa con trai làm ngơ trước sự tuyệt tự của một gia tộc. Mọi người đều có thể chọn lựa một cách nhanh chóng thay cho chú, rằng chú phải trở về phụng dưỡng mẹ già và lập gia đình, có con cái để giữ giống. Nhưng chú, dù gì đi nữa, cũng đã xuất gia một thời gian, chú thấy khó xử. Chú đau lòng nếu phải từ bỏ cuộc sống ẩn tu để trở về với thế tục, và nhất là phải cưới vợ. ở tuổi của chú, trai trong làng đã có vợ có con cả rồi. Còn chú, đi tu đã lâu, cho dù đến tuổi trưởng thành, cơ thể nẩy nở, sinh lý phát triển tự nhiên, chú cũng không và hầu như chưa hề có ý niệm gì về chuyện yêu thương ai nói chi chuyện cưới vợ. Mỗi khi vào làng, chú cứ theo luật chùa dạy, nhìn dưới đất ngay trước mặt, cách mình ba bước, cứ vậy mà đi thẳng, không liếc ngó hai bên. Cho nên, có vào làng chú cũng chẳng bắt gặp ai. Giới luật bảo vệ chú, tránh cho chú những rung động về ái và dục. Giờ này đây, chú biết là chú sắp mở cái rào cản giới luật ra để chạm trán, đối diện với cuộc đời tục lụy. Chú không biết rõ lắm là khi cưới vợ chú sẽ làm gì để mà có con nối dõi. Chú chỉ hiểu rất đại khái rằng khi người nam người nữ (không phải là anh chị em ruột của nhau) mà sống chung với nhau thì... một ngày nào đó, người nữ tức là cái người mà người ta gọi là vợ, sẽ mang thai và cuối cùng đẻ ra con. Thực là chán ngán. Chú thầm nghĩ như vậy. Khó lòng mà chấp nhận một cuộc sống chung với một người khác phái để rồi có con cái nheo nhóc, đủ thứ rối rắm của cuộc đời. Hình ảnh những cặp vợ chồng già, trẻ ở trong làng không hề gây chút hứng cảm gì nơi chú. Đôi lúc nhìn thấy họ, chú chỉ thấy tội nghiệp dùm.
Mấy năm đầu mới xuất gia, chưa lên núi ẩn tu, chú được thầy dạy cho rằng muốn đạt đạo giải thoát thì điều tiên quyết là phải xa lìa ái dục. Chú khát khao giải thoát đến độ một đêm nọ, chú quyết định lạy thầy mà xin lên núi ẩn tu. Thầy ngăn cản, nói rằng chú chưa được chín chắn và chưa đủ bản lãnh để sống cuộc sống độc cư. Nhưng chú vẫn không nghe lời thầy, lặng lẽ bỏ đi. Năm đó chú mới mười ba tuổi, còn bé xíu mà đã dám một mình độc cư trên núi. Mấy năm trên núi, trồng rau hái quả, đêm ngày ngồi thiền, tụng kinh, chú nào biết ái dục là cái gì. Từ ngoại cảnh cho đến nội tâm, chẳng có gì quấy nhiễu chú cả. Chú nghĩ vậy là đã giải thoát rồi còn gì! Vậy đó, mà nay đứng trước gia cảnh bi thương, chú mới ý thức được rằng giải thoát không phải chỉ đơn giản như là chú từng quan niệm. Không phải chỉ bỏ mặc thế gian ngoài tai là đã giải thoát.
Chú nhìn mẹ, thấy mắt bà đã ráo lệ nhưng nỗi đau khổ vẫn cứ còn hiện rõ trên khuôn mặt nhăn nheo và xạm nắng. Chú thương mẹ lắm. Chưa bao giờ chú thấy thương mẹ như lúc này. Chú biết chú nên ở lại bên bà để phụng dưỡng, không thể bỏ đi được nữa. Việc này, chú dễ dàng chấp nhận cho dù từ bỏ cuộc sống xuất gia là một điều thật đau xót đối với chú. Tuy nhiên, nếu về nhà phụng dưỡng mẹ rồi lại lo cưới vợ để nối dõi tông đường thì chú thấy tâm lý mình chưa thích nghi để đồng ý một cách thoải mái được. Nối dõi tông đường, theo chú nghĩ, chỉ là hành động kéo dài cái giây oan nghiệt sầu não của cuộc đời ra mà thôi. Nhưng bây giờ, chú đang được khuyến khích, được yêu cầu đi vào con đường đó. Chú có cảm giác mình như một con bò bị kéo vào lò sát sinh. Cuộc đời, với những phiền toái của nhân tình thế thái, với những tham muốn, những sân hận, si mê v.v... là một cái gì rất kinh khiếp đối với chú thì giờ này chú buộc lòng phải bước vào đó!
Chú đi quanh trong nhà mấy vòng để suy nghiệm về hoàn cảnh của mình, rồi chú lại đến ngồi bên mẹ. Người mẹ im lặng không nói gì. Bà cũng đã hết thút thít than vản. Bà quay nhìn chú một thoáng rồi cúi mặt nhìn xuống đất. Có lẽ bà đang do dự là có nên mở lời yêu cầu con mình, một tu sĩ, trở về sống bên mình không. Bà thấy khó lòng để nói ra cái điều mong mỏi đó, dù rằng đó là nhu cầu tự nhiên. Bà đã quen nhìn con như một tu sĩ rồi, giờ này kêu gọi người tu sĩ đó hãy làm tròn bổn phận làm con, bà thấy thật khó xử. Bà cứ ngồi đó, im lặng.
Chú cũng ngồi im, chưa biết nói gì. Một chặp lâu, chú mới yêu cầu mẹ đưa đi ra thăm mộ đứa em. Người mẹ vội vàng đứng dậy dẫn chú đi ngay. Bà có vẻ như tin rằng đứa con tu sĩ của mình sẽ tự nguyện quay về khi chính anh ta đòi đi thăm mộ em trai. Trước nấm mồ của đứa em trai đã chết hẳn, không thể nào anh ta quên được rằng mẹ anh bây giờ chỉ còn có một mình.
Bước ra khỏi nhà, hai mẹ con thấy gần như cả xóm tụ họp lại trước nhà mình. Ai cũng trố mắt nhìn chú, như thể họ đang chờ cái kết quả, cái quyết định quan trọng từ nơi chú vậy. Hình như ai trong làng cũng đoán biết rằng cái chết của em trai chú sẽ làm thay đổi cuộc đời tu hành của chú. Mẹ chú chào mọi người. Chú chỉ cúi đầu, không nói gì, lẳng lặng đi theo mẹ ra mộ địa. Một vài người hiếu kỳ bước theo sau hai mẹ con.
Chú thắp hương cho đứa em trai nhỏ hơn mình ba tuổi — thằng em ngoan ngoãn, thật thà, cần cù, siêng năng mà trong xóm ai cũng mến. Nếu người em không chết thì có lẽ chỉ trong vòng một hai năm nữa đã có thể làm cha rồi, có thể làm tròn bổn phận nối dõi rồi, đâu có cần người anh tu sĩ này phải trở về! Chú cắm nhang vào cái lọ nhỏ trước bia mộ của em thì bỗng dưng nước mắt trào ra. Khuôn mặt hiền hậu của đứa em nhập nhòa trong làn nước mắt của chú. Bà mẹ chú thì khỏi nói rồi, bà đã khóc ngay từ khi mới bước đến cổng nghĩa trang, nhác thấy mộ con từ xa. Bây giờ thấy đứa con tu sĩ chảy nước mắt, bà càng khóc nhiều hơn. Chú nuốt nghẹn, vội vàng lau nước mắt, lúng túng che giấu, không muốn cho người khác biết.
Bà mẹ vừa khóc vừa than oán:
"Con ơi là con... Con đành bỏ mẹ ở lại một mình sao con!"
Nghe mẹ than mà như thầm nhắc chú cái thực trạng hiu quạnh của bà, chú cúi xuống đỡ mẹ dậy, nói liền để mẹ yên tâm:
"Thôi, nghiệp của em con vậy cũng không tránh được. Mẹ đừng đau buồn nữa. Lo cầu nguyện cho nó là được rồi. Không có nó thì còn có con. Con sẽ về với mẹ."
Bà mẹ ngước lên, lau nước mắt. Bà đã nghe được những lời bà mong đợi. Những lời đó đối với bà đáng ra là một lẽ tự nhiên thì bây giờ, như là đặc ân mà bà tưởng là khó có thể được hưởng. Bà níu lấy cánh tay rắn chắc của thằng con tu sĩ để đứng lên.
Chú dìu mẹ bước ra khỏi nghĩa địa. Vài người hàng xóm lẽo đẽo theo sau, chẳng biết theo làm gì, chú tự hỏi như vậy. Dọc đường về nhà, bà mẹ bỗng ngước lên hỏi lại chú lần nữa cho chắc ăn:
"Con nói con sẽ về với mẹ hở?"
"Dạ, con phải về chứ. Mẹ chỉ còn một mình."
Bà mẹ cười vui trong lòng, cho dù bà cũng vừa mất một đứa con trai cách đây không lâu. Điều mà bà cần lo nghĩ tính toán lúc này đây là làm sao để thằng con trai duy nhất còn lại của giòng họ chấp nhận sứ mệnh nối dõi tông đường (từ lúc đứa con bị rắn cắn chết, bà như giật mình thấy rằng vấn đề nối dõi của nhà chồng là điều cần kíp chứ không nên chậm trễ nữa). Chỉ cần anh ta bằng lòng thôi, chứ chuyện kiếm vợ cho anh ta thì chẳng khó khăn gì. Người con tu sĩ của bà vừa to cao, vừa đẹp trai, vừa có học, vừa hiền đức, chỉ cần thay chiếc áo ca-sa thành thường phục là trở thành thần tượng của gái trong làng cho mà xem. Thậm chí, ngay khi anh ta còn là tu sĩ mà nhiều cô còn nhìn trộm liếc lén mỗi khi anh từ trên núi về thăm nhà nữa kia. Bà nhớ tới Liên, cô gái mồ côi ở cạnh nhà, cứ qua nhà hỏi thăm chừng nào chú về hoài. Con Hoa con bà Thuận cũng chẳng vừa gì, có lúc nó đã nói với bà rằng "chú đi tu uổng quá bác à!" Dĩ nhiên bà biết con bà đẹp trai, đẹp mà thánh thiện lắm, nhưng vì anh ta tu, bà không dám nghĩ tầm bậy. Bây giờ, anh ta về rồi, anh ta tự nguyện về, bà có quyền nghĩ. Phải nghĩ, phải tính cái chuyện lấy vợ cho anh ta. Vừa đi bà vừa đo lường, cân nhắc giữa mấy đứa con gái trong làng mà bà biết. Làm sao thì làm chứ chọn dâu tương lai bà phải kỹ lưỡng. Nhất là Tuấn con bà, lâu nay đi tu chỉ biết tụng kinh niệm Phật, ăn chay nằm đất, lại ẩn cư trên núi, nào có biết cái chuyện đời ra sao. Nếu chẳng may cưới về cho anh ta người vợ dữ như chằn thì khổ cho anh cả đời. Anh ta tu nên hiền và khờ khạo biết bao! Không cưới được con vợ nhu mì, đức hạnh thì chắc chắn anh sẽ bị ăn hiếp. Bà không an lòng chút nào. Thằng Tú em của anh ta cũng hiền khô như thầy tu, nhưng dù sao cũng có va chạm với đời, cũng hiểu được đời chút chút. Đằng này, Tuấn tuy là anh, lớn hơn thằng Tú ba tuổi, trông đạo mạo uy nghi khi khoác áo tăng sĩ, nhưng khi thay đổi thường phục thì chỉ còn là một cậu bé ngờ nghệch, vụng dại mà thôi.
Khi hai mẹ con vào nhà, chú Tuấn đóng cửa lại thì nhìn thấy mấy người hàng xóm nãy giờ đi theo hai mẹ con ra nghĩa trang, bây giờ cũng theo về đến nơi, đứng ở ngoài nhìn vào, xầm xì. Trong số những người đó, có một thiếu nữ trạc tuổi chú. Chỉ trong một thoáng nhìn thấy cô ta, chú như bắt gặp một cái gì quen thuộc nhưng lại mông lung không hiểu nổi. Thiếu nữ thấy chú nhìn ra thì e thẹn ngó lơ chỗ khác, miệng hơi mỉm cười. Chú thấy run lên, hoảng sợ. Chú từng nghe thầy dạy rất nhiều về những cám dỗ mà một tu sĩ cần phải tránh để tiến tu trong sự nghiệp giải thoát giác ngộ, trong đó tiền tài và sắc đẹp đứng hàng đầu. Nhưng đối với vấn đề tiền tài, những người xuất gia không mấy hãi sợ. Hoàn cảnh của họ ở chùa, ở vùng quê hẻo lánh, ở rừng sâu hay núi cao, vấn đề tiền tài không phải là đối tượng nguy hiểm. Nguy hiểm nhất cho mọi hoàn cảnh vẫn là nữ sắc mà thôi. Chú vội đóng nhanh cánh cửa rồi cài then lại. Mặt chú ửng đỏ lên rồi lại tái mét như một kẻ vừa được thoát hiểm. Mẹ chú thấy vậy liền hỏi:
"Gì vậy? Gì mà... con giật mình hoảng sợ vậy?"
"Đâu có gì đâu mẹ," chú đáp.
Bà mẹ bước đến cửa, kéo tấm liếp nhỏ ở trên nhìn ra ngoài thì thấy những người hàng xóm vừa tan hàng, chỉ có Liên ở nhà kế bên là còn tần ngần đứng lại như chưa muốn về. Bà âm thầm ngắm nhìn cô gái mà bà vẫn thường gặp hàng ngày. Bà thấy cô ấy đẹp lạ. Hình như chính lúc này bà mới nhận ra được cái vẻ mặn mà duyên dáng của Liên. Quần áo đơn sơ xoàng xĩnh của một cô gái quê nghèo không lấp nổi cái nét sắc sảo mà nghiêm trang toát ra từ đôi mắt sáng và sóng mũi thanh cao của cô. Đôi môi hồng, nhỏ, với môi dưới hơi trề ra như nũng nịu càng làm tăng thêm vẻ quyến rũ của nàng. Bà gật gù hiểu ra được nguyên do vì sao con bà thất sắc. Và bà thầm nghĩ: "Tại sao phải tìm kiếm ở đâu cho xa! Chính cô ta là dâu tương lai của ta đây rồi."
Bà đóng nhẹ liếp cửa, quay trở lại thì thấy con mình đang ngồi nơi bàn, có vẻ đăm chiêu nghĩ ngợi chuyện gì quan trọng. Bà e dè hỏi:
"Con tính sao? Con nghĩ là con có thể trở về đây sống với mẹ được không?"
Chú Tuấn ngước lên trả lời ngay:
"Dạ được chứ mẹ, đâu có gì trở ngại đâu. Dù gì thì con vẫn là con của mẹ mà."
Nghe vậy bà cảm động lắm. Nhưng cái điều bà muốn hỏi, bà vẫn chưa biết làm sao để mở lời. Mà không nói bây giờ thì chờ lúc nào nữa. Trước sau gì cũng phải cho con mình biết hoặc ít nhất cũng có trước chút ý niệm gì về những gì mà bà mong đợi nơi anh ta. Ngưng một lúc, bà nói:
"Tội nghiệp thằng Tú, và cũng tội nghiệp cho con. Nếu nó không... thì con đâu phải bỏ tu như vầy. Mẹ thấy trong lòng xót xa lắm vì không để cho con đi trọn con đường của con. Nhưng mẹ biết làm sao hơn... Giòng họ nhà mình... chỉ còn có con thôi..."
Bà nói vậy, không rõ ràng lắm, nhưng chú Tuấn cũng nhận ra được ngay cái ý chính của bà. Cái chuyện nối dõi tông đường. Chú thở dài rồi nói:
"Con biết, con biết con phải gánh cái trách nhiệm mà nếu Tú còn sống nó phải gánh."
Bà mẹ lắng nghe, thích ý lắm, nhưng cũng chưa dám chắc là con mình đã hiểu mình. Bà không biết là đứa con tu sĩ khờ khạo của bà nghĩ gì về trách nhiệm của thằng Tú. Trách nhiệm đó không phải chỉ là đi kiếm củi, mang củi ra chợ bán để phụng dưỡng mẹ già mà chỗ chính yếu nhất của trách nhiệm làm con (trai) ở làng này, ở trong giòng họ nhà này là sinh đẻ con cái kia. Bà lại dợm lời nói tiếp:
"Thực ra chuyện sinh nhai độ nhật không phải là điều khó khăn cho mẹ. Mẹ có thể bắt chước cô Liên bên cạnh nhà nuôi tằm dệt lụa cũng sống được. Cái khó là... cái mà mẹ không thể làm được, chỉ có con với thằng Tú làm được mà thôi..."
"Dạ, con biết. Tụi con là thanh niên trai tráng mà, khác với mẹ chứ!"
Bà gật gù rồi làm thinh, suy nghĩ. Anh ta nói vậy là đã biết trách nhiệm thiêng liêng của anh ta chưa nhỉ? Cái trách nhiệm đó đâu phải là chuyện mạnh khỏe, làm việc giỏi dang của trai tráng! Bà kiên nhẫn gợi ý tiếp:
"Ý mẹ muốn nói là... gia đình ta cần phải lấy lại sinh khí, làm đẹp mặt tổ tông nơi chín suối..."
"Dạ, con biết. Mẹ muốn nói đến chuyện nối dõi đó mà."
Bà mẹ sáng mắt lên. Bà không ngờ đứa con tu sĩ của bà cũng tự biết được cái trách nhiệm thế tục này chứ không cần bà phải giải thích, kêu gọi dông dài. Vậy mà bà cứ tưởng anh ta khờ khạo không hay biết gì! Bây giờ anh đã tự nói ra, khỏe cho bà biết bao. Bà sung sướng nắm lấy cánh tay con, nói với giọng phấn khởi:
"ở làng mình, người ta để tang cha mẹ ba năm mới tính đến chuyện cưới hỏi. Nhưng anh chị em thì không cần phải để tang lâu. Hơn nữa, cái chuyện nối dõi đối với gia đình này là vấn đề cần kíp. Cho nên..."
Chú nghe đến đó liền cắt ngang:
"Thưa mẹ, con đã biết. Nhưng con..."
"Khỏi lo. Mẹ lo hết. Mẹ sẽ lo tới nơi tới chốn mọi chuyện. Chỉ cần con đồng ý là được rồi, đừng có lo là không có."
"Không phải, ý con muốn nói là con cần phải lên chùa lạy thầy và xin xả giới."
"Nghĩa là sao, mẹ không hiểu?"
"Con đã thệ nguyện giữ mười giới trọn đời. Nay không giữ nữa thì phải lên lạy thầy xin xả giới, tức là xin bỏ lời thệ nguyện đó, khi nào cảm thấy có thể giữ được thì xin giữ lại."
Bà mẹ tỏ vẻ ái ngại. Bà sợ con bà đến chùa, gặp thầy, gặp bạn, thấy lại cảnh chùa rồi đổi ý không chịu về nhà nữa.
"Không lên chùa xả giới được không con?"
"Thực ra chuyện thệ nguyện giữ giới thì cần có giới sư truyền trao, nhưng khi xả bỏ thì chỉ cần đứng trước bàn thờ Phật mà xin xả cũng được rồi. Tuy nhiên, con muốn nhân dịp này, trở về chùa để thăm thầy bạn luôn thể. Chỉ hoàn cảnh đặc biệt lắm thì mới tự xả giới, còn bây giờ có chùa, có thầy thì nên về chùa để xả giới."
"Có phải không xả giới thì con sẽ có mặc cảm mang tội mỗi khi làm bất cứ điều gì không đúng với giới luật, dù rằng con hoàn tục?"
"Dạ phải, thưa mẹ. Chính vì vậy luật Phật mới đặt ra vấn đề xả giới."
"Vậy con nhất quyết phải đi lên chùa?"
"Dạ, con cần phải đi. Nhưng con e ngại là để mẹ ở nhà một mình."
Bà mẹ thở dài rồi nói:
"Nếu phải vậy thì mẹ cũng không cản con làm gì. Có điều, mẹ muốn con hứa với mẹ."
"Mẹ à, mẹ sợ con đi luôn sao? ở chùa thì quét lá đa, về nhà thì phụng dưỡng mẹ. Lúc con ở chùa, con đã một lòng siêng năng tinh tấn tu học thì nay về nhà con cũng đem cả lòng mình để làm tròn bổn phận đứa con. Làm sao con có thể bỏ mẹ mà đi luôn được!"
"Không, không phải mẹ bảo con hứa chuyện đó. Mà chỉ muốn con hứa với mẹ là dù thế nào đi nữa, con cũng không để cho giòng họ nhà này phải bị tuyệt tự."
Chú Tuấn im lặng một lúc. Chú đã biết không thể tránh cái chuyện đó được nhưng giờ này nghe mẹ nói chú vẫn cứ nghe trong lòng như đau nhói và hãi sợ. Chú cúi mặt xuống một lúc rồi ngẩng lên ngay:
"Con hứa với mẹ. Đó là bổn phận mà con, đứa con trai duy nhất của giòng họ phải gánh lấy. Xin mẹ yên tâm."
"Vậy thì tốt rồi. Con có thể lên đường ngày mai. Mẹ ở nhà không sao đâu. Có cô Liên bên cạnh nhà cũng thường qua lại giúp đỡ mẹ. Những ngày thằng Tú mới chết, con chưa xuống núi, cô ấy chăm sóc mẹ đó."
"Vậy hả mẹ. Nếu có người giúp đỡ, chăm sóc mẹ thì con đỡ lo."
"Cô ấy mồ côi cha mẹ, ở sát bên cạnh nhà mình. Tánh tình cô ấy hiền dịu mà lại đảm đang việc nhà nên mẹ thích cô ấy lắm. Để chiều nay mẹ gọi cô ấy qua chơi giới thiệu cho con biết trước khi con lên đường."
"Thôi, khỏi cần mẹ ạ."
"Đừng có sợ mà, trước sau gì cô ấy và con cũng thành vợ thành chồng mà. Biết trước cũng là hay hơn chứ."
"Cái gì? Mẹ đã chọn cô ấy cho con rồi sao? Con đâu biết cô ấy là ai, mặt mũi thế nào đâu!"
"Bởi vậy mới nói là để gọi cô ấy qua cho con biết mặt," bà vừa nói vừa cười sung sướng như thể chuyện thành thân của con bà và Liên đã là chuyện ăn chắc rồi vậy.
Mà bà tin như vậy cũng phải. Liên có cảm tình với con bà ngay từ khi anh ta còn tu, nay biết anh ta hoàn tục, cô ta hẳn là phải thích ý rồi. Ngoài ra, nàng còn cảm thấy vinh dự khi được sánh duyên với chú rể là một người tu có đạo đức nổi danh trong làng ai cũng biết. Bà mở lời thì nàng sẽ nhận lời ngay, làm sao mà từ chối cho cam. Bà tính là trong vòng chiều hay tối nay bà sẽ gợi ý trước với Liên. Sau khi con bà từ chùa về, sẽ tiến đến việc tổ chức đám cưới. Chuyện hãy còn trong dự tính mà đã vui mừng khấp khởi, đến độ hầu như quên luôn cái chết đau thương của đứa con trai khác của mình cách đây chưa đầy một tháng.
Chú Tuấn cũng vậy, chú đã không khỏi nghe một nỗi xao xuyến lạ kỳ đong đưa trong tâm hồn mình. Chú không ngờ lâu nay tĩnh tu trên núi cao, cắt đứt những tham luyến thường tình của thế gian, vậy mà nghe mẹ khen ngợi một thiếu nữ và nói rằng sẽ cưới nàng về làm vợ mình, lòng chú đã thấy rung động, bâng khuâng khôn tả được. Chú như nhìn thấy được những chồi non của ái dục cùng một lúc trỗi dậy, vươn lên khỏi mặt đất phẳng lặng của tâm mình. Chú không hiểu sao chú lại có thể bị đánh bại một cách dễ dàng trước dục vọng, đối thủ hàng đầu của người xuất gia học đạo.
Chú đang băn khoăn với những rạo rực, những đổi thay rõ rệt của lòng mình thì nghe có tiếng gõ cửa. Chú giật mình đứng dậy, nhưng mẹ chú đã xua tay, nói:
"Con cứ ngồi đi, để mẹ ra mở cửa xem thử ai."
Khi mẹ chú đến nơi cửa, lòng chú bỗng hồi hộp, run bấn lên, như thể bà đang mở ra cho chú cánh cửa của một kho tàng bí mật. Chú bỗng linh cảm rằng người gõ cửa sẽ là thiếu nữ mà mẹ thường nhắc đến tên, và thiếu nữ đó sẽ là thiếu nữ mà chính chú đã bắt gặp lúc nãy khi chú đóng cửa. Chú nhìn theo mẹ, dán mắt vào cánh cửa, chờ đợi.
Quả nhiên, khi mẹ chú mở cửa ra thì Liên đang đứng đợi, hai tay nàng bưng một cái khay nhỏ thức ăn. Nàng đúng là người thiếu nữ mà chú đã nhìn thấy khi nãy. Nàng nói với mẹ chú những lời nhỏ nhẹ mà chú ngỡ như là mình vừa lạc vào một cõi trời nào đó và nghe được lần đầu âm thanh nhẹ nhàng thánh thót của tiên nữ trên ấy.
"Thưa bác, con đem qua chút ít thức ăn để bác và chú... dùng. Con biết bác và chú đang còn bối rối chuyện của em Tú nên chưa chuẩn bị được thức ăn thức uống trong nhà..."
"Ôi chao Liên à... con thật tốt bụng. Thật là phiền con quá. Bác có thể tự lo được mà. Thôi được, con đã có lòng mang qua, bác không dám từ chối. Cám ơn con. À này, sẵn đây bác giới thiệu con cho... Tuấn biết."
Nói rồi bà đón lấy khay thức ăn đặt lên bàn, kéo tay Liên bước vào trong nhà. Liên hơi níu lại, nhưng rồi cũng bước theo bà đến chỗ chú Tuấn đang ngồi.
"Tuấn con, đây là cô Liên mà mẹ nói với con lúc nãy đây. Liên thì biết con rồi, mẹ khỏi phải giới thiệu."
"Chào... chú."
Chú Tuấn ngượng ngập đứng dậy, mặt chú đỏ bừng lên, lúng búng nói:
"Chào... cô."
Bà mẹ cười tủm tỉm trước cảnh lần đầu tao ngộ của đôi trẻ. Rồi bà dắt tay đưa Liên đến bàn định mời nàng ngồi chơi nhưng Liên không ngồi, nàng tự nhiên đi xuống bếp lau chén đũa mang lên. Chú đứng chết trân nhìn theo dáng đi khoan thai uyển chuyển của nàng. Có một mùi thơm nhẹ thoang thoảng mà chú nghĩ là do nàng mang đến, làm ngây ngất tâm hồn chú. Trong phút chốc, chú thấy công phu học đạo của mình tan tành theo mây khói. Cuộc đời trước mặt chú, trước kia là một bể khổ mênh mông đầy sóng thì nay được phơi bày như một bức tranh nên thơ, tuyệt đẹp, không có bút mực nào tả xiết. Chú thấy trong lòng dâng lên một niềm rung động lâng lâng, nhẹ nhàng. Chú mỉm cười. Chú đón nhận cuộc đời một cách dễ dàng không thể tưởng.
Mẹ chú bắt được tia nhìn say đắm của con mình. Bà thầm cám ơn Trời Phật đã không ngăn cản mà còn khuyến khích con bà đáp ứng kỳ vọng của bà một cách không khó khăn, vướng mắc gì.
Liên sắp đặt mâm cơm với hai đôi đũa, hai cái chén trên bàn rồi nói:
"Mời bác với... dùng cơm," rồi cô nói nhỏ với mẹ chú rằng "con nghĩ chú ăn chay lâu năm rồi, bây giờ chú có về luôn không tu nữa thì cũng phải cần một thời gian mới ngã mặn được."
"Bác biết chuyện đó. Mà con cũng tinh ý nữa. Con thật trẻ mà chu đáo mọi bề. Này, con cũng ngồi ăn miếng cơm với mẹ con bác chứ. Sao chỉ lấy có hai chén hai đũa thôi?" Nói rồi, bà vội vã xuống bếp lấy thêm một chén và một đôi đũa nữa.
Trong lúc đó, Liên bới cơm vào chén. Xong nàng quay qua, thấy chú Tuấn vẫn còn đứng gần cuối phòng, mắt đăm đăm nhìn mình.
"Mời... chú."
Chú lúng túng, không biết nói gì.
"Lại ăn đi con, đừng để cô ấy nhọc lòng mời mãi," mang chén đũa từ bếp lên, bà mẹ chú vừa nói.
Chú theo mẹ bước đến bàn ăn. Liên định rút lui để hai mẹ con tự nhiên, nhưng thấy mẹ chú mang chén lên nên cũng chần chừ chưa quyết định. Mẹ chú nắm tay nàng giữ lại, bảo ngồi xuống chiếc ghế trống bên cạnh bà. Chú Tuấn vẫn dán mắt nhìn nàng. Chú thấy nàng đẹp quá, không giống như những mô tả về nữ giới trong kinh điển mà chú từng đọc thấy. Không những từ thể chất qua làn da trắng hồng thơm tho của nàng mà ngay cả đến tinh thần của nàng nữa, chú như nhìn thấy, cảm thấy được cái vẻ trong suốt sáng ngần như pha lê hay như giọt nước cam lồ trong vắt từ bình tịnh thủy của đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Chú không thấy gì là bất tịnh, là ô uế, là tạp nhiễm, là cấu bẩn... nơi con người nàng cả. Ngược lại, chú thấy nàng là hiện thân của những gì cao đẹp, thánh thiện, trong sạch nhất của cuộc đời.
Mẹ chú đã dự tính là sẽ nói chuyện, gợi ý riêng với Liên rằng bà muốn cưới nàng cho chú Tuấn. Nhưng bỗng dưng, trước sự đắm say say đắm nhau thấy rõ giữa đôi trẻ, bà thấy không cần phải úp mở gì nữa. Bà muốn nói ngay những gì bà mong ước, ngay bây giờ, chứ không còn dịp nào tốt hơn, vì ngày mai con bà sẽ phải lên đường về chùa để xin xả giới. Một hứa hẹn tuy chưa có sự chính thức thừa nhận của làng xã xóm giềng bằng một lễ cưới nhưng cũng tạo đủ sức mạnh để lôi kéo đứa con trai cưng của bà quay trở lại cái tổ ấm này.
Nghĩ vậy rồi, tay phải cầm tay Liên, tay trái cầm tay chú Tuấn, bà nói:
"Sáng sớm ngày mai Tuấn lên đường rồi," (bà nói ngang đây thì Liên sửng sốt trố mắt nhìn bà rồi quay sang nhìn Tuấn), "mẹ muốn trước khi Tuấn đi, hai con ngay trước mặt mẹ, hãy hứa với nhau một điều là sẽ trở thành vợ chồng của nhau, chung sống với nhau tới ngày răng long tóc bạc. Mẹ thấy hai con rất xứng với nhau, không thể chọn lựa được người nào khác hơn nữa. Thương mẹ, hai con hãy nói cho chính tai mẹ nghe lời hứa của hai con. Nào, Tuấn, con là trai, con hãy nói trước. Nói đi, hứa đi. Con có muốn cưới Liên làm vợ không?"
Mặt chú Tuấn đỏ bừng bừng lên. Chú không ngờ mẹ lại đặt mình vào một tình thế gay cấn như vậy. Dĩ nhiên là chú bằng lòng rồi, nhưng ai lại đi hỏi thẳng thừng trước mặt nàng, làm sao mở miệng được. Chú lúng túng, chẳng biết làm sao. Liên cũng e thẹn cúi mặt xuống như muốn lẩn trốn, dù rằng trong lòng nàng thật sung sướng.
Mẹ chú nhắc lại:
"Tuấn, con không thương mẹ sao? Con đã nói là con sẽ không từ chối chuyện đó mà. Hứa với mẹ đi nào."
Ngập ngừng một chốc chú mới nói:
"Đâu có biết ý của... ra sao?"
Bà mẹ liền quay qua Liên. Nàng đang bẻn lẻn vân vê góc áo bà ba của mình.
"Liên con, Tuấn muốn biết ý của con rồi mới dám hứa. Vậy con nghĩ sao? Con có đồng ý là sẽ làm vợ của Tuấn không?"
Liên thẹn thùng, nhưng cũng biết đây là cơ hội tốt của nàng và Tuấn, nàng mạnh dạn nói:
"Con muốn biết là... đi đâu sáng mai cái đã."
"À, lên chùa xin xả giới. Tuấn sẽ đi trong ba ngày thôi, sẽ quay lại và chúng ta sẽ tiến hành việc tổ chức đám cưới. Bác muốn biết trước ý của con và Tuấn hôm nay trước khi Tuấn lên đường."
"Dạ... nếu chú đi rồi quay trở lại thì... thì con xin hứa."
"Thấy chưa, Tuấn. Liên đã thuận hứa rồi đó. Con sao, con có đồng ý cưới Liên làm vợ không?"
"Dạ... con hứa."
Bà mẹ nắm tay đôi trẻ đặt vào nhau. Hai cánh tay hơi rút lại lúc đầu nhưng rồi cũng đi theo chiều kéo của bà mẹ, tìm đến nhau. Hai bàn tay nắm lấy nhau một lúc bỡ ngỡ. Chú Tuấn nghe như có luồng điện chạy rần rần vào tim mình. Chú nhìn thẳng vào mắt Liên, không e dè nữa. Liên cũng mạnh dạn, ngước nhìn chú, rồi chớp chớp đôi mắt. Hai bàn tay im lặng. Hai trái tim lên tiếng rộn rã. Bà mẹ nói:
"Hai con đã hứa trước mặt mẹ rồi. Vậy kể từ hôm nay, duyên vợ chồng coi như đã thành. Mẹ vui mừng đón nhận Liên vào gia tộc này."
Nói đến đó, bà mẹ thả tay đôi trẻ ra. Liên định rút tay về nhưng thấy tay Tuấn cứ nắm chặt lấy tay mình nên cứ để yên như vậy, chờ đợi. Thấy mẹ tủm tỉm cười, chú giật mình buông vội tay Liên ra, rút về. Chú và Liên nhìn nhau, cảm thấy mình đã là sở hữu của nhau rồi.
Sau bữa ăn, Liên trở về nhà nàng và lo chuẩn bị chút thức ăn để làm hành trang cho người chồng tương lai của mình lên đường vào sáng sớm ngày mai. Lòng nàng vui rộn rã, nàng thức luôn cả năm canh để mơ mộng, suy tưởng về cuộc sống chung đang cận kề của nàng và chú Tuấn, một chàng trai hiền lành, đẹp trai, đạo đức mà nàng hằng ôm ấp hình bóng từ mấy năm nay.
Chú Tuấn cũng không ngủ được. Buổi tối ngồi tham thiền, quán tưởng, chú chỉ thấy hình bóng Liên với môi cười tươi như một đóa hoa, với mắt sáng long lanh và hiền như mắt nai, với bàn tay mềm mại, với làn tóc óng ả, với giọng nói thanh tao dễ mến... Hình ảnh nàng chiếm đoạt cả tâm tư chú trong suốt những giờ ngồi thiền. Chú mong cho đến sáng để được nhìn lại nàng lần nữa trước khi lên đường.
*
Chùa vắng tanh như chùa hoang. Lâu lắm chú mới về thăm lại chùa nên thấy cảnh chùa có vẻ khác lạ. Tuy nhiên, những kỷ niệm xa xưa cũng trỗi dậy, làm chú thoáng thấy buồn trong lòng. Chú bước nhanh hơn về phía phương trượng để bái kiến thầy và cũng để đánh tan đi những lưu luyến mà chú nghĩ là vô ích vừa mới dâng lên trong lòng.
Thầy đang ngồi tĩnh tọa trên bồ đoàn, thấy chú bước vào, gật gù hỏi:
"Thiền sư xuống núi có duyên sự gì lớn lao lắm hả?"
Chú Tuấn ngượng ngập một lúc, sụp lạy ba lạy rồi quỳ thưa:
"Bạch thầy, gia đình con chỉ còn mẹ già và một đứa em trai. Tháng rồi em con bị rắn độc cắn chết khi đang đi đốn củi, mẹ con yêu cầu con hoàn tục để lo việc nối dõi tông đường."
"Đau xót thay cho con! Vậy, con tính xin xả giới hôm nay, phải không?"
"Bạch thầy, phải. Con xin thầy cho con xả giới."
"Thầy làm chứng cho rồi, giới đã xả, con yên tâm lo về phụng dưỡng mẹ già và lo việc gia tộc."
Chú Tuấn lại lạy thầy ba lạy, nước mắt chú rơi xuống đất. Ngày đầu tiên lạy thầy để xuất gia, chú đâu có khóc như vậy.
"Đừng khóc con ạ. Con hẳn biết nghiệp quả của mỗi người là cái do chính người ấy tự tạo và tự lãnh thọ. Không có gì rơi ngoài vòng nhân quả. Con hãy về ngay bây giờ đi. Ta không muốn con ở lại chùa đêm nay."
"Bạch thầy, vì sao? Con muốn ở lại một đêm cuối cùng bên thầy để được chỉ giáo trước khi quay về với thế tục. Xin thầy cho phép."
"Không. Ta không cho phép. Ta muốn con về ngay lập tức, không nên nấn ná."
Biết thầy đã dứt khoát, chú đành lạy dài rồi thưa:
"Dạ, bạch thầy con về," chú lại sa nước mắt. Bước đến cửa, chú sực nhớ điều gì đó, liền đứng lại, hỏi thầy:
"Bạch thầy, tại sao con tu tập thiền định đã gần bảy năm rồi mà cho đến bây giờ con vẫn chưa thoát ly được ái dục?"
Vị thầy không trả lời câu hỏi, chỉ nghiêm sắc mặt nói rằng:
"Về đi!"
Chú quày quả lui ra, rời chùa lập tức. Chú lủi thủi bước đi, lòng cứ thắc mắc sao thầy lại xua mình về sớm.
Chú đi suốt đêm không dừng nghỉ, một phần vì mong gặp lại mẹ già và người vợ sắp cưới, một phần vì nghi ngại là trong sự xua đuổi của thầy có lý do gì liên quan đến mẹ mình ở nhà.
Ngày hôm sau chú đã về đến đầu làng. Từ xa, chú thấy khói đen mịt mù trong khắp xóm làng. Chú kinh hãi, thầm nghĩ: "Chắc có tai biến gì cho làng rồi!" Nghĩ vậy, chú vụt chạy nhanh vào làng. Hai bên đường, chú thấy nhà cửa xác xơ tiêu điều. Có nhiều tiếng than khóc, nghe rất sầu thảm. Chú vừa chạy vừa hồi hộp lo sợ cho mẹ già và Liên. Chú tính dừng chân hỏi thăm những người than khóc, nhưng đôi chân chú không chịu dừng, nó như muốn kéo chú đi thật nhanh về nhà mình.
"Mẹ! Mẹ ơi!" chú vừa hét lên vừa xông vào căn nhà cháy rụi của mẹ. Chú tìm không thấy mẹ đâu cả. Chú hốt hoảng chạy ra khỏi nhà, tìm qua nhà của Liên bên cạnh. Nhà Liên gần bên nhưng cũng cách một bờ rào và khoảng vườn giữa hai nhà nên khuất sau những tàng cây. Vào đến sân nhà của nàng, chú mới biết là nhà nàng cũng bị đốt cháy như nhà mình. Chú tính xô cửa vào nhà nàng thì sực nhìn thấy mẹ mình đang nằm dưới đất, mặt mày lem luốc cháy nám. Một cây cột ngã xuống đè ngang ngực bà. Chú vội đỡ cây cột lên, lay gọi mẹ. Mẹ chú sắp tắt thở rồi. Với hơi thở thì thào, bà nói:
"Cướp bóc... hãm hiếp... cả làng bị tai họa. Liên... Liên bị... nên nó tự tử rồi. Nó... chết rồi, trời ơi! Con dâu của mẹ. Con ơi! Sao gia đình ta tan nát thế này... hở con?... (nghẹn ngào một lúc, bà tiếp) À, mẹ nghĩ ra rồi, mẹ hiểu rồi... ôi, tất cả đều như thế. Con à, con đã hứa là không để giòng họ bị tuyệt tự... phải không? Nhưng hôm nay, mẹ xả bỏ lời hứa cho con, mẹ không buộc con phải giữ lời hứa đó. Tất cả chỉ là những trò bày vẽ của thế gian... Con là người xuất gia, con đã chọn đúng đường đi của mình. Con không cần phải quay về để làm những chuyện của thế tục... Hơn nữa, con và Liên đã hứa trước mặt mẹ là trở thành vợ chồng của nhau. Tuy hai con chưa thực sự chung sống nhưng nghĩa vợ chồng và lời kết ước thề nguyện của hai con chẳng phải phút chốc mà quên, mà xóa đi được. Do đó, mẹ yêu cầu con hãy quay trở về chùa với thầy con. Về mặt thế tục, đó cũng là cách tỏ tấm lòng thủy chung của con đối với nàng; về mặt tu hành, cũng là sự lựa chọn tốt đẹp cho đời con. Mẹ yên tâm nhắm mắt nếu con trở lại với thầy tổ chứ không muốn con dấn bước trở lại với dòng đời hỗn mang này để làm cái chuyện nối dõi tầm phào. Thế gian này chẳng có gì tồn tại lâu dài... không có gì đáng để luyến tiếc, vậy thì nối dõi đâu có nghĩa gì, con thấy không?"
Chú chỉ ôm mẹ mà lắng nghe, nghẹn ngào không nói được một lời. Đau khổ tột cùng. Chú chưa bao giờ cảm nhận được một nỗi đau khổ to lớn đến mức độ này. Chú ngồi với mẹ mà khóc rưng rức. Nhìn thi thể mẹ, nghe giọng nói thì thào của mẹ, chú biết mẹ sẽ chẳng còn sống bao lâu. Chú chia xẻ niềm đau với mẹ bằng sự im lặng và vòng tay của chú để tiễn đưa bà đi về thế giới khác. Một lúc lâu, chú mới thức tỉnh rằng chú nên niệm Phật lớn tiếng để cầu nguyện cho mẹ. Mẹ chú chớp chớp mắt nhìn, không nói, đưa tay chỉ vào nhà trong. Chú biết bà muốn nói gì. Có lẽ thi thể của Liên ở trong đó. Mẹ chú muốn chú đem xác nàng ra để bên cạnh bà để chú ngồi niệm Phật cho cả hai người. Chú tạm rời mẹ, mở cửa ra nhìn vào. Liên treo cổ chết trên cây đà ngang duy nhất còn lại trong căn nhà cháy rụi. Xác nàng thâm đen, treo lủng lẳng, đôi mắt sáng đẹp và hiền như nai của nàng trợn trừng lên; lưỡi nàng lè ra, tím ngắt; đôi môi tươi hồng của nàng cũng đã biến thành bầm xanh. Chú đau xót gỡ nàng xuống. Ẵm nàng ra ngoài, đặt bên cạnh mẹ. Mẹ chú đưa tay qua, cầm lấy tay Liên, ứa nước mắt. Rồi bà nói với chú:
"Không cần phải nối dõi tông đường. Đừng phụ tình của Liên. Hãy chôn mẹ và nàng bên nhau, cạnh mộ của Tú."
Đó là những lời cuối cùng của bà.
*
Tuấn chôn cất mẹ và Liên trong khu đất nghĩa trang, gần mộ của Tú. Nhiều người trong làng cũng lo chôn cất người thân của họ. Không ai màng để ý đến chú.
Chôn cất mẹ và Liên xong rồi, chú cứ quanh quẩn bên mộ của cả ba người để niệm Phật cầu nguyện và thiền quán, chẳng muốn rời đi. Suốt cả tuần lễ như vậy mà chú vẫn không ăn không ngủ được. Cho đến đêm thứ tám, chú mới mệt mỏi ngủ thiếp đi. Trong giấc mơ, chú thấy mình đang chèo một chiếc thuyền bé tí trên giòng sông cuồn cuộn sóng. Mẹ, Tú và Liên đều từ nơi bờ xa vẫy tay với chú. Nhưng ba cách vẫy mang ba ý nghĩa khác nhau. Tú vẫy tay như giã từ chú; Liên vẫy tay như kêu gọi chú đến với nàng; còn mẹ chú thì như xua tay bảo chú đừng tấp vào bờ. Đang phân vân với ba cách vẫy tay của ba người thì chiếc thuyền con của chú đụng phải đá ngầm, vỡ toang. Chú kinh hãi thức giấc.
Mặt trời đã lên cao. Chú dụi mắt một lúc mới tỉnh trí để nhận biết chú đang ở đâu. Chú tiếp tục ngồi thiền nhưng hình ảnh ba người thân cứ lởn vởn trong tâm chú. Cuối cùng, chú sực nhớ tới thầy. Phải, thầy có linh giác để đoán biết một sự việc bất tường xảy ra cho gia đình chú. Thầy bảo chú về gấp là để nghe những lời cuối cùng của mẹ. Chú ôn lại lời mẹ dặn. "Con là người xuất gia, con đã chọn đúng đường đi của mình." Chú vội vàng đứng dậy. Lạy mộ mẹ ba lạy, từ giã Tú và Liên với giây phút ngậm ngùi rồi lên đường.
*
Tuấn bước vào phương trượng, thấy thầy vẫn ngồi trên bồ đoàn. Không nói một lời, chú sụp lạy thầy. Nước mắt chú rơi xuống nền đất. Lạy xong ba lạy, chú quỳ thưa:
"Bạch thầy, sao con tu tập thiền quán đã gần bảy năm rồi mà vẫn chưa thoát được những đau khổ thường tình của thế nhân?"
"Hãy ra ngoài mà quét sân đi," thầy chỉ nói với chú như vậy.
Chú lại lạy thầy ba lạy rồi lui ra. Vừa đi, chú vừa suy gẫm lời thầy. Có lẽ thầy muốn nói rằng quét sân chưa sạch thì đừng toan tính đến chuyện vào rừng lên non để làm chàng ẩn sĩ.
Chú bước ra sân. Lá hãy còn rụng đầy mà chưa ai quét. Chú nhớ có lần thầy dạy chú rằng hãy xem lá đa rụng ở vườn chùa như là những phiền não tham lam, sân hận, si mê nơi chính vườn tâm mình. Quét lá và rác rưởi cũng chính là quét đi những cấu bẩn của tự tâm: không để cho bất cứ một ngọn lá hay một cọng rác nhỏ nào sót lại thì mới tạo ra được một khu vườn sạch đẹp.
Có một cây chổi nằm trơ dưới đất, bị lá đa phủ lấp đi một nửa. Chú đến nhặt lấy cây chổi, cầm trên tay một lúc để nhớ lại bài nguyện nói về quét sân chùa mà lâu lắm rồi vì không quét sân nên chú không đọc tới. Chú vẫn chưa quên bài nguyện.
Gió thổi qua vườn chùa làm rụng thêm nhiều chiếc lá vàng khô. Chú nhìn cái sân ngập lá mà vẫn thấy tâm mình thanh thản, nhẹ nhàng như được trở lại cái thời thơ ấu mới xuất gia năm xưa. Chú bắt đầu quét lá.
Sep 26, 2007
Chỉ Tiêu Chữ Lẻ
Bà vợ ở trong nhà, nghe mãi sốt ruột, một hôm ngồi ăn cơm, bảo khẽ chồng :
- Ông ạ ! Ông có một dúm chữ làm vốn, vậy mà hễ gặp ai ông cũng vung vãi ra thế, thì còn gì mà làm ăn ?
Ông ta mắng vợ :
- Bà biết gì mà nói ! Chữ của thánh hiền có phải như tiền bạc đâu, cứ tiêu là hết. Với lại, đó là mấy chữ lẻ, còn vốn của tôi thì tôi xếp trong bụng này kia mà ! Tôi chỉ tiêu những chữ lẻ đấy chứ !
Sep 24, 2007
Không công bằng
Bệnh nhân mắc bệnh hoang tưởng than thở với bác sĩ điều trị:
- Tôi chỉ nghĩ tôi là nguyên soái, bộ trưởng quốc phòng, thế mà gia đình bắt tôi đi điều trị. Trong khi họ hàng nhà tôi có tới 4 Napoleon, 5 Kutuzov, gần chục Hitler thì không sao...
2388
Sep 22, 2007
Cả Đời Người
Một ông đi du học ngoại quốc trở về với văn bằng tiến sĩ, nào văn chương, nào sử ký, nào pháp luật, nào kinh tế học, nào xã hội học, nào triết học, ngoài ra có cả phần y khoa bác sĩ và bằng kỹ sư cầu cống nữa. Bởi thế thiên hạ gọi ông là một "Bác học". Nhưng người đời trọng ông bao nhiêu, thì ông lên mặt bấy nhiêu. Thậm chí với ai ông cũng chê là dốt, và ngồi với ai, dù người ấy là người cùng nước ông cũng thao thao xổ ra những tiếng ngoại quốc và những tiếng ngoại quốc...
Bữa nọ, nhà "Bác học" đáng kính phải qua một con sông rộng bằng chiếc thuyền tam bản. Thấy anh lái đò vừa chèo vừa nghêu ngao hát, ông nhổ nước miếng xuống sông đánh phì rồi hỏi:
Anh cũng biết văn nghệ nữa à?
Anh lái đò lễ phép:
Thưa ông tôi chỉ có biết chèo đò, chớ đâu có biết văn nghệ là cái gì?
Nhà bác học nói:
Văn nghệ mà anh không biết thì anh chết nửa đời người rồi. À mà anh có biết tiếng Anh hay tiếng Pháp gì không, có biết chính trị là gì không?
Dạ, không biết!
Thế thì anh chết nửa đời người nữa rồi.
Vậy anh có biết sử ký, pháp luật, kinh tế và khoa học gì không?
Dạ thưa ông, tôi đã nói tôi là dân ngu khu đen, chỉ biết chèo đò kiếm ăn, chớ không biết gì cả...
Không biết thật sao, trời ơi như thế thì anh cũng chết nửa đời người nữa vậy!
Nói đến đây ông định thuyết thêm, nhưng trời bỗng thình lình nổi gió, nước sông cuộn sóng lên ầm ầm, mà thuyền mới lênh đ
Dạ thưa ông biết chèo không ạ?
Nhà bác học la:
Hứ, cái anh này, chèo, tôi đâu có biết!
Anh lái đò vừa chống chỏi với phong ba, vừa cười bảo:
Dạ thì hôm nay ông chết nửa đời người rồi đấy!
Nhà bác học ta lúc đó mới cảm thấy nóng mặt nóng tay, nhưng rồi sóng càng to, thuyền càng bị đánh, bị nước ào ạt tràn vào, biết không thể nào tránh khỏi bị đắm giữa sông sâu, sóng cả, anh lái đò hốt hoảng hỏi:
Chết, chết. Thưa ông, ông biết lội (bơi) không ạ!
Nhà bác học tái xanh mặt mày lại:
Dạ thưa anh, tôi không biết lội, lạy anh, anh cứu tôi, không thì tôi nguy mất!
Anh lái đò nhìn nhà bác học đáp:
Không biết lội nữa à! Chèng đéc ơi, thế thì hôm nay ông chết cả đời người, còn gì?
2759
Những dấu chấm câu
Có một người chẳng may đánh mất dấu phẩy. Anh ta trở nên sợ những câu phức tạp và chỉ tìm những câu đơn giản. Đằng sau những câu đơn giản là những ý nghĩ đơn giản.
Sau đó, không may, anh ta lại làm mất dấu chấm than. Anh bắt đầu nói khe khẽ, đều đều, không ngữ điệu. Anh không cảm thán, không xuýt xoa. Không gì có thể làm anh ta sung sướng, mừng rỡ hay phẫn nộ nữa cả. Đằng sau đó là sụ thờ ơ đối với mọi chuyện.
Kế đó, anh ta đánh mất dấu chấm hỏi và chẳng bao giờ hỏi ai điều gì nữa. Mọi sự kiện xảy ra ở đâu, dù trong vũ trụ hay trên mặt đất hay ngay trong nhà mình mà anh ta không biết, anh ta đánh mất khả năng học hỏi. Đằng sau đó là sự thiếu quan tâm với mọi điều.
Một vài tháng sau, anh ta đánh mất dấu hai chấm. Từ đó anh ta không liệt kê được, không còn giải thích được hành vi của mình nữa. Anh ta đổ lỗi cho tất cả, trừ chính mình.
Cứ mất dần các dấu, cuối cùng anh ta chỉ còn lại dấu ngoặc kép mà thôi. Anh ta không phát biểu được một ý kiến nào của riêng mình nữa, lúc nào cũng chỉ trích dẫn lời của người khác. Thế là anh ta hoàn toàn quên mất cách tư duy.
Cứ như vậy, anh ta đi đến dấu chấm hết.
Thiếu những dấu chấm câu trong một bài văn, có thể bạn chỉ bị điểm thấp vì bài văn của bạn mất ý nghĩa, nhưng mất những dấu chấm câu trong cuộc đời, tuy không ai chấm điểm nhưng cuộc đời bạn cũng mất ý nghĩa như vậy.
Mong bạn hãy giữ gìn những dấu chấm câu của mình, bạn nhé!
Sep 20, 2007
Chiếc cầu nối hai thế giới
Thế giới này cái sản phẩm ngoài ý muốn chẳng rõ của Chúa Trời, của các nhà triết học hay của các văn nghệ sĩ, nói cho công bằng, không phải lúc nào cũng què quặt hay bệnh hoạn . Lão không bao giờ nói thế . Lão thậm chí phản đối điều đó, và nếu cần còn có thể đưa ra nhiều ví dụ để phản bác .
Mụ vợ lão vẫn nói, tiền không quan trọng, quan trọng là số lượng tiền . Lão nói, con số không quan trọng, quan trọng là tính chất của chúng . Ở con người chẳng hạn . Khiếm khuyết nói sau, rõ ràng loài sinh vật này có khá nhiều điểm hợp lý: họ có một đôi mắt, một đôi tay, một đôi chân . Chẳng cần tranh cãi, chỉ cần hình dung những con người có một hoặc ba mắt, một hoặc ba tay !.....
Ở loài vật cũng vậy . Chim có đôi cánh . Mọi con mèo không riêng con Mướp xấu số đều có hai đôi chân . Cua có bốn đôi chân, còn rết thì .... Về rết, thú thật là lão không rành lắm, nhưng như lão đã nói, con số không phải là điều quan trọng .
Quan trọng là tính chất của nó . "Đôi ta như đũa có đôi" - Bà ngoại lão hồi trước vẫn thường hát như vậy . Bà bảo chim muông cũng chẳng khác con người . Những người già nói gì cũng đúng, có lẽ vì họ ít ngủ, ít ngủ nên nghĩ nhiều, nghĩ nhiều thì chín . Nhưng cũng có thể đơn giản vì người già thì không còn có thể nói theo ý người đương thời được nữa .
Lão nảy ra ý nghĩ ấy trong những đêm lênh đênh trên sông nước và đã mất ngủ rất nhiều . Không ai hiểu dòng sông hơn những người thuỷ thủ . Về dòng sông, lão nói, dòng sông cũng là một điều hợp lý . Hãy thử tưởng tượng, dòng sông chỉ có một bờ!....
****************************
"Dù sao thì trái đất cũng lỡ quay rồi" - Tibet Léo Newman chỉ là một thằng điên không hơn không kém, nhưng trong trường hợp này thì ông ta có lý .
Trái đất đã lỡ quay này hoàn toàn không thể coi là hoàn thiện .
Chứ không ư ? Thử hỏi tại sao lại cứ phải có lúc mưa lúc nắng, rồi lại núi lửa, bão lụt, rồi thì còn cả El Nĩno với Đại hồng thuỷ ? Thử hỏi, những sinh vật đáng yêu như con Mướp, với đôi chân mềm, đôi mắt ướt và tiếng kêu mượt như nhung, lại phải chết ?
Mụ vợ lão không bao giờ có thể hiểu được điều đó, cả trước và sau khi mụ bổ con dao rựa oan nghiệt vào cái đốm trắng trên trán con Mướp . Lúc đó lão đang cúi rạp người cạnh đó, đang nghĩ về những dòng sông .
"Con người là sinh vật hoàn thiện nhất, một kiệt tác của Tạo Hoá" - Mụ lải nhải như thế, giọng của mấy gã giáo sư đại học nửa mùa chuyên phân loại gà Tây, gà Ta, gà Đông Cảo, gà Lơ Go và gà mái .
Hoàn thiện ? Thử hỏi có giống nào giết nhau nhiều hơn giống người ? Có giống nào ngu xuẩn đến mức tưởng rằng hạnh phúc là những khối sắt thở hồng hộc, hay những trại giam lỏng bằng bê tông cốt thép ?
Và chẳng cần xa xôi, cứ lấy ngay cái thân thể hoàn thiện của mụ ra mà xét . Tại sao cái khoản ấy phải "chành ra ba góc" mà không phải là đôi góc ? Và tại sao cái ấy chỉ có một mà không thể có được đủ đôi, như đôi tay đôi mắt chẳng hạn ?
****************************
Gần chục năm rồi mụ ta sống ở tầng dưới, trong cái thế giới hoàn mỹ đã ố vàng và sứt mẻ của mụ . Lão không hề đuổi mụ, và chắc chắn có đuổi thì cũng không thể đuổi được . Thực chất thì chính là cái chết của con Mướp, hoặc đúng hơn hồn ma của nó, đã làm điều đó . Mụ chạy xuống cầu thang, cái cầu thang què quặt, chạy xuống để rồi không bao giờ chạy lên nữa . Lão nghe tiếng mụ hét: "Trời ơi oan nghiệt, tôi nhầm, đáng lẽ tôi phải chém vào củ chuối ."
Củ chuối dĩ nhiên là cái đầu lão .
Thế giới của lão ở lại tầng hai, dĩ nhiên cũng ố vàng và sứt mẻ như thế giới của mụ . Nhưng bản chất vấn đề thì khác hẳn . Tibet Léo Newman nói rằng cái khác của thế giới là do cái khác của những cách thức chúng ta cảm nhận thế giới, là do cái khác của những cách thức chúng ta cảm nhận thế giới mà ra . Mụ vợ lão tưởng rằng thế giới của mụ là hoàn thiện, còn lão, lão biết rằng cả thế giới của mụ lẫn lão đều méo mó .
Hai thế giới nối với nhau, nhưng thực chất là cách nhau bởi chiếc cầu thang què quặt lão vừa nói ở trên . Què quặt là do điều đó không đơn thuần vì nó không có lan can, vôi vữa tróc lở, mà vì bản chất của nó là què quặt . Lão biết rõ điều đó . Đã gần ba ngàn sáu trăm ngày, mỗi ngày đôi bận lão xuống rồi lên những bật thang xây bằng gạch non lõm xuống như lòng thuyền . Mùa mưa nước đọng đầy những lòng thuyền và lão thấy khuôn mặt nhăn nheo của mình lẫn giữa bồng bềnh mây trắng .
Có tất cả mười đôi rưỡi khuôn mặt nhăn nheo như thế . Ngày nào lão cũng đếm và ngày nào lão cũng nhận được những con số không đổi ấy . (Lão tin chắc rằng không phải ai cũng biết cầu thang nhà mình có bao nhiêu bậc .)
Tại sao lại là mười ba đôi rưỡi ? Tại sao không phải là mười hay mười một đôi ? Đó rõ ràng là một ví dụ khác về sự què quặt .
Liệu có khi nào sự què quặt ấy thay đổi được không ? Nếu có, thế giới này sẽ bớt què quặt đi một chút, cũng tức là hoàn thiện hơn một chút . Điều đó có nghĩa là đến một ngày nào đó sẽ có một đôi mặt trời, một đôi mặt trăng, và biết đâu có cả một đôi cái thằng là lão này nữa .
Dù sao cũng là người biết chờ đợi, lão nói bởi lão đã từng là thuỷ thủ . Muốn biết chờ đợi phải biết phán đoán . Rất nhiều người nói rằng biển chỉ có một đôi bờ . Lão nói với họ: Cứ đi rồi biết, nhưng chẳng có ai đi cả, vì thế chẳng ai biết rằng biển cả cũng chỉ là một dòng sông lớn, cũng phải có hai bờ . Vấn đề là phải biết chờ cho đến khi tàu cập bến .
Lão chợt nhớ đến chuyện đếm trứng của Enten . Gã dở hơi, chỉ biết đếm đôi, có một đôi gà mái đẻ và hàng ngày ra đếm trứng . Nếu số trứng chẵn gã hài lòng . Nếu lẻ gã cho rằng bị mất trộm và suốt ngày chửi tên trộm vô hình . Hôm sau số trứng lại chẵn, gã cười khà khà: Tên vô lại không chịu đựng nổi những lời độc địa đã phải đem trứng trả lại .
Dân phố huyện, nghe lão kể chuyện này, chắc chắn chẳng có ai rút ra bài học nào bổ ích . Họ phá lên cười . Lão hỏi họ: "Các ông có bao giờ nghe nói đến đường xoáy chôn ốc của Gót không ?" Họ càng cười . Chắc họ cho rằng lão cũng dở ngươi như gã đếm trứng trong truyện của Enten .
Dĩ nhiên lão chẳng phí công tranh luận với họ, vì có tranh luận cũng vô ích mà thôi . Tàu có đi thì mới tới bến, còn họ, không đi thì sẽ chẳng bao giờ biết rằng biển cũng có đôi bờ .
Không tranh luận nhưng lão chờ đợi . Chỉ những người nắm được quy luật mới biết chờ đợi . Lão đã nói ngay từ đầu, con số không quan trọng, quan trọng là tính chất của nó . Chuyện chẵn lẻ cần phải được hiểu như một thứ biểu tượng: Cái tốt và cái xấu, cái hoàn thiện và cái què quặt không ngừng thay đổi nhau, dường như phủ nhận nhau, nhưng lại kế tục nhau . Số trứng tăng lên, sự vật cũng cao dần như thế .
****************************
Nhưng thế nào là tốt, thế nào là xấu ? Trong chuyện đếm trứng hoặc đếm bậc cầu thang, câu trả lời không khó lắm, tuy nhiên có những trường hợp khác phức tạp hơn nhiều .
Từ trên cao lão nhìn thấy mụ vợ mang chiếc gầu tôn rúm ró đi ra . Cái giếng ngày xưa hai đứa cùng đào, sau khi trồng một vườn mít, nay là cái duy nhất chung của hai thế giới . Vườn mít sum sê đến mức từ trên cao lão không nhìn thấy cái giếng . Nhưng lão vẫn thấy mụ vợ lão thấp thoáng, liêu xiêu cũng mỏng manh như một chiếc lá . Mụ đã thấp xuống, đã teo đi, có lẽ chỉ còn một nửa . Nhìn mụ chính lão cũng phải băn khoăn: Liệu hai thế giới có tốt hơn một thế giới không ?
Liệu hai thế giới có tốt hơn một thế giới không ?
Lão nhìn mụ, nhìn mãi, nhìn mãi, và, thật kinh ngạc, trước mặt lão mụ teo nhỏ hẳn, biến thành một trong vô số những chiếc lá xanh vàng lẫn lộn vung vãi trên sân.245
Sep 18, 2007
Việc gì phải sợ?
Cô giáo hỏi học sinh:
- Bob, em hãy nói xem ai đã viết bản tuyên ngôn độc lập?
- Em xin thề là không biết.
- Câu trả lời của em còn tồi hơn là không biết. Em hãy mời bố mẹ đến gặp cô! Ngày hôm sau, cha của Bob đến ngồi ở phía cuối lớp, chờ gặp cô giáo. Để minh họa cho ông bố thấy sự kém cỏi của cậu bé, cô giáo hỏi lại:
- Bob, cô hỏi em một lần nữa. Ai đã viết bản tuyên ngôn độc lập?
- Xin cô đừng nghi oan cho em, em không biết đâu ạ! Ông bố nhảy ra khỏi chỗ và chỉ tay vào thằng bé và nói:
- Bob, nếu con viết cái đồ chết tiệt đó thì sợ quái gì mà không dám nhận!
2259
Thư gửi bạn
Đây là câu đầu tiên tao gửi cho mày. Kế đến, tao sẽ viết cho mày câu thứ hai. Câu này nữa đã là câu thứ ba rồi đó. Tèo à, mày có biết câu mày đang đọc đã là câu thứ tư rồi không? Vậy mà tao vẫn không thể bắt đầu câu chuyện ở câu thứ năm này.
Tao hy vọng sẽ nói được điều muốn nói với mày ở câu thứ sáu, nhưng sao thấy khó mở lời quá, hẹn mày ở câu thứ bảy nha. Mà thôi, đợi thư xuống dòng, tao sẽ tâm sự với mày được nhiều hơn.
Tèo ơi! Mày có biết giờ đã là câu thứ mấy rồi không? Tao học dốt quá nên không thể đếm nhiều được. Nếu tao không nhầm thì đã là câu thứ mười rồi.
Mày biết không, khi tao chấm hết câu này cũng là lúc tao chuyển sang câu thứ mười bốn rồi đó. Tao dự định sẽ nói toạc móng heo ra đây, nhưng cứ sợ mày không đủ bình tĩnh, nên tao đành để nó ở câu sau nữa. Tèo à! Mày có đang nghe tao nói đó không? Điều tao muốn nói với mày là hãy kiên nhẫn đọc câu kế tiếp. Và nếu mày tin tao, hãy đọc thêm câu này nữa. Tao không muốn làm mất thời gian của mày thêm, nên tao sẽ cho mày biết ngay bây giờ. Tèo à, tao muốn nói là… là… mày hãy đọc lại lá thư này, Tèo nhá!
1387
Bóng đêm
Bóng đêm
1. Các báo thành phố đồng loạt đưa tin: 22 giờ đêm qua, tại vũ trường “Không Có Đêm” ở trung tâm thành phố xảy ra vụ cháy lớn… Số thương vong chưa được thông báo cụ thể…
Trong số các nạn nhân được chuyển đến trung tâm cấp cứu thành phố có hai chị em, theo giấy tờ còn sót lại tên Bích Hồng, Thúy Ngọc, song do bị bỏng nặng và hôn mê nên chưa rõ ai là chị, là em…
Ở hai nơi khác, có hai người con trai, sau hai ngày mới đọc được các dòng tin trên và họ cùng quay trở lại thành phố. Lao vào bệnh viện gần như cùng lúc.
Hai người thất thần nhìn vào phòng cấp cứu đặc biệt qua tấm cửa kính - Chỉ là hai hình nhân băng kín mít, cứng đờ, trắng toát, trên đầu, trên người chằng chịt những dây, ống, chai, lọ, máy móc…
Bác sĩ cho biết, một trong hai cô bị chấn thương sọ não ngoài các vết bỏng sâu, khó qua khỏi, người kia có hy vọng qua cơn nguy hiểm, nhưng các di chứng do bỏng lửa thì… phải đợi sau này mới biết, rồi ông lắc đầu ngậm ngùi: “Họ còn trẻ quá, mới 20-21 tuổi”.
Hai người con trai buồn bã nhìn nhau, họ bắt tay và cùng chia sẻ: Nguyên, bạn trai của Hồng, Quang người yêu của Ngọc.
2. Hồng và Ngọc là hai chị em ruột được sinh ra trong một gia đình giàu có. Cha là nhà doanh nghiệp nổi tiếng thành đạt về ngành điện - điện tử. Mẹ của hai chị em nổi tiếng hoa khôi của thành phố, nhỏ hơn cha họ một nửa số tuổi.
Đám cưới cha mẹ họ ngày ấy là sự kiện gây không ít tai tiếng. Sau ngày cưới ít lâu, Hồng ra đời và Ngọc cũng được sinh ra liền năm sau. Khi Ngọc tròn tháng, mẹ hai chị em qua đời.
Người cha buồn phiền, ngoài công việc là chìm đắm trong những chai rượu hoặc nhốt mình ở trong phòng ngủ, có lúc ông đi nước ngoài liên tục, chẳng ngó ngàng gì đến hai cô con gái, mọi việc ông phó mặc cho người vú.
Hồng và Ngọc cứ thế lớn lên bằng tiền bạc giàu sang của người cha, quen với sự chiều chuộng của người làm trong nhà và tự do làm những gì theo ý thích.
Không chênh nhau nhiều, Hồng - Ngọc như hai chị em sinh đôi, đi đâu cũng có nhau, cùng học chung trường chung lớp, nhưng càng lớn, hai người càng khác nhau, như thể họ không phải là chị em ruột sống chung mái nhà.
Tất cả những nét đẹp của cha và mẹ hình như dồn hết sang Hồng, Hồng đẹp mê hồn từ ánh mắt, đôi môi, sống mũi đến dáng người thon thả. Còn Ngọc, bước qua tuổi dậy thì vẫn cứ gầy gò, gương mặt thô cứng.
Tính tình hai người trái nhau như mặt trời, mặt trăng. Ngọc không đẹp song có duyên ngầm, đằm thắm, dịu dàng, giản dị, thông minh, khá sâu sắc, chăm chỉ, với người làm trong nhà thân thiện tử tế, thường giúp đỡ họ.
Ngược lại, Hồng lười biếng, vô tâm vô lo, chỉ thích mua sắm, ăn diện, đam mê các thú vui thời thượng ở vũ trường, nhà hàng, cô là nỗi khiếp sợ của người nhà mỗi khi trái ý.
Nhưng rất lạ, Hồng - Ngọc lại gắn bó thương yêu nhau, tình cảm của họ như có một sợi dây vô hình huyền bí buộc vào. Hồng đau, thì tự dưng ít phút sau Ngọc cũng đau y hệt vậy.
Ngọc ăn gì đó hơi mặn, thì Hồng cảm thấy khát khô họng. Giữa họ còn có mối giao cảm kỳ lạ, có thể truyền đạt ý nghĩ cho nhau, giống như hai người là một thể thống nhất, đây cũng là bí mật riêng của hai chị em.
Chữ viết hai người giống nhau như từ một người viết ra. Khi Hồng lên trả bài, ở dưới Ngọc thầm đọc và Hồng hoàn thành cuộc khảo sát dù chẳng học chữ nào.
Đã có lần thi, hội đồng giám khảo thật sự bối rối với hai bài thi giống nhau như bản copy, nhưng của hai thí sinh ở hai phòng thi khác nhau, cách xa nhau: Hồng - Ngọc, Ngọc không đi chơi, song khi đón Hồng về, Ngọc có thể trêu chọc chị những gì xảy ra của đêm vui như thể Ngọc có mặt ở đó với Hồng.
Trò chơi hai chị em hay đua tài là ký chữ ký của nhau, Hồng ký tên Ngọc, Ngọc ký tên Hồng, ai giống hơn thì thắng… Người này đi đâu, người kia ngóng đợi. Ngỡ rằng cuộc đời này khó có gì tách rời được họ…
Nhưng cha họ, ông đối xử với hai chị em bằng hai tình cảm trái nhau đến khó hiểu cả với người nhà và bản thân Hồng - Ngọc.
Với Hồng, ông yêu chiều như vàng như ngọc, không bao giờ nặng lời, dù Hồng nhiều khi tỏ ra ương bướng, hỗn xược, ngang ngược, gây phiền hà cho ông.
Có lần ông đã đuổi một người làm chỉ vì Hồng không thích người đó. Ông vui vẻ chi trả các khoản tiền lớn cho Hồng thỏa sức mua sắm ăn chơi cùng bạn bè.
Có khi cao hứng, hay trong các cuộc gặp gỡ bạn bè, ông hãnh diện khoe: “Mai mốt tôi giao hết tài sản cho con gái cưng của tôi cai quản”.
Còn Ngọc, hình như ông ghét cô. Có lẽ vì Ngọc không phải là con trai như ông hy vọng, lại thêm do sinh cô mà mẹ cô mất sớm, làm ông hụt hẫng tắt đi giấc mơ có người nối dõi. Ông khắc nghiệt từng tí một với Ngọc.
Ông hay đem những lỗi lầm của Ngọc bêu riếu trước mặt mọi người, khó chịu với những nét thô vụng của Ngọc: “Nhà ta đâu có thứ con gái xấu xí vậy”.
Không việc gì Ngọc làm mà ông hài lòng: “Có ai vụng về đến thế không?”. Ngọc xin ông tiền, ông la mắng từ chối: “Phải biết tiết kiệm, muốn tiêu xài tự làm ra, đừng tập thói tiêu hoang xài phí”.
Một lần say rượu, Ngọc dìu ông lên phòng nghỉ, ông xô Ngọc ra, rồi hét “Không phải con ta…”. Đêm đó, Ngọc mất ngủ. Lần đầu tiên Ngọc tự hỏi.
Tại sao ông lại bất công với cô, hay cô không phải con ông? Ngọc trở nên kín đáo, trầm lặng… Một ngọn lửa ngầm nhen nhúm đang bừng lên trong Ngọc.
Năm Hồng 19 tuổi, người cha qua đời sau cơn bệnh. Trước đó, ông đã kịp làm di chúc để lại. Người luật sư của ông và gia đình theo ủy nhiệm đã đọc thư ông gửi và mở cuộn băng ghi âm những lời dặn dò cuối cùng của ông: “Di chúc sẽ được mở khi Hồng trên 24 tuổi. Hiện tại, Hồng sẽ đứng tên một tài khoản trong ngân hàng, cũng như thay mặt ông quản lý công việc kinh doanh cùng các giấy tờ giao dịch khác với bạn hàng”.
Hồng hờ hững nhận xấp giấy tờ, chìa khóa và vài thứ linh tinh khác do luật sư đưa. Còn Ngọc, cô không nói, một thoáng bóng đêm lướt qua mắt cô, song bản tính kín đáo trầm lặng nên không ai đọc được gì trên nét mặt cô.
3. Bệnh viện và các bác sĩ đã làm hết những khả năng có thể, nhưng một trong hai chị em đã không qua khỏi. Người còn lại chưa tỉnh. Do vết thương bỏng quá trầm trọng nên không thể biết người còn sống là Hồng hay Ngọc. Luật sư của gia đình đề nghị chờ người kia tỉnh lại. Một tuần lễ trôi qua trong hồi hộp của mọi người, cô gái đã tỉnh dậy.
- Cô tên gì?
- Tôi… Tôi… Em Ngọc đâu?
Cô gái lại rơi vào một cơn hôn mê ngắn.
Ông luật sư nhíu mày. Nguyên mỉm cười. Quang nhắm mắt một phút rồi đi ra ngoài miệng lẩm bẩm: “Không thể… là em”. Những người thuộc cơ quan luật pháp và bác sĩ vội vàng ghi chép.
Ngày hôm sau, đám tang Thúy Ngọc được tiến hành trong sự tiếc thương của gia đình và bạn bè. Hồng đã tỉnh, được thông báo. Qua ánh mắt ló dưới lớp băng, có dòng nước mắt và khoảnh khắc vô hồn.
Hồng khỏe lại, nhưng không ai dám cho Hồng soi gương. Gương mặt cô bị biến dạng khủng khiếp bởi các vết sẹo lồi lõm, thân hình chỉ còn da bọc xương, chi chít vết sẹo bỏng loang lổ chỗ trắng chỗ đen.
Dựa theo các tấm ảnh chân dung của Hồng, nhờ những bàn tay khéo léo và tiến bộ y học của các bác sĩ và nhờ vào khả năng tài chính gia đình, sau gần một năm, trải qua hàng chục cuộc phẫu thuật cấy, ghép, chắp, vá, sửa chữa, Hồng đã trở lại nguyên vẹn vẻ đẹp mê hồn trên gương mặt và thân hình xinh đẹp ngày trước. Chỉ còn hai tháng nữa là sinh nhật 24 tuổi của Hồng. Cô mỉm cười chào tất cả mọi người.
Ngày đầu tiên trở về nhà sau một năm vật lộn với sống còn của tai nạn. Hồng đứng chôn chân trước di ảnh của Ngọc. Có một lúc Hồng như bị mộng du, miệng lắp bắp: “là ta… là ta…”, bóng đêm trùm lên người Hồng. Cô ngã ra bất tỉnh… ảnh Ngọc trên bàn thờ câm nín lạnh lẽo.
Có một sự thay đổi trong Hồng. Hồng trầm lặng, ít nói cười như trước kia, dịu dàng lễ phép với mọi người. Hồng cho thay lại toàn bộ tủ áo quần của mình dù nó vẫn rất mốt, hợp thời trang, cô dặn người may những bộ đồ có màu nhẹ, kín đáo.
Mỗi khi tiếp xúc với khách cô thận trọng rất ít lời và mỗi khi buông bút ký giấy tờ, cô thường im lặng vài phút rồi mới ký. Mọi người cho rằng, sau tai nạn khủng khiếp kia, Hồng đổi tính.
Hơn nữa Hồng mất mát quá lớn, mẹ, cha, em lần lượt ra đi vĩnh viễn. Phần khác, bây giờ Hồng là người thừa kế duy nhất của gia đình, mang vai trò quản lý công việc kinh doanh của người cha…
Nên Hồng phải giữ vị trí cô chủ đầy quyền uy và giàu có. Duy có ba người, mỗi lần gặp Hồng, họ cứ gờn gợn một cái gì đó không thật, nhưng không thể rõ nó là điều gì. Họ lặng lẽ, bí mật quan sát, theo đuổi những ý nghĩ riêng mình.
Ông luật sư luôn nhíu mày khi cầm xem các giấy tờ Hồng ký tên. Ông không thấy gì lạ, vẫn là chữ ký như từ trước tới giờ, nhưng sao ông có cảm giác bất an, hình như nó thiếu thiếu, không phải.
Thậm chí có lần ông đem cả kính lúp ra soi từng nét, chẳng phát hiện được gì. Chữ ký Bích Hồng có hình dáng như bông hoa rất toàn vẹn.
Thời hạn mở di chúc càng tới gần, trong lòng ông càng bất an, gần nửa đời làm luật sư gắn bó với gia đình Hồng – Ngọc cũng bằng thời gian đó, linh cảm mách bảo ông có một âm mưu rất tinh vi, song ông không làm rõ được. Ông bất lực, lo âu cái âm mưu đó đang dần đến, sự ủy nhiệm tin tưởng của người bạn đã khuất, ông không làm tròn. Ông thấp thỏm lo nghĩ bạc cả tóc.
Nguyên là con trai cưng của một gia đình quyền lực ở thành phố. Học giỏi và yêu cái đẹp toàn mỹ. Quen Hồng trong cuộc vui sinh nhật bạn. Nguyên yêu Hồng vì Hồng đẹp và vì cả sự kiêu hãnh của một chàng trai chinh phục, chiếm làm của riêng người đẹp nổi tiếng của giới thượng lưu thành phố.
Phần nữa Hồng cũng sống hết mình trong tình yêu với Nguyên. Họ cũng đã tính toán vài dự định trong tương lai nhưng chưa rõ ràng. Khi Hồng gặp tai nạn, Nguyên mừng vì Hồng còn sống, nhưng khi nhìn Hồng dị dạng bởi các vết bỏng, Nguyên thở dài tiếc cho một sắc đẹp bị tàn phá. Nguyên từ từ ít đến thăm Hồng lấy cớ bận việc.
Một năm sau, Hồng trở về, đẹp hơn cả ngày trước, Nguyên hối hận về cách hành xử của mình, anh gặp Hồng thường xuyên, giúp Hồng điều hành công việc chiều chuộng những sở thích của Hồng, anh muốn chuộc lỗi.
Song Nguyên khó hiểu, tình cảm của Hồng với anh không nồng nàn đắm say như trước, mà Hồng cứ lành lạnh, thờ ơ, miễn cưỡng, có khi cáu bẳn với Nguyên nếu Nguyên tỏ ý thân mật quá trớn tí xíu.
Có lần Hồng xô Nguyên và giận dữ khi Nguyên hôn Hồng. Ban đầu Nguyên nghĩ Hồng giận về thời gian Hồng gặp tai nạn, Nguyên ít chăm sóc quan tâm, nên càng cố tình chăm chút Hồng.
Đến một lần, gần kề ngày sinh nhật Hồng, anh đến nhà với ý định dò ý cô thích gì anh mua tặng, Hồng tiếp anh trong chiếc váy ngắn hở cổ hơi sâu, anh buột miệng đùa: “Dấu son trên ngực em đâu cho anh ngắm”.
Hồng đang vui, bất chợt mặt trắng bệch, chạy vội vào phòng trong rồi cáo mệt, đuổi Nguyên về. Nguyên ghim câu hỏi trong đầu: “Hồng ơi… Có phải là em không?”.
Quang hy vọng nhìn vào đôi mắt của hình nhân băng bó trắng toát đang nhìn đăm đắm vào mình, nhưng lúc nghe “Em Ngọc đâu?”. Anh thất vọng, đau đớn.
Là một chuyên viên thiết kế ý tưởng quảng cáo, tài năng, Quang yêu Ngọc không phải vì cô là con nhà giàu, anh thấy ở cô sự giản dị, siêng năng, thông minh, có ý chí và nghị lực, không ỷ thế nhà giàu để kiêu kỳ.
Anh hạnh phúc được Ngọc đáp lại tình yêu của anh trong sự tôn trọng, mến mộ tài năng và thấy được ở anh sự che chở cứng cáp. Họ đã hứa hẹn, có dự định tương lai, sẽ cưới nhau khi Ngọc tốt nghiệp đại học, Ngọc sẽ về ở với anh trong căn nhà do chính bàn tay anh tạo dựng.
Họ đã có thật nhiều kỷ niệm sâu sắc. Mất Ngọc, Quang mất nửa trái tim. Một năm trôi qua, Ngọc vẫn in sâu trong anh kể cả giấc mơ, anh vẫn chưa quen Ngọc ra đi vĩnh viễn.
Hôm giỗ đầu Ngọc, đến nhà gặp Hồng, anh thoáng rùng mình khi nhìn vào mắt cô, một cái nhìn quen thuộc, thân thiết kỳ lạ đối với anh. Ánh mắt của Ngọc. Và cũng như khoảnh khắc của giấc mơ, Hồng quay nhanh hướng khác và vội bước đi, để lại Quang lúng túng, thẫn thờ. Từ hôm ấy, anh âm thầm dõi theo Hồng. Anh càng thấy ở Hồng những gì quen thuộc.
Có lần anh suýt nghẹn thở khi thấy Hồng mặc áo xanh ngọc, màu ưa thích của Ngọc, đi vào nhà sách Ngọc thường tới mỗi chiều tan học, anh tiến lại gần định chào Hồng, thình lình Hồng quay lại nhìn anh, mặt tái mét, gấp gáp chạy đi như trốn tránh.
Một đêm, Quang uống chưa say, anh cố tình đổ lên người cả chai rượu và
đến gõ cửa nhà Hồng, anh lảm nhảm kêu tên Ngọc, ôm lấy Hồng và kể lể những kỷ niệm của Ngọc-Quang, rồi bất chợt anh giữ chặt lấy Hồng: “Em là Ngọc phải không?”.
Hồng giãy giụa, nhưng Quang không buông tha “Nói đi, em là Ngọc phải không?”
Hồng run bần bật, xám xanh mặt mày, và rồi như không còn đường nào thoát, cô lả đi trong tay Quang: “Tha lỗi cho em… Em yêu anh… Em không thể… Vâng… là Ngọc của anh… Nhưng… muộn rồi… Em không thể quay lại… Tha lỗi cho em… Quang ơi… Thương em… Tha lỗi cho em…”.
Quang tê tái, đau khổ. Mọi thứ như sụp đổ trong anh. Ôi, thà đừng biết sự thật, để Ngọc là viên ngọc của anh.
4. Không ai có thể hiểu Ngọc, kể cả Hồng. Trong cô đã nuôi ý chí phải đạt được những gì mình muốn. Cô thèm muốn vẻ xinh đẹp của Hồng. Cô thèm muốn được nhiều người ái mộ như Hồng.
Cô căm thù người chị của cô đã lấy đi những tốt đẹp nhất mà đáng lý cô phải được hưởng như Hồng. Cô ghen tức với Hồng khi chị cô được chiều chuộng, yêu quý.
Mỗi khi bị cha mắng hay từ chối điều gì trong cô lại bừng lên nỗi giận người chị, chỉ muốn trả thù. Ngày cha cô mất, Hồng được trao mọi quyền hành và tiền bạc, Ngọc đã đốt lên ngọn lửa, sẽ giành vị trí đó bất kể giá nào.
Nấp dưới vẻ hiền thục của cô là một ý chí mãnh liệt của một người điên cuồng vì tiền bạc và quyền uy. Nấp dưới sự trầm tĩnh, phẳng lặng của cô là ngọn lửa tham vọng, ganh ghét dữ dội với hy vọng được như người chị.
Cô âm thầm theo đuổi mục tiêu của mình một cách khôn khéo đến nỗi ai cũng nghĩ là rất bình thường. Vâng, không phải cô bày ra trò chơi ký chữ, không phải cô năn nỉ chị cô đừng cho ai biết họ có thể truyền ý nghĩ cho nhau… như là trò trẻ con.
Nó là khởi đầu cho mục đích cô muốn thực hiện, chỉ còn chờ đợi. Cái đêm Hồng đi nhảy ở vũ trường “Không Có Đêm”, Ngọc bồn chồn, cô linh cảm thời cơ đã đến, linh cảm một con quỷ trong cô thật chính xác. Cô vào phòng Hồng, lấy áo của Hồng mặc, trang điểm giống Hồng.
Khi cô vào được bên trong, lên sàn nhảy, nắm được tay Hồng, thì cũng đúng lúc cô nghe tiếng hét “cháy”. Đèn tắt, bóng tối tràn ngập, tiếng la tràn ngập, cô bị xô ngã sấp xuống, một luồng gió bỏng rát liếm lấy cô, cô bất tỉnh, bên tai còn nghe văng vẳng tiếng Hồng gào thét: “Em Ngọc đâu! Em Ngọc đâu!”.
Rồi cô thấy mình trôi đi, có ai đó ôm lấy cô, cố sức đẩy cô đi. Cuối cùng cô chìm vào miên man bóng đêm dày đặc với giọng thét gọi của Hồng “Em Ngọc đâu!”.
Khi tỉnh dậy, tiềm thức mách bảo, hay linh cảm của quỷ cho cô cơ hội có một không hai, cô đã kêu lên: “Em Ngọc đâu!”. Và tất cả mọi người dựa vào đó, đã cho cô là Hồng, tai nạn che đậy cho việc soán ngôi đầy thuyết phục bằng các cuộc phẫu thuật thẩm mỹ.
Cô đã có tất cả - Sắc đẹp và tiền bạc, giàu sang. Nhưng, đêm đ
êm cô mất ngủ, cô sợ giấc ngủ vì cứ nhắm mắt thì Hồng lại hiện lên, người chị của cô nổi tiếng quậy phá, ăn chơi ở ngoài, song hết mực yêu thương cô, cô thấy chị Hồng khóc khi cô ngã té chảy máu chân, cô bị cha la mắng, Hồng đến vỗ về, cô đi đâu về muộn, Hồng ra vào ngóng cửa không đợi người nhà mở cho Ngọc vào, cô ốm, chị cô tự tay nấu cháo cô ăn.
Tới phút cuối trong hỗn loạn, Hồng vẫn nghĩ đến cô. Một chút sự hối hận cứ le lói, nhưng rồi ngọn lửa tham vọng kia lại lấn át, cô vật vã đêm này sang đ
êm khác.
Ban ngày, với cô cũng là một địa ngục. Trong tâm thức, cô là Ngọc. Cô hiểu điều đó nên rất sợ khi gặp Nguyên – Quang và ông luật sư. Ông luật sư không thể thấy được chữ ký giả mạo bởi nó hoàn hảo, nhưng linh cảm nghề nghiệp và kinh nghiệm đã mách bảo ông một sự dối trá.
Nguyên, hơi thực dụng, nên cảm giác hụt hẫng trong cách cư xử của cô đã làm Nguyên nghi ngờ về một con người khác – Vì cô là Ngọc, cô không phải là Hồng, yêu Nguyên.
Còn Quang, tình yêu giữa hai người là có thật và sâu đậm, dù biết cô đã chết, song kỷ niệm quá sâu sắc nên Quang vẫn nghĩ là cô đang hiện diện. Và cô là Ngọc, cô không thể giấu Quang, bởi chính cô yêu Quang. Cô chỉ có thể là Hồng trước mắt mọi người.
Ngọc không còn đường nào. Cô đã thổi bùng ngọn lửa trong cô, bây giờ có muốn dập tắt cũng không thể. Tất cả những dự định của cô đã đến ngày kết quả, cô không muốn buông, cô nghĩ cô sẽ lấy được hết những mất mát và cô còn được nhiều hơn thế nữa.
5. Sinh nhật 24 của Hồng. Ông luật sư mời tất cả mọi người làm chứng theo đúng luật pháp, mời bè bạn thân hữu của gia đình đến dự buổi sinh nhật và mở di chúc.
Quang – Nguyên cũng được mời với tư cách bạn bè thân thiết của gia đình. Hồng – phải là Ngọc mới đúng, đẹp hơn bao giờ hết.
Lộng lẫy, rạng rỡ trong bộ váy áo màu đá Rubi, đứng cạnh ông luật sư, bên chiếc bàn dài bày biện ly cốc chén đũa sang trọng, chiếc bánh sinh nhật mang hình viên hồng ngọc cắm 24 ngọn đèn cầy hồng để gần lọ hoa to với 24 bông hồng nhưng tuyệt đẹp. Chỉ còn chờ…
Với Ngọc, tất cả chỉ là thủ tục, mọi việc diễn tiến thật hoàn hảo, không có kẽ hở nào. Cô đưa mắt nhìn Quang thầm nói: “Anh sẽ không phản bội em phải không? Chúng mình rồi sẽ được bên nhau. Em yêu anh và anh yêu em”.
Còn Nguyên, anh đến chỉ vì muốn thỏa chút tò mò, xem Hồng, dưới con mắt anh Ngọc là Hồng, sẽ thừa hưởng khoản tài sản khổng lồ đó là bao nhiêu. Trong anh, tình yêu đã nguội lạnh, anh không có ý nghĩ sẽ gắn bó với Hồng. Hồng bây giờ khác với Hồng ngày trước.
Ông luật sư đưa tay ra dấu, rồi lấy trong cặp ra một phong bì lớn còn nguyên dấu niêm và chữ ký của cha Hồng – Ngọc, mở niêm, ông rút tờ giấy, chậm rãi, rành rọt đọc:
Bích Hồng là con ngoại hôn. Những gì tôi cho cô ta đến lúc này là quá đủ. Tôi để lại toàn bộ tài sản bao gồm cả bất động sản cho con gái ruột của tôi là Thúy Ngọc.
Nếu trường hợp Thúy Ngọc từ chối không nhận thừa kế, hoặc bị chết, thì số tài sản trên được chuyển cho quỹ từ thiện trẻ em khuyết tật thành phố…”.
Thời gian dừng lại, lặng ngắt, chợt vỡ vụn bởi tiếng thét đầy bi phẫn và tuyệt vọng: Không! Không thể!
Bích Hồng, nói lại cho chính xác, Thúy Ngọc như lên cơn cuồng nộ lao ra khỏi phòng. Bóng đêm nuốt chửng lấy cô…
Tác Giả: Hoài Hương
Bóng đêm
1. Các báo thành phố đồng loạt đưa tin: 22 giờ đêm qua, tại vũ trường “Không Có Đêm” ở trung tâm thành phố xảy ra vụ cháy lớn… Số thương vong chưa được thông báo cụ thể…
Trong số các nạn nhân được chuyển đến trung tâm cấp cứu thành phố có hai chị em, theo giấy tờ còn sót lại tên Bích Hồng, Thúy Ngọc, song do bị bỏng nặng và hôn mê nên chưa rõ ai là chị, là em…
Ở hai nơi khác, có hai người con trai, sau hai ngày mới đọc được các dòng tin trên và họ cùng quay trở lại thành phố. Lao vào bệnh viện gần như cùng lúc.
Hai người thất thần nhìn vào phòng cấp cứu đặc biệt qua tấm cửa kính - Chỉ là hai hình nhân băng kín mít, cứng đờ, trắng toát, trên đầu, trên người chằng chịt những dây, ống, chai, lọ, máy móc…
Bác sĩ cho biết, một trong hai cô bị chấn thương sọ não ngoài các vết bỏng sâu, khó qua khỏi, người kia có hy vọng qua cơn nguy hiểm, nhưng các di chứng do bỏng lửa thì… phải đợi sau này mới biết, rồi ông lắc đầu ngậm ngùi: “Họ còn trẻ quá, mới 20-21 tuổi”.
Hai người con trai buồn bã nhìn nhau, họ bắt tay và cùng chia sẻ: Nguyên, bạn trai của Hồng, Quang người yêu của Ngọc.
2. Hồng và Ngọc là hai chị em ruột được sinh ra trong một gia đình giàu có. Cha là nhà doanh nghiệp nổi tiếng thành đạt về ngành điện - điện tử. Mẹ của hai chị em nổi tiếng hoa khôi của thành phố, nhỏ hơn cha họ một nửa số tuổi.
Đám cưới cha mẹ họ ngày ấy là sự kiện gây không ít tai tiếng. Sau ngày cưới ít lâu, Hồng ra đời và Ngọc cũng được sinh ra liền năm sau. Khi Ngọc tròn tháng, mẹ hai chị em qua đời.
Người cha buồn phiền, ngoài công việc là chìm đắm trong những chai rượu hoặc nhốt mình ở trong phòng ngủ, có lúc ông đi nước ngoài liên tục, chẳng ngó ngàng gì đến hai cô con gái, mọi việc ông phó mặc cho người vú.
Hồng và Ngọc cứ thế lớn lên bằng tiền bạc giàu sang của người cha, quen với sự chiều chuộng của người làm trong nhà và tự do làm những gì theo ý thích.
Không chênh nhau nhiều, Hồng - Ngọc như hai chị em sinh đôi, đi đâu cũng có nhau, cùng học chung trường chung lớp, nhưng càng lớn, hai người càng khác nhau, như thể họ không phải là chị em ruột sống chung mái nhà.
Tất cả những nét đẹp của cha và mẹ hình như dồn hết sang Hồng, Hồng đẹp mê hồn từ ánh mắt, đôi môi, sống mũi đến dáng người thon thả. Còn Ngọc, bước qua tuổi dậy thì vẫn cứ gầy gò, gương mặt thô cứng.
Tính tình hai người trái nhau như mặt trời, mặt trăng. Ngọc không đẹp song có duyên ngầm, đằm thắm, dịu dàng, giản dị, thông minh, khá sâu sắc, chăm chỉ, với người làm trong nhà thân thiện tử tế, thường giúp đỡ họ.
Ngược lại, Hồng lười biếng, vô tâm vô lo, chỉ thích mua sắm, ăn diện, đam mê các thú vui thời thượng ở vũ trường, nhà hàng, cô là nỗi khiếp sợ của người nhà mỗi khi trái ý.
Nhưng rất lạ, Hồng - Ngọc lại gắn bó thương yêu nhau, tình cảm của họ như có một sợi dây vô hình huyền bí buộc vào. Hồng đau, thì tự dưng ít phút sau Ngọc cũng đau y hệt vậy.
Ngọc ăn gì đó hơi mặn, thì Hồng cảm thấy khát khô họng. Giữa họ còn có mối giao cảm kỳ lạ, có thể truyền đạt ý nghĩ cho nhau, giống như hai người là một thể thống nhất, đây cũng là bí mật riêng của hai chị em.
Chữ viết hai người giống nhau như từ một người viết ra. Khi Hồng lên trả bài, ở dưới Ngọc thầm đọc và Hồng hoàn thành cuộc khảo sát dù chẳng học chữ nào.
Đã có lần thi, hội đồng giám khảo thật sự bối rối với hai bài thi giống nhau như bản copy, nhưng của hai thí sinh ở hai phòng thi khác nhau, cách xa nhau: Hồng - Ngọc, Ngọc không đi chơi, song khi đón Hồng về, Ngọc có thể trêu chọc chị những gì xảy ra của đêm vui như thể Ngọc có mặt ở đó với Hồng.
Trò chơi hai chị em hay đua tài là ký chữ ký của nhau, Hồng ký tên Ngọc, Ngọc ký tên Hồng, ai giống hơn thì thắng… Người này đi đâu, người kia ngóng đợi. Ngỡ rằng cuộc đời này khó có gì tách rời được họ…
Nhưng cha họ, ông đối xử với hai chị em bằng hai tình cảm trái nhau đến khó hiểu cả với người nhà và bản thân Hồng - Ngọc.
Với Hồng, ông yêu chiều như vàng như ngọc, không bao giờ nặng lời, dù Hồng nhiều khi tỏ ra ương bướng, hỗn xược, ngang ngược, gây phiền hà cho ông.
Có lần ông đã đuổi một người làm chỉ vì Hồng không thích người đó. Ông vui vẻ chi trả các khoản tiền lớn cho Hồng thỏa sức mua sắm ăn chơi cùng bạn bè.
Có khi cao hứng, hay trong các cuộc gặp gỡ bạn bè, ông hãnh diện khoe: “Mai mốt tôi giao hết tài sản cho con gái cưng của tôi cai quản”.
Còn Ngọc, hình như ông ghét cô. Có lẽ vì Ngọc không phải là con trai như ông hy vọng, lại thêm do sinh cô mà mẹ cô mất sớm, làm ông hụt hẫng tắt đi giấc mơ có người nối dõi. Ông khắc nghiệt từng tí một với Ngọc.
Ông hay đem những lỗi lầm của Ngọc bêu riếu trước mặt mọi người, khó chịu với những nét thô vụng của Ngọc: “Nhà ta đâu có thứ con gái xấu xí vậy”.
Không việc gì Ngọc làm mà ông hài lòng: “Có ai vụng về đến thế không?”. Ngọc xin ông tiền, ông la mắng từ chối: “Phải biết tiết kiệm, muốn tiêu xài tự làm ra, đừng tập thói tiêu hoang xài phí”.
Một lần say rượu, Ngọc dìu ông lên phòng nghỉ, ông xô Ngọc ra, rồi hét “Không phải con ta…”. Đêm đó, Ngọc mất ngủ. Lần đầu tiên Ngọc tự hỏi.
Tại sao ông lại bất công với cô, hay cô không phải con ông? Ngọc trở nên kín đáo, trầm lặng… Một ngọn lửa ngầm nhen nhúm đang bừng lên trong Ngọc.
Năm Hồng 19 tuổi, người cha qua đời sau cơn bệnh. Trước đó, ông đã kịp làm di chúc để lại. Người luật sư của ông và gia đình theo ủy nhiệm đã đọc thư ông gửi và mở cuộn băng ghi âm những lời dặn dò cuối cùng của ông: “Di chúc sẽ được mở khi Hồng trên 24 tuổi. Hiện tại, Hồng sẽ đứng tên một tài khoản trong ngân hàng, cũng như thay mặt ông quản lý công việc kinh doanh cùng các giấy tờ giao dịch khác với bạn hàng”.
Hồng hờ hững nhận xấp giấy tờ, chìa khóa và vài thứ linh tinh khác do luật sư đưa. Còn Ngọc, cô không nói, một thoáng bóng đêm lướt qua mắt cô, song bản tính kín đáo trầm lặng nên không ai đọc được gì trên nét mặt cô.
3. Bệnh viện và các bác sĩ đã làm hết những khả năng có thể, nhưng một trong hai chị em đã không qua khỏi. Người còn lại chưa tỉnh. Do vết thương bỏng quá trầm trọng nên không thể biết người còn sống là Hồng hay Ngọc. Luật sư của gia đình đề nghị chờ người kia tỉnh lại. Một tuần lễ trôi qua trong hồi hộp của mọi người, cô gái đã tỉnh dậy.
- Cô tên gì?
- Tôi… Tôi… Em Ngọc đâu?
Cô gái lại rơi vào một cơn hôn mê ngắn.
Ông luật sư nhíu mày. Nguyên mỉm cười. Quang nhắm mắt một phút rồi đi ra ngoài miệng lẩm bẩm: “Không thể… là em”. Những người thuộc cơ quan luật pháp và bác sĩ vội vàng ghi chép.
Ngày hôm sau, đám tang Thúy Ngọc được tiến hành trong sự tiếc thương của gia đình và bạn bè. Hồng đã tỉnh, được thông báo. Qua ánh mắt ló dưới lớp băng, có dòng nước mắt và khoảnh khắc vô hồn.
Hồng khỏe lại, nhưng không ai dám cho Hồng soi gương. Gương mặt cô bị biến dạng khủng khiếp bởi các vết sẹo lồi lõm, thân hình chỉ còn da bọc xương, chi chít vết sẹo bỏng loang lổ chỗ trắng chỗ đen.
Dựa theo các tấm ảnh chân dung của Hồng, nhờ những bàn tay khéo léo và tiến bộ y học của các bác sĩ và nhờ vào khả năng tài chính gia đình, sau gần một năm, trải qua hàng chục cuộc phẫu thuật cấy, ghép, chắp, vá, sửa chữa, Hồng đã trở lại nguyên vẹn vẻ đẹp mê hồn trên gương mặt và thân hình xinh đẹp ngày trước. Chỉ còn hai tháng nữa là sinh nhật 24 tuổi của Hồng. Cô mỉm cười chào tất cả mọi người.
Ngày đầu tiên trở về nhà sau một năm vật lộn với sống còn của tai nạn. Hồng đứng chôn chân trước di ảnh của Ngọc. Có một lúc Hồng như bị mộng du, miệng lắp bắp: “là ta… là ta…”, bóng đêm trùm lên người Hồng. Cô ngã ra bất tỉnh… ảnh Ngọc trên bàn thờ câm nín lạnh lẽo.
Có một sự thay đổi trong Hồng. Hồng trầm lặng, ít nói cười như trước kia, dịu dàng lễ phép với mọi người. Hồng cho thay lại toàn bộ tủ áo quần của mình dù nó vẫn rất mốt, hợp thời trang, cô dặn người may những bộ đồ có màu nhẹ, kín đáo.
Mỗi khi tiếp xúc với khách cô thận trọng rất ít lời và mỗi khi buông bút ký giấy tờ, cô thường im lặng vài phút rồi mới ký. Mọi người cho rằng, sau tai nạn khủng khiếp kia, Hồng đổi tính.
Hơn nữa Hồng mất mát quá lớn, mẹ, cha, em lần lượt ra đi vĩnh viễn. Phần khác, bây giờ Hồng là người thừa kế duy nhất của gia đình, mang vai trò quản lý công việc kinh doanh của người cha…
Nên Hồng phải giữ vị trí cô chủ đầy quyền uy và giàu có. Duy có ba người, mỗi lần gặp Hồng, họ cứ gờn gợn một cái gì đó không thật, nhưng không thể rõ nó là điều gì. Họ lặng lẽ, bí mật quan sát, theo đuổi những ý nghĩ riêng mình.
Ông luật sư luôn nhíu mày khi cầm xem các giấy tờ Hồng ký tên. Ông không thấy gì lạ, vẫn là chữ ký như từ trước tới giờ, nhưng sao ông có cảm giác bất an, hình như nó thiếu thiếu, không phải.
Thậm chí có lần ông đem cả kính lúp ra soi từng nét, chẳng phát hiện được gì. Chữ ký Bích Hồng có hình dáng như bông hoa rất toàn vẹn.
Thời hạn mở di chúc càng tới gần, trong lòng ông càng bất an, gần nửa đời làm luật sư gắn bó với gia đình Hồng – Ngọc cũng bằng thời gian đó, linh cảm mách bảo ông có một âm mưu rất tinh vi, song ông không làm rõ được. Ông bất lực, lo âu cái âm mưu đó đang dần đến, sự ủy nhiệm tin tưởng của người bạn đã khuất, ông không làm tròn. Ông thấp thỏm lo nghĩ bạc cả tóc.
Nguyên là con trai cưng của một gia đình quyền lực ở thành phố. Học giỏi và yêu cái đẹp toàn mỹ. Quen Hồng trong cuộc vui sinh nhật bạn. Nguyên yêu Hồng vì Hồng đẹp và vì cả sự kiêu hãnh của một chàng trai chinh phục, chiếm làm của riêng người đẹp nổi tiếng của giới thượng lưu thành phố.
Phần nữa Hồng cũng sống hết mình trong tình yêu với Nguyên. Họ cũng đã tính toán vài dự định trong tương lai nhưng chưa rõ ràng. Khi Hồng gặp tai nạn, Nguyên mừng vì Hồng còn sống, nhưng khi nhìn Hồng dị dạng bởi các vết bỏng, Nguyên thở dài tiếc cho một sắc đẹp bị tàn phá. Nguyên từ từ ít đến thăm Hồng lấy cớ bận việc.
Một năm sau, Hồng trở về, đẹp hơn cả ngày trước, Nguyên hối hận về cách hành xử của mình, anh gặp Hồng thường xuyên, giúp Hồng điều hành công việc chiều chuộng những sở thích của Hồng, anh muốn chuộc lỗi.
Song Nguyên khó hiểu, tình cảm của Hồng với anh không nồng nàn đắm say như trước, mà Hồng cứ lành lạnh, thờ ơ, miễn cưỡng, có khi cáu bẳn với Nguyên nếu Nguyên tỏ ý thân mật quá trớn tí xíu.
Có lần Hồng xô Nguyên và giận dữ khi Nguyên hôn Hồng. Ban đầu Nguyên nghĩ Hồng giận về thời gian Hồng gặp tai nạn, Nguyên ít chăm sóc quan tâm, nên càng cố tình chăm chút Hồng.
Đến một lần, gần kề ngày sinh nhật Hồng, anh đến nhà với ý định dò ý cô thích gì anh mua tặng, Hồng tiếp anh trong chiếc váy ngắn hở cổ hơi sâu, anh buột miệng đùa: “Dấu son trên ngực em đâu cho anh ngắm”.
Hồng đang vui, bất chợt mặt trắng bệch, chạy vội vào phòng trong rồi cáo mệt, đuổi Nguyên về. Nguyên ghim câu hỏi trong đầu: “Hồng ơi… Có phải là em không?”.
Quang hy vọng nhìn vào đôi mắt của hình nhân băng bó trắng toát đang nhìn đăm đắm vào mình, nhưng lúc nghe “Em Ngọc đâu?”. Anh thất vọng, đau đớn.
Là một chuyên viên thiết kế ý tưởng quảng cáo, tài năng, Quang yêu Ngọc không phải vì cô là con nhà giàu, anh thấy ở cô sự giản dị, siêng năng, thông minh, có ý chí và nghị lực, không ỷ thế nhà giàu để kiêu kỳ.
Anh hạnh phúc được Ngọc đáp lại tình yêu của anh trong sự tôn trọng, mến mộ tài năng và thấy được ở anh sự che chở cứng cáp. Họ đã hứa hẹn, có dự định tương lai, sẽ cưới nhau khi Ngọc tốt nghiệp đại học, Ngọc sẽ về ở với anh trong căn nhà do chính bàn tay anh tạo dựng.
Họ đã có thật nhiều kỷ niệm sâu sắc. Mất Ngọc, Quang mất nửa trái tim. Một năm trôi qua, Ngọc vẫn in sâu trong anh kể cả giấc mơ, anh vẫn chưa quen Ngọc ra đi vĩnh viễn.
Hôm giỗ đầu Ngọc, đến nhà gặp Hồng, anh thoáng rùng mình khi nhìn vào mắt cô, một cái nhìn quen thuộc, thân thiết kỳ lạ đối với anh. Ánh mắt của Ngọc. Và cũng như khoảnh khắc của giấc mơ, Hồng quay nhanh hướng khác và vội bước đi, để lại Quang lúng túng, thẫn thờ. Từ hôm ấy, anh âm thầm dõi theo Hồng. Anh càng thấy ở Hồng những gì quen thuộc.
Có lần anh suýt nghẹn thở khi thấy Hồng mặc áo xanh ngọc, màu ưa thích của Ngọc, đi vào nhà sách Ngọc thường tới mỗi chiều tan học, anh tiến lại gần định chào Hồng, thình lình Hồng quay lại nhìn anh, mặt tái mét, gấp gáp chạy đi như trốn tránh.
Một đêm, Quang uống chưa say, anh cố tình đổ lên người cả chai rượu và
đến gõ cửa nhà Hồng, anh lảm nhảm kêu tên Ngọc, ôm lấy Hồng và kể lể những kỷ niệm của Ngọc-Quang, rồi bất chợt anh giữ chặt lấy Hồng: “Em là Ngọc phải không?”.
Hồng giãy giụa, nhưng Quang không buông tha “Nói đi, em là Ngọc phải không?”
Hồng run bần bật, xám xanh mặt mày, và rồi như không còn đường nào thoát, cô lả đi trong tay Quang: “Tha lỗi cho em… Em yêu anh… Em không thể… Vâng… là Ngọc của anh… Nhưng… muộn rồi… Em không thể quay lại… Tha lỗi cho em… Quang ơi… Thương em… Tha lỗi cho em…”.
Quang tê tái, đau khổ. Mọi thứ như sụp đổ trong anh. Ôi, thà đừng biết sự thật, để Ngọc là viên ngọc của anh.
4. Không ai có thể hiểu Ngọc, kể cả Hồng. Trong cô đã nuôi ý chí phải đạt được những gì mình muốn. Cô thèm muốn vẻ xinh đẹp của Hồng. Cô thèm muốn được nhiều người ái mộ như Hồng.
Cô căm thù người chị của cô đã lấy đi những tốt đẹp nhất mà đáng lý cô phải được hưởng như Hồng. Cô ghen tức với Hồng khi chị cô được chiều chuộng, yêu quý.
Mỗi khi bị cha mắng hay từ chối điều gì trong cô lại bừng lên nỗi giận người chị, chỉ muốn trả thù. Ngày cha cô mất, Hồng được trao mọi quyền hành và tiền bạc, Ngọc đã đốt lên ngọn lửa, sẽ giành vị trí đó bất kể giá nào.
Nấp dưới vẻ hiền thục của cô là một ý chí mãnh liệt của một người điên cuồng vì tiền bạc và quyền uy. Nấp dưới sự trầm tĩnh, phẳng lặng của cô là ngọn lửa tham vọng, ganh ghét dữ dội với hy vọng được như người chị.
Cô âm thầm theo đuổi mục tiêu của mình một cách khôn khéo đến nỗi ai cũng nghĩ là rất bình thường. Vâng, không phải cô bày ra trò chơi ký chữ, không phải cô năn nỉ chị cô đừng cho ai biết họ có thể truyền ý nghĩ cho nhau… như là trò trẻ con.
Nó là khởi đầu cho mục đích cô muốn thực hiện, chỉ còn chờ đợi. Cái đêm Hồng đi nhảy ở vũ trường “Không Có Đêm”, Ngọc bồn chồn, cô linh cảm thời cơ đã đến, linh cảm một con quỷ trong cô thật chính xác. Cô vào phòng Hồng, lấy áo của Hồng mặc, trang điểm giống Hồng.
Khi cô vào được bên trong, lên sàn nhảy, nắm được tay Hồng, thì cũng đúng lúc cô nghe tiếng hét “cháy”. Đèn tắt, bóng tối tràn ngập, tiếng la tràn ngập, cô bị xô ngã sấp xuống, một luồng gió bỏng rát liếm lấy cô, cô bất tỉnh, bên tai còn nghe văng vẳng tiếng Hồng gào thét: “Em Ngọc đâu! Em Ngọc đâu!”.
Rồi cô thấy mình trôi đi, có ai đó ôm lấy cô, cố sức đẩy cô đi. Cuối cùng cô chìm vào miên man bóng đêm dày đặc với giọng thét gọi của Hồng “Em Ngọc đâu!”.
Khi tỉnh dậy, tiềm thức mách bảo, hay linh cảm của quỷ cho cô cơ hội có một không hai, cô đã kêu lên: “Em Ngọc đâu!”. Và tất cả mọi người dựa vào đó, đã cho cô là Hồng, tai nạn che đậy cho việc soán ngôi đầy thuyết phục bằng các cuộc phẫu thuật thẩm mỹ.
Cô đã có tất cả - Sắc đẹp và tiền bạc, giàu sang. Nhưng, đêm đ
êm cô mất ngủ, cô sợ giấc ngủ vì cứ nhắm mắt thì Hồng lại hiện lên, người chị của cô nổi tiếng quậy phá, ăn chơi ở ngoài, song hết mực yêu thương cô, cô thấy chị Hồng khóc khi cô ngã té chảy máu chân, cô bị cha la mắng, Hồng đến vỗ về, cô đi đâu về muộn, Hồng ra vào ngóng cửa không đợi người nhà mở cho Ngọc vào, cô ốm, chị cô tự tay nấu cháo cô ăn.
Tới phút cuối trong hỗn loạn, Hồng vẫn nghĩ đến cô. Một chút sự hối hận cứ le lói, nhưng rồi ngọn lửa tham vọng kia lại lấn át, cô vật vã đêm này sang đ
êm khác.
Ban ngày, với cô cũng là một địa ngục. Trong tâm thức, cô là Ngọc. Cô hiểu điều đó nên rất sợ khi gặp Nguyên – Quang và ông luật sư. Ông luật sư không thể thấy được chữ ký giả mạo bởi nó hoàn hảo, nhưng linh cảm nghề nghiệp và kinh nghiệm đã mách bảo ông một sự dối trá.
Nguyên, hơi thực dụng, nên cảm giác hụt hẫng trong cách cư xử của cô đã làm Nguyên nghi ngờ về một con người khác – Vì cô là Ngọc, cô không phải là Hồng, yêu Nguyên.
Còn Quang, tình yêu giữa hai người là có thật và sâu đậm, dù biết cô đã chết, song kỷ niệm quá sâu sắc nên Quang vẫn nghĩ là cô đang hiện diện. Và cô là Ngọc, cô không thể giấu Quang, bởi chính cô yêu Quang. Cô chỉ có thể là Hồng trước mắt mọi người.
Ngọc không còn đường nào. Cô đã thổi bùng ngọn lửa trong cô, bây giờ có muốn dập tắt cũng không thể. Tất cả những dự định của cô đã đến ngày kết quả, cô không muốn buông, cô nghĩ cô sẽ lấy được hết những mất mát và cô còn được nhiều hơn thế nữa.
5. Sinh nhật 24 của Hồng. Ông luật sư mời tất cả mọi người làm chứng theo đúng luật pháp, mời bè bạn thân hữu của gia đình đến dự buổi sinh nhật và mở di chúc.
Quang – Nguyên cũng được mời với tư cách bạn bè thân thiết của gia đình. Hồng – phải là Ngọc mới đúng, đẹp hơn bao giờ hết.
Lộng lẫy, rạng rỡ trong bộ váy áo màu đá Rubi, đứng cạnh ông luật sư, bên chiếc bàn dài bày biện ly cốc chén đũa sang trọng, chiếc bánh sinh nhật mang hình viên hồng ngọc cắm 24 ngọn đèn cầy hồng để gần lọ hoa to với 24 bông hồng nhưng tuyệt đẹp. Chỉ còn chờ…
Với Ngọc, tất cả chỉ là thủ tục, mọi việc diễn tiến thật hoàn hảo, không có kẽ hở nào. Cô đưa mắt nhìn Quang thầm nói: “Anh sẽ không phản bội em phải không? Chúng mình rồi sẽ được bên nhau. Em yêu anh và anh yêu em”.
Còn Nguyên, anh đến chỉ vì muốn thỏa chút tò mò, xem Hồng, dưới con mắt anh Ngọc là Hồng, sẽ thừa hưởng khoản tài sản khổng lồ đó là bao nhiêu. Trong anh, tình yêu đã nguội lạnh, anh không có ý nghĩ sẽ gắn bó với Hồng. Hồng bây giờ khác với Hồng ngày trước.
Ông luật sư đưa tay ra dấu, rồi lấy trong cặp ra một phong bì lớn còn nguyên dấu niêm và chữ ký của cha Hồng – Ngọc, mở niêm, ông rút tờ giấy, chậm rãi, rành rọt đọc:
Bích Hồng là con ngoại hôn. Những gì tôi cho cô ta đến lúc này là quá đủ. Tôi để lại toàn bộ tài sản bao gồm cả bất động sản cho con gái ruột của tôi là Thúy Ngọc.
Nếu trường hợp Thúy Ngọc từ chối không nhận thừa kế, hoặc bị chết, thì số tài sản trên được chuyển cho quỹ từ thiện trẻ em khuyết tật thành phố…”.
Thời gian dừng lại, lặng ngắt, chợt vỡ vụn bởi tiếng thét đầy bi phẫn và tuyệt vọng: Không! Không thể!
Bích Hồng, nói lại cho chính xác, Thúy Ngọc như lên cơn cuồng nộ lao ra khỏi phòng. Bóng đêm nuốt chửng lấy cô…
Tác Giả: Hoài Hương