Buổi tối lũ con gái như những con gà mái tơ nhốt chung một chuồng tự dưng khó khé tra hỏi nhau về mối tình đầu. Ừm. Yêu từ bao giờ, cầm tay lần đầu ở đâu? Hôn người đầu tiên là ai, có thích không, bao lâu thì tan vỡ? Dư âm, đại loại là những chuyện vô cùng "dở hơi không biết bơi". |
Đến lượt Huế. Nó thẹn thò một lúc mới dám thú nhận là hôn lần đầu ở trong phòng hóa trang sau cánh gà hội trường. Nó với thằng bạn cùng lớp diễn cặp với nhau trong vai đôi bạn cùng tiến. Trong quá trình tập vở chung, hai đứa đã mắt la mày lét rồi nhưng thằng kia nhát gái đến nỗi phải diễn cảnh hai đứa tay trong tay rất vui vẻ, hồn nhiên mà hai đứa cắc cớ nắm kiểu gì cũng thẹn thò như đôi đang yêu nhau nên cô giáo bắt cầm tay luôn cho dạn. Đương nhiên cầm lâu thì thích nhưng cái hồi hộp ban đầu cũng mất đi, thực tình cả hai chỉ muốn hôn xem mùi vị nó như thế nào. Diễn xong đám bạn cùng trường hoan hô quá trời, hai đứa chạy vào trong tập hợp để sơi cháo gà bồi dưỡng. Đang theo đà chạy vào thì thằng kia giật Huế lại dúi vào sau cánh gà và nụ hôn đầu đời thấm mùi son phấn hoá trang đến nghẹt thở. Đúng ra là thằng kia phải ăn mấy lớp son của Huế. "Thế là ngọt ngào rùi". Đứa khỉ gió nào đó kết luận và nhìn chăm chăm vào môi Huế xem cái môi "hun" rồi nó như thế nào. Huế ngượng quá dúi mặt xuống đám chăn. Để gỡ lũ tiểu yêu ra khỏi Huế, Hoa quyết định tự kể chuyện mình. Hoa nổi tiếng là đứa đa tình, giống gien mẹ. Mà mẹ nó có ai là không biết: Trẻ tươi mơn mởn, bỏ bố con nó từ lâu và cặp với không biết bao nhiêu là ông quyền cao chức trọng. Bà có tài "căn" đúng thời điểm ông nào sắp phất lên thì sà đến, đúng lúc nào ông ta sắp sa cơ lỡ vận thì lảng ra, rút lui an toàn. Nó còn xinh hơn cả mẹ. Mới học trung học mặt mũi đã rạng rỡ như hoa đào. Nó tự hào từng là bồ của tất cả đám con trai "có giá" ở trường. "Giá" ở đây là theo nhiều tiêu chuẩn. Một là đẹp trai con nhà giàu, hai là học giỏi có khả năng, ba cũng là cậu ấm con quan. Hạng bét nhất cũng phải có chút tài vặt như hát hay, đánh bóng chuyền giỏi hay mồm mép tép nhảy… Nó làm cho khối đứa con gái dè chừng vì sợ nó cướp bồ nhưng với bạn bè vô tư thì Hoa quả là một đứa rất đáng quý, thẳng thắn và nhiệt tình. Thế mà nụ hôn đầu đời của nó thật thảm hại. Một lần mẹ Hoa tổ chức sinh nhật cho nó ở nhà hàng. Khi nó đến nơi thì cả một bàn tiệc toàn các ông tai to mặt lớn và có mỗi mình mẹ nó là phụ nữ. Nó lịch sự cũng nâng ly với các chú nhưng chỉ được vòng đầu mặt mày đã xây xẩm. Ai đó dìu nó vào phòng. Chú ngồi cạnh lúc nãy vào theo và đặt tay lên hông Hoa, gắn vào môi nó một cái hôn nồng nặc mùi bia, rượu, gỏi cá sống. Hoa bảo chính nhờ mùi tanh ghê tởm ấy mà nó tỉnh trí ra được mấy phút để kịp tát bốp vào mặt ông ta và vùng chạy. Hoa nghẹn ngào "Sau này dù tao đã hôn rất nhiều, đã vung vãi nhiều thứ hơn cả hôn nhưng giá như ai cho tao một cái hôn đầu đời thật thanh khiết thì có lẽ tao đã không như bây giờ". Cả lũ tự dưng trầm lắng xuống và bất giác đều thở dài theo tâm trạng của cô bạn đáng thương. Riêng Châu, Châu thấy mình thật hạnh phúc. So với tất cả những gì lũ bạn vừa kể, Châu không biết đấy đã phải mối tình đầu của mình chưa, nhưng rõ ràng bảo đó chỉ là một trò trẻ nít thì Châu không đồng ý. Bởi vì đó là một "mối tình tay ba" hẳn hoi. Hồi ấy Châu học lớp hai. Vào lớp cô giáo bầu Châu làm quản ca. May làm lớp phó. Hùng làm lớp trưởng. Bộ ba ấy đã gắn bó với nhau suốt năm lớp hai do cô Hoài chủ nhiệm. Cô Hoài cũng là một cô giáo mà Châu nhớ nhất trong suốt thời đi học của mình. Có lẽ là do những kỷ niệm đầu đời bao giờ cũng như lúa ngậm đòng. Hương sữa thơm thảng thốt trên tay người cầm dẫu sau này hạt lúa có mẩy căng đến bao nhiêu nữa. Nhưng chuyện về cô Hoài nói sau vậy. Còn lúc này đây, mặc cho lũ con gái kêu toang toác, cười xoe xoé trên một cái giường chật chội, Châu im lặng sống lại với kỷ niệm thơ dại của mình. Lớp trưởng chịu trách nhiệm chung về mọi mặt từ quân số, vệ sinh đến hoạt động phong trào, lớp phó như May chỉ chuyên về học tập. Châu làm quản ca, học rất giỏi, thêm nữa là con gái nên chữ viết đẹp và tròn trịa vô cùng. Trẻ con chưa biết chú ý nhiều đến xinh đẹp, nhà giàu hay những tiêu chuẩn như về sau này. Đơn giản đứa nào học giỏi sẽ là thống soái. Châu chẳng có một chức vụ gì đáng kể nhưng lại nắm quyền chỉ huy cả hai "ông tướng". Ngoài học, lũ Châu còn có bao nhiêu trò vui, như đi hái trộm me, xoài của những lâm trường ở gần trường. Đi học hồi đấy cũng không có nhiều hàng rong và lũ trẻ con cuối thời bao cấp làm gì có tiền mà tiêu vặt như bây giờ. Mỗi đứa được nhà chuẩn bị cho một chai sáu lăm đựng nước lọc, đứa nào "xuya" hơn thì có cái biđông cũ của bố. Nhưng ở trường chạy nhảy chơi bao nhiêu trò, chỉ một loáng cả nước lẫn các thứ quả để dành đều cạn kiệt. May hay đi múc nước lã ở cái giếng trên đỉnh dốc để đổ đầy lại cho Châu. Nước lã lại còn ngọt, mát hơn cả nước đun sôi nên lắm lúc chỉ mong nước đun sôi hết để uống nước lã. Hùng ghen tị với May vì điều đấy, và cả hai đứa con trai ngồi trong lớp chỉ chăm chắm nhìn chai nước của Châu đã sắp hết chưa để còn giành nhau đi lấy. May gần nhà Châu hơn Hùng, nhưng bù lại, Hùng hay được đi "họp" cùng Châu hơn chứ lớp phó chả bao giờ được đi họp dù vẫn "có chức". Hùng rất "tâm lý", mỗi lần có dịp đi đâu cùng lại để dành cho Châu mấy quả me chín. Hùng khoái nhìn cảnh Châu bóc từng lớp vỏ đã khô rốp sau đó n Buổi chiều hôm ấy, May và Châu đứng dưới gốc cây mận trắng nhà May đầy lưu luyến. May nắm bàn tay xiu xíu của Châu hẹn hò "Sau này mình nhất định gặp lại Châu. Mình sẽ đưa Châu ra tiệm cắt tóc chứ không để cho bố Châu cắt và... và mình... nhất định sẽ... lấy Châu làm vợ". Châu cũng gật đầu. Hoàn toàn không phải là một cái gật đầu thơ trẻ mà ngay cả bây giờ Châu vẫn gật nếu May xuất hiện. Sự thực thì Châu có gặp lại "mối tình đầu" ấy một lần. Hôm ấy, bố Châu đang ở cơ quan đột nhiên có một người đàn bà cùng thằng bé trạc tuổi Châu xuất hiện. Lúc đó Châu đã học lớp sáu. Bố Châu đến trường đón Châu về. Hai đứa đứng ngây ngô ngắm nhau và cả thẹn thùng nữa. Châu chỉ dám liếc trộm May. May đã cao hơn Châu rất nhiều và không giống như trong tưởng tượng của Châu. Chỉ một loáng mẹ May đã kéo May đi. May dặn với theo "May nói gì hồi lớp hai Châu vẫn nhớ chứ? Luôn luôn là thế. Bao giờ mình lớn...". Châu lại gật đầu. Suốt cả mối tình đầu, hai lần người ta nói những câu quan trọng thì hai lần Châu đều gật gật. Cả hai đều còn bé quá để biết hôn nhưng dẫu sao cái nắm tay rụt rè dưới cây mận Châu vẫn nhớ như in. Và mỗi lần như thế Châu lại mỉm cười. Rõ ràng mình yêu từ rất sớm. Từ lớp hai đã biết yêu và hẹn ước rồi. Ghê thật. Châu ngoảnh lại đã thấy lũ gà mái ngủ hết rồi. Đầu đứa nọ ở dưới chân đứa kia. Mông cái Hoa đặt ngang mũi cái Huế. Cái Hằng xoạc chân ngang như cầu thủ chuẩn bị sút bóng, còn cái miệng "chi-ca-vâu" của cái Lan phô hết lợi. Cái Bông ngủ ngoan nhất, hai tay khép trước ngực, mặt rất duyên, rõ là một đứa con gái ý tứ kể cả trong giấc ngủ. Châu mãi vẫn chưa thu xếp được một góc cho mình đành ngồi bó gối trong bóng tối mờ dịu phủ khắp căn phòng. Tám đứa con gái, tám mối tình đầu, tám nụ hôn đầu, tám kiểu hẹn hò. Dẫu chua chát, buồn khổ, êm đềm, trong trẻo hay bi hài đến cỡ nào đi chăng nữa, những kỷ niệm đầu đời vẫn như một giọt nước từng làm lay động cả một lá khoai xanh mướt, non tơ... |
Trang
Oct 28, 2007
Mối tình đầu
Ai đúng
Trong cuộc thi đố em, người điều khiển chương trình chậm rãi bốc câu hỏi lên đọc:
- Người Việt Nam đầu tiên bay vào không gian là ai?
- Re... eeng! Re... eeng!
- Mời đội A.
- Thưa, đó là Từ Thức lên không gian và đã lạc động thiên thai...
- Mời đội B.
- Thánh Gióng cưỡi ngựa bay trước ạ.
Các cổ động viên lao nhao:
- Trật lất, đó là chú Cuội đã bay lên cung trăng ngồi ôm gốc đa lâu lắm rồi chứ bộ.
- ???1871
Cha Và Tôi
Hồi mười tuổi, tôi còn nhớ một buổi chiều chủ nhật, cha dắt tay tôi đi bộ vào rừng nghe chim hót .Cha con tôi vẫy tay tạm biệt mẹ , mẹ ở lại nhà chuẩn bị bữa tối, vì thế không thể đi cùng hai cha con. Mặt trời rực rỡ và ấm áp, hai chúng tôi sải bước chân trên đường . Chúng tôi không coi việc nghe chim hót là quá quan trọng , mặc dù tiếng nhạc thánh thót ấy luôn là một thứ gì đặc biệt và bất thường .
Cha và tôi đều là những người nhạy cảm. Chúng tôi quen với rừng và những sinh vật sống trong nó, bởi vậy nên không thấy nóng lòng chút nào . Mà cũng vì lúc ấy là một buổi chiều chủ nhật và cha được rỗi rãi . Chúng tôi đi men theo đường xe lửa, những'' người khác thì không được phép thế đâu, nhưng cha công tác bên ngành đường sắt nên được phép. Theo lối ấy , chúng tôi đi thẳng vào rừng , không phải vòng vèo. Khi ấy có một con chim cất tiếng hót và ngay tức thì, tất cả những con còn lại cũng hót vào bản giao capital rừng xanh. Chúng chiêm chiếp trong những bụi cây, loài chích bờ giậu, loài hét,chích bông. Lúc bước vào rừng, chúng tôi nghe thấy tất cả âm thanh liu riu phát ra từ những loài côn trùng nhỏ bé . Trên mặt đất , loài cỏ chân ngỗng bò ngổn ngang một lớp thật dầy, đám cây bu-lô đã thay lá mới , những cây thông như trẻ lại , đâm chồi xanh non . Và nơi nơi ngập tràn một mùi hương dễ chịu . Chỗ đất phủ rêu đang bốc lên những sợi hơi nước mỏng manh , bởi vầng dương đang tung xuống từng chùm nắng . Ở khắp nơi đều sống động ồn ào. Những con nghề bay ra khỏi tổ những con ruồi nhuế lượn vòng trên đất ẩm ớt . Những con chim bất chợt bay ra từ bụi cây tớp ruồi rồi lại bay vào . Bất đồ một đoàn tàu hoả chạy qua , chúng tôi tránh giạt xuống vệ đường . Cha đặt hai ngón tay lên mũ chào người lái tàu, người lái tàu chào lại và giơ tay vẫy vẫy. Vạn vật như đều chuyển động . Lúc chúng tôi đi trên những thanh tà vẹt , lớp nhựa trải đường chảy mềm ra dưới ánh nắng mặt trời , dâng lên nhè nhẹ một hương vị pha trộn từ mọi thứ , mùi dầu máy và hương hoa hạnh, mùi nhựa đường cùng hương cây thạch nam.
Chúng tôi sải bước theo những thanh tà vẹt để tránh lớp đá lổn nhổn khó đi và làm hỏng đế giầy. Hai thanh ray tàu bóng loáng trong nắng . Chúng tôi đi qua , ở hai bên đường những cột dây điện báo kêu o o.
Vâng ! quả là một ngày đẹp trời . Bầu trời trong sáng đến tột cùng, không một gợn mây , theo lời cha thì không thể có một điều gì xảy ra trong một ngày như thế này. Lát sau chúng tôi tới một cánh đồng lúa mạch nằm bên phải đường tàu . Ở đây, một người nông dân chúng tôi quen biết vỡ hoang một khoảng đất để trồng trọt , lúa mạch mọc đầy , đều đặn , cha ngắm nhìn vẻ hiểu biết , và tôi có thể cảm thấy rằng người hài lòng . Tôi không biết nhiều về điều ấy bởi tôi sinh trởng ở thành phố. Rồi đó , chúng tôi qua một chiếc cầu bắc ngang dòng suối. Dòng suối này quanh năm ít nước , nhưng sao bữa nay lại đầy ắp. Hai cha con nắm tay nhau đề khỏi bị trượt xuống qua khoảng trống giữa các thanh tà vẹt . Từ đó đến chỗ ở xinh xắn của người gác ghi cũng không xa . Chỗ này chìm lấp giữa màu xanh của rừng . Gần ngôi nhà có những cây táo và họ mời hai cha con tôi uống sữa . Cha con tôi ngắm nhìn đàn gà, lợn, vườn cây ăn quả trổ đầy hoa , rồi lại tiếp tục ra đi Chúng tôi muốn tới bên dòng sông , ở đó cảnh đẹp hơn bất cứ chốn nào. Dòng sông có một điều gì đó đặc biệt, vì lẽ dòng nước này đã từng chảy qua ngôi nhà xa cũ của cha. Chúng tôi không bao giờ muốn quay về trước khi tới được đó , và như mọi lần, lần này cha con tôi đã tới cũng không còn xa mấy, nhưng chúng tôi không tới ga . Cha nhìn quanh kiếm tìm những dấu vết xa cũ còn lại. Người nghĩ ngợi lung mung. Chúng tôi dừng lại bên bờ sông, dòng nước chảy mênh mông
và hiền hoà dưới ánh nắng mặt trời , những hàng cây lá um tùm đứng trên đê soi mình xuống nước tĩnh lặng . Tất cả thật mát mẻ và trong sáng. Một làn gió khe khẽ lướt qua từ những cái hồ trên cao. Chúng lôi trèo xuống vệ đê và đi một đoạn dọc theo mép nước. Cha chỉ cho tôi những chỗ ngồi câu cá . Khi còn là một cậu bé, cha thường ngồi trên những tảng đá kia suốt ngày chờ cá Pecca. Thường thì cũng chẳng mấy khi cá cắn câu , nhưng những ngày như thế thật vui và dễ chịu .
Giờ thì người không còn thời gian nữa . Chúng tôi chơi đùa một lát bên dòng sông, quăng những mảnh vỏ cây xuống dòng nước đang trôi xa dần , ném những mẩu đá xem ai xa nhất. Cha và tôi , tự nhiên thấy vui vẻ và khoan khoái . Nhưng rồi một lát sau cũng thấy mệt . Chúng tôi nghĩ thế là đủ và bắt đầu quay về nhà. Lúc ấy, trời bắt đầu sập tối. Khu rừng như khác lạ . Dĩ nhiên ánh sáng vẫn chưa tắt hẳn, nhưng bóng đêm đã len lỏi khắp mọi nơi. Hai cha con rảo bước . Có thể mẹ đang nóng ruột chờ bên bữa tối. Mẹ vốn luôn lo ngại một điều gì đó có thể '' xảy ra, dù cho chẳng có gì hết. Vì hôm ấy là một ngày rực rỡ mà. Tất cả mọi thứ đã hiện ra như nó nên thế và cha còn lôi thực hài lòng với chúng . Trời càng lúc càng tối hơn , những hàng cây trở nên kỳ ảo . Chúng đứng nghiêm và lắng nghe thanh âm dội lên từ dưới chân chúng tôi , cho dù chúng chẳng hề hay biết chúng tôi là ai . Có một con đom đóm lập loè trong tán lá . Nó nằm đó , trong bóng đêm và liếc nhìn chúng tôi. Tôi nắm chặt tay cha , nhưng người hình như không nhận thấy thứ ánh sáng kỳ lạ ấy , người vẫn cắm cúi đi. Lúc chúng tôi quay về tới chiếc cầu bắc qua dòng suối thì trời đã lối hẳn .
Phía dưới , dòng suối gầm gào như thể muốn nuốt chửng hai cha con, như thể mặt đất mở ra dưới chân hai người. Chúng lôi thận trọng bước qua những thanh tà vẹt nắm chặt tay nhau để khỏi lỡ chân ngã xuống . Tôi nghĩ ,chắc cha sẽ bế tôi lên qua dòng suối, nhưng người chẳng nói nửa lời. Tôi cho rằng người muốn tôi phải giống như người , không nghĩ ngợi vẩn vơ gì về dòng suối. Chúng tôi lại đi. Cha bình thản đi trong bóng đêm, chân bước đều đặn, không nói gì. Người đang nghĩ về những gì thuộc riêng người . Tôi không thể hiểu tại sao người lại bình thản như vậy , khi mọi vật xung quanh đều có vẻ gì ma quái. Tôi nhìn xung quanh kinh hoảng , chẳng có gì ngoài bóng tối khi ấy bóng đêm sẽ theo hơi thở chui vào người, và như thế tôi nghĩ thực nguy hiểm. Người ta sẽ chết ngay . Tôi hoàn toàn nhớ rõ những suy nghĩ như thế vào lúc ấy . Đường tàu chạy trên một dải đê rất dốc, nó chạy hút vào bóng đêm. Đám cột điện báo đứng thẳng , vươn lên bầu trời đầy vẻ ma quái, nó lầm bầm từ phía sâu trong , như thể có ai đó đang độc thoại , hướng xuống trái đất . Những cục sứ trăng trắng ngồi trên đó hoảng hốt, co mình vì sợ hãi và đương lắng nghe. Tất cả đều sởn da gà . Chẳng có gì là thực, chẳng có gì là tự nhiên , tất cả đều huyền bí. Tôi đi nhanh lại bên cha thì thào:
- Tại sao trời tối lại đáng sợ thể?
- Không, bé con. Chẳng có gì đáng sợ. - Cha nói và nắm lấy tay lôi.
- ôi cha. Nhng nó thực đáng sợ.
- Không! Con không được nghĩ như thế . Cha con mình đều biết là có Chúa , đúng thế không ?
Tôi cảm thấy sao qua đơn độc , sao bị bỏ rơi phũ phàng. Thật lạ lùng khi chúng tôi lại không giống nhau trước đêm tối. Và lạ lùng hơn nữa khi điều cha nói chẳng giúp được gì, chẳng ngăn được cơn sợ hãi trong tôi . Không, ngay cả khi cha nói Chúa sẽ cứu giúp , ý nghĩa về Chúa cũng đã làm lôi sợ hãi . Không sợ hãi sao được khi hình dung ông ta ở tất cả mọi nơi trong bóng đêm. Ở kia, trong tán lá cây, và kia nữa bên trong những cột điện báo đang thì thào, thì thào, có thể đấy là ông ta cũng nên , tràn ngập tận đâu đâu. Thế nhưng tất cả mọi người, ai cũng như ai , không bao giờ có thể nhìn thấy ông ta .Chúng lôi bước đi lặng lẽ,mỗi người theo đuổi một ý nghĩa riêng. Trái tim tôi tù túng như thể bóng tối đã len vào và đang bóp chặt nó. Khi ấy, lúc tới chỗ ngoặt, bỗng nhiên chúng tôi nghe thấy một tiếng động khủng khiếp phía sau lưng . Chúng lôi cũng giật mình ra khỏi những suy tư . Cha lôi vội tôi xuống vệ đê và người ôm chặt lấy tôi . Một đoàn tàu lao qua, một đoàn tàu màu đen , ánh sáng hắt ra từ tất cả các toa khi nó lao qua ra rít lên. Đây có thể là cái gì nhỉ ? Bởi giờ này không thể có một đoàn tàu nào qua đây. Chúng tôi nhìn hút theo nó, kinh hoàng. Cái nồi hơi thở hồng hộc trên chiếc đầu máy kềnh càng, nó ngoạm nuốt lừng xẻng than, và những lia lửa bắn ra toe toé trong đêm. Khủng khiếp quá! Gã lái tàu đứng bất động, tái nhợt, mắt mở trừng trừng như hoá đá . Cha không hề nhận ra hắn ta, không biết hắn là ai.Hắn nhìn ra phía trước như thể hắn đang lái thẳng vào bóng đêm, mất hút trong đêm tối bất tận .
Giật mình và thở hổn hển vì sợ hãi, tôi nhìn theo quái tượng kia. Nó đã bị bóng đêm nuốt chửng . Cha giúp tôi trèo lên đường ray và cả hai vội vã về nhà.
Người lầm bầm : " Kỳ lạ quá! Mình cứ tự hỏi tàu nào thế nhỉ? Tay lái tàu mình cũng không biết nốt ! "
Rồi cha không nói thêm câu nào nữa . Toàn thân tôi run lẩy bẩy. Đấy là cái đã dành cho tôi. Tôi đoán ra nó có ý nghĩa gì. Nó là tất cả nguồn cơn sợ hãi sẽ xâm chiếm tôi, tất cả những gì không thể hay biết, đến cha cũng không biết, và cũng không thể bảo vệ tôi thoát khỏi chúng . Thế giới này sẽ dành cho tôi như thế , cả một kiếp sống xa lạ tôi sẽ phải sẻ chia , nó chẳng giống cuộc đời cha chút nào, chẳng giống cuộc đời của bao người khác , bình thường và rõ ràng .Nó không phải là một thế giới thực hay một kiếp sống thực, nó chỉ lao qua khi bùng cháy lên trong bóng đêm không có tận cùng.239
Oct 27, 2007
Chỉ là cái gạt nước
Cảnh sát chặn chiếc xe của một cô gái tóc màu vàng rực:
- Tại sao cô lái xe chao đảo trên đường?
- Ôi! Sao đoạn đường này lại lắm cây mọc chìa ra ngoài đến thế? Tôi thấy một cành cây quệt vào bên phải kính xe nên quặt sang bên trái. Ngay sau đó, bên trái cũng bị cây quệt vào nên tôi lại né sang phải. Cành cây đó cứ liên tục hiện ra ở bên trái rồi lại bên phải nên tôi vòng sang phải, rồi lại sang trái...
- Thưa cô
- viên cảnh sát ngắt lời
- đó chỉ là cái gạt nước trên kính chắn gió mà thôi!
1698
Chạy Trốn Người Tình
Chạy Trốn Người Tình
Mặc dù, chưa gặp mặt Kim, nhưng thằng Thịnh đã biết nàng qua những lá thư tình. Mọi lá thư nàng gửi cho tôi thì thằng Thịnh đều đọc. Hắn đọc say sưa.
Hắn biết rõ chuyện tôi và Kim yêu nhau. Biết một cách rành rọt, nên nhiều lúc nhận được thư của nàng thì sau khi đọc xong, hắn đã đọc đễ cho tôi chép lại thư trả lời cho nàng.
Tôi rời khỏi ký túc xá vào lúc 5 giờ sáng. Chăn chiếu và sách vở của thời sinh viên xin trả lại . Những bữa cơm chỉ có rau muống luộc và "canh toàn quốc" chúng tôi xin trả lại. Tôi trả lại tất cả. Từ ngọn đèn mờ nhạt của những đ
êm học thi. Từ chiếc giường sắt hai tầng đầy rệp. Đến những bài học tiếng Anh, Hán, Nôm. Tôi trả lại tất cả. Để về miền Trung ăn Tết. Có nghĩa là tôi sắp đối diện với thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ. Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh. Đưa tôi ra đến tận bến xe miền Đông, thằng Thịnh bảo:
- Chúc mày về quê gặp nhiều may mắn. Gặp Kim cho tao gửi lời thăm.
Cứ làm như hắn là người yêu của nàng không bằng. Do đó, khi nghe hắn nói vậy thì tôi rất cảm động.
- Ừa cám ơn mày. Khi gặp mày chắc nàng cũng quý mày lắm Thịnh ơi!
Năm giờ sáng ở Sài Gòn đã rộn rịp những tiếng xe và người. Chúng tôi quẹt lửa đốt cháy những điếu thuốc Aspara để sưởi ấm tâm hồn lúc sắp chia tay. Và khi chưa hút xong điếu thuốc thì có lệnh lên xe. Hành khách được xếp vào các băng ghế. Chật chội. Như người ta xếp cá mồi xuất khẩu. Và tôi, thằng sinh viên chân yếu tay mềm cũng được đối xử như thế. Tôi suýt nhăn mặt cau có nếu... Nếu người ngồi cạnh tôi chung một băng ghế không lại là cô gái này. Cô ta đẹp quá. Mái tóc ngắn củn cỡn như con trai. Và môi đỏ màu son. Ánh mắt lúng liếng nhìn tôi như khẽ chào một người bạn đồng hành. Bằng linh tính của một thằng con trai đã có người yêu, tôi biết rằng cô ta đang dành cho tôi khá nhiều thiện cảm. Tôi thầm cám ơn anh "lơ xe" đã xếp tôi ngồi băng ghế này. Ngồi cạnh người con gái đẹp. Khi đi tàu xe điều hạnh phúc nhất đễ giết chết thời gian nhàn rỗi trên xe, không có gì lý thú bằng những cuộc trò chuyện với người bạn gái ngồi bên cạnh. Và tôi may mắn là được ngồi bên một người đẹp. Khi tôi bước vào băng ghế thì cô ta nhanh nhẹn đứng lên. Đôi môi màu son ấy đã nói:
- Anh ngồi bên cạnh cửa sổ nhé. Ngồi chổ đó gió thổi lạnh lắm, em chịu không được.
Tôi vui vẻ đáp:
- Vâng, cám ơn em.
Sau khi chuẩn bị xong mọi thứ thì xe bắt đầu rời bánh. Mọi âm thanh rung lên. Như tâm hồn tôi đang rung lên những cảm xúc nôn nóng mau mau về quê ăn Tết. Xe chạy bon bon. Ngồi bên cô gái mới quen, tôi rút một điếu thuốc gắn trên môi. Đó là thói quen giữ bình tĩnh của tôi khi nói chuyện với một người lạ. Tôi nói:
- Xin phép em, tôi có thể hút thuốc được không?
- Vâng, anh cứ tự nhiên.
- Em không sợ khói thuốc sao?
Cô ta chỉ cười chứ không nói. Tôi khum bàn tay để che gió trong khi quẹt lửa. Cây diêm phựt cháy rồi tắt ngủm. Gió thổi mạnh quá! Tôi lúng túng chưa biết làm thế nào thì cô ta nói:
- Để em che gió cho, anh quẹt diêm đi.
Vừa nói, cô ta vừa khum lại mười ngón tay. Tôi quẹt diêm và mồi thuốc một cách dễ dàng. Tôi thả khói thuốc Aspara khét lẹt qua miệng:
- Nè, em tên gì vậy? Tôi tên Quốc.
Cô ta không trả lời mà chỉ mỉm cười. Chao ôi!!! Khi người con gái mỉm cười, đó là lúc họ đáng yêu nhất vì trên gương mặt ấy không hề lộ ra một chút bực bội và nhỏ nhen nào cả. Nụ cười của cô bạn này đã làm tôi ngây ngất:
- Thú thật, tôi tên Quốc. Tôi là sinh viên khoa Văn. Còn em, em tên gì vậy?
- Anh hỏi để làm gì?
- Để bọn mình gọi nhau cho dễ. Vì...
Cô ta tròn mắt hỏi:
- Vì cái gì vậy anh Quốc?
Tôi chợt nhớ đến những lời tôi đã tỏ tình với Kim, bây giờ tôi lập lại với cô bạn này:
- Vì đời sống này mọi người cảnh giác với nhau nhiều quá, nên mọi tông tích, lý lịch của mình đều giấu kín khi trò chuyện với người khác. Điều đó làm tôi rất buồn. Tôi mong rằng trên đời này vẫn còn chỗ cho những tình cảm chân thật. Chứ huống hồ gì từ đây về Đà Nẵng phải ngồi cạnh nhau đến hai ngày. Đúng vậy không em?
Nhờ hút thuốc Aspara hay chăng mà sáng nay tôi lại ăn nói một cách có duyên quá vậy? Tôi chợt khâm phục những lời ăn nói hoa mỹ của tôi. Sinh viên Văn khoa mà lỵ. Quả thật, khi nghe những lời bay bỗng của tôi thì cô ta vội vàng chớp mắt:
- Anh nói như nhà thơ vậy. Hay quá! Em tên là Thùy.
Được lời khen của Thùy như cởi mở tấm lòng, tôi cao hứng ba hoa:
- Thùy à? Tên em đẹp lắm. Thanh Thùy, Mộng Thùy, Trang Thùy hay Diễm Thùy?
- Trật lất. Em là Phương Thùy.
Lúc này, xe đã chạy bon bon. Những lúc gặp đoạn đường đầy ổ gà thì chiếc xe nghiêng ngửa làm Thùy ngã vào tôi. Tôi cám ơn những đoạn đường như thế. Hỡi những ông công chánh, những thợ làm đường hãy đễ đường đầy ổ gà, ổ voi...
Vì tranh thủ thời gian gần Tết, nên xe của chúng tôi chạy bạt mạng. Không dừng lại ở bất cứ nơi nào để đón thêm hành khách. Mãi đến một giờ trưa chúng tôi mới được dừng lại ở thị xã Phan Rang để ăn cơm. Cơn nắng gắt của thị xã đã đón chúng tôi bằng tất cả nhiệt tình. Tại đây, qua làn gió lồng lộng của buổi trưa đã mang lại cho chúng tôi mùi nước mắm. Và đây mùi vị của biển. Những tiếng pháo đưa ông Táo về trời đã dội lại, càng làm tôi nôn nao. Bước vào quán ăn tôi nói với Thùy:
- Sắp Tết rồi. Anh sung sướng quá.
Thùy cười:
- Tết về quê gặp người yêu nên sung sướng chứ gì?
Lời n
ói vu vơ của nàng đã trúng ngay tim đen của tôi. Chỉ có những thằng ngu mới thừa nhận với người con gái này là mình đang yêu một người con gái khác. Trong giáo trình môn Văn học ở phương Tây, tôi đã từng đọc được đâu đó lời "khuyên" của gã Don Juan: Các mối tình của đàn ông luôn luôn là một dãy số biến đổi, nó sẽ là số không khi nói với người phụ nữ và sẽ trở thành con số nhiều khi kể cho một người đ
àn ông khác... Do đó, khi nghe Thùy nói thế tôi giả bộ làm mặt buồn thiu như cơm khê nhiều lửa bởi bàn tay vụng nấu:
- Thùy nói gì lạ vậy? Anh tìm mỏi mắt cũng chưa hề được ai thương cả.
- Tại anh khó tính chứ bộ.
- Sao Thùy biết anh khó tính?
Cô ta cười:
- Trông anh cũng đẹp trai và học hành đàng hoàng, có khối cô yêu anh.
Bất chợt tôi phá lên cười:
- Được như vậy thì hên quá! Ước gì anh gặp được cô nào như em thì tuyệt quá.
- Thôi đừng có nói nhảm. Mình vào ăn cơm đi anh.
Chúng tôi vui vẻ bước vào quán. Và để trở thành người con trai thanh lịch, nên cuối bữa ăn tôi dành được trả tiền. Số tiền để dành ít ỏi của tôi vơi dần một cách đáng thương hại. Nhưng tôi vẫn vui vẻ huýt sáo khi bước lên xe. Khi xe chạy, gió thổi mát rười rượi. Mọi người trên xe đều bắt đầu chìm vào giấc ngủ. Thùy đã ngã vào vai tôi để ngủ vì xe chật chội nên không còn cách nào khác. Điều đó làm tôi mừng rơn. Tôi quyết chí lấy lòng của nàng, nên khi nàng thiu thiu giấc ngủ thì tôi khẽ đọc thơ .
Thằng Thịnh thường bảo tôi: "Chinh phục con gái mà bằng thơ là cách chinh phục đầy lịch sự và hiệu quả nhất". Bằng giọng nhỏ nhẹ của thằng con trai Quảng Nam sau mấy năm ăn học ở Sài Gòn tôi đã ru nàng bằng thơ . Ngủ ngon nhé Thùy ơi!!!
Quả thật, lời tôi đọc khẽ khàng một cách du dương đầy quyến rũ nên Thùy đã ngủ ngon. Và tôi, tôi cảm thấy mình trở thành người có nhiệm vụ phải tỉnh táo để canh giấc ngủ cho Thùy.
Sau khi ngủ chập chờn trên xe, Thùy thức dậy hẳn và hỏi:
- Đến đâu rồi anh Quốc?
- Đến Qui Nhơn rồi.
- Vậy là sắp về nhà rồi.
Con mắt ngái ngủ và giọng nói ấm cúng của nàng đã làm tôi cảm thấy xao xuyến. Gần về đến nhà có nghĩa là sắp chia tay nhau. Điều đó bất chợt làm tôi buồn. Tại sao vậy? Tôi không lý giải được, khi mà tôi chưa nói yêu Thùy bao giờ. Sắp chia tay rồi, tất cả những điều đó đã buộc tôi bạo dạn:
- Thùy nè, ở Đà Nẵng em ở đường nào vậy?
- Anh hỏi làm chi vậy?
- Để đêm ba mươi Tết anh sẽ đến thăm em.
- Xạo hoài.
- Ai thèm xạo, anh nói thật mà.
Tôi sung sướng chờ đợi cái địa chỉ mà Thùy sẽ nói. Nhưng Thùy lại đánh trống lãng một cách tài tình:
- Anh Quốc nè, lúc nãy anh đọc thơ của ai mà hay quá vậy?
Tôi bèn giã bộ:
- Ủa, lúc nãy em ngủ mà em cũng nghe sao?
Nàng gật đầu:
- Ngủ gì đâu, xe xóc quá.
Thế là nàng đã rơi vào "cái bẫy" mà tôi đã giăng ra. Cám ơn mày Thịnh ơi! Tôi hãnh diện trả lời:
- Thơ của anh đó.
- Trời đất! anh cũng biết làm thơ nữa hả?
Lời ngạc nhiên của nàng làm tôi sướng phồng cả hai lổ mũi. Thùy nói tiếp:
- Anh chép bài thơ đó tặng cho em nghen?
- Đồng ý một trăm phần trăm.
Và tôi không quên bỏ lỡ cơ hội tán tỉnh:
- Nhưng em cho anh địa chỉ để anh cầm bài thơ đó đến nhà em. Đến vào đêm ba mươi Tết, em có thích không?
Nàng im lặng, xe vun vút lao đi. Trời về khuya lành lạnh khiến người ta ngồi sát lại gần nhau là điều hợp lý. Tôi khéo léo ngồi sát lại phía gần Thùy. Bất chợt bàn tay tôi chạm vào bàn tay nàng. Nóng như than, như lửa. Nàng để yên như không biêt chuyện đó xảy ra. Tôi để yên như tận hưởng một hạnh phúc đến bất ngờ. Thời gian trôi qua. Tim tôi nóng ran. Và Thùy nói:
- Thôi được, khi xuống xe thì em sẽ trao địa chỉ cho anh. Còn bây giờ thì bí mật.
Tôi mừng rơn và siết chặt tay Thùy. Lúc đó, những tiếng pháo báo hiệu mùa xuân sắp đến lại rộ lên. Lòng tôi đầy hạnh phúc. Và đến gần bảy giờ sáng hôm sau thì xe chúng tôi đã đến Đà Nẵng. Thời gian trôi qua nhanh như sự hối tiếc của tôi. Ngay giữa bến xe Đà Nẵng khi chia tay nhau Thùy trao cho tôi một tờ giấy nhỏ, ghi địa chỉ của nàng. Tôi nhét vội vàng vào túi áo, để còn kịp gọi xe xích lô chở nàng về nhà. Mọi người đều mệt mỏi trên chuyến xe tốc hành nên ai cũng muốn nhanh chóng trở về nhà. Tôi cũng vậy. Tôi thèm về ngay nhà
để tắm giặt, ngủ một giấc cho đã đời. Đà Nẵng ơi Đà Nẵng!!!! Tôi đã về quê ăn Tết.
Suốt mấy ngày sắp Tết, tôi phải bận rộn với biết bao là việc phải làm. Không có thời gian dành cho chuyện nghỉ ngơi và đi chơi. Kim cũng vậy. Nàng chỉ đến thăm tôi một vài lần. Tất cả mọi chuyện chúng tôi đều hẹn vào ngày mồng một Tết hoặc đ
êm ba mươi Tết. Và
đ
êm ba mươi Tết cũng đã đến. Khi ủi quần áo, để diện thật bảnh trong đ
êm đi đón giao thừa, tôi sực nhớ lại tờ giấy của Thùy. Lật tờ giấy đó, tôi thấy ghi: "Phương Thùy địa chỉ X đường Triệu Nữ Vương". Trời ơi!!!!!! Tôi cảm thấy xây xẩm mặt mày như vừa trúng cơn gió độc. Tôi vò mạnh tờ giấy trong lòng bàn tay và bỏ vào miệng nuốt xuống cổ họng. Tim tôi đau thắt lại. Đó chính là
địa chỉ của Phương Kim - người yêu của tôi. Lẽ nào??? Lẽ nào Phương Thùy và Phương Kim là hai chị em ruột của nhau? Tôi đã bắt cá hai tay...
Sự thật bao giờ cũng đơn giản. Tôi đã phạm một lỗi lầm rất lớn. Kim không thể tha thứ cho tôi. Đêm ba mươi Tết này tôi phải đi đâu? Tôi chạy trốn người tình. Tôi nghe trên trời xanh vọng về tiếng hát "Trời đang Tết hay lòng mình sắp Tết? Tháng ngày đã trôi qua tình đã phôi pha người xa khuất. Chỉ còn một chút hương xưa giờ cũng phong ba rụng cuối mùa...". Tình tôi đã rụng. Và như một tội phạm tôi chạy trốn người tình trong đêm ba mươi Tết.
Tác Giả: Lê Minh Quốc
Oct 26, 2007
Đã tịch thu rồi lại còn đòi xem
Một cô gái tóc vàng phóng xe quá nhanh bị cảnh sát chặn lại yêu cầu cho xem bằng lái, cô giận dữ thốt lên:
- Giá mà ngài giám đốc sở cảnh sát biết được các anh làm việc như thế nào! Vừa mới hôm qua, đồng nghiệp của anh tịch thu mất bằng lái của tôi, vậy mà hôm nay anh lại còn đòi xem nữa!
2424
Oct 25, 2007
Hi vọng
Hai chú bò đực tình cờ gặp nhau trên đường. Chú bò Giôhan thì béo tròn. Còn chú bò Ali thì gầy trơ xương. Giôhan thương bạn liền hỏi:
- Ali, vì sao anh đến nông nỗi này? Chắc chủ bắt làm việc nhiều quá phải không?
Ali rơm rớm nước mắt:
- Đúng thế, Giôhan ạ. Lại con cho ăn ít nữa chứ!
- Sao anh không bỏ sang ở với tôi? Ông chủ tôi tốt lắm!
- Mình cũng muốn. Nhưng lúc này chưa thể được!
- Anh còn vướng việc gì?
- Chuyện thế này, ông chủ tớ có một cô gái rất xinh đẹp nhưng lại rất ngu đần!
- Anh định ở lại để dạy cho cô ta thông minh lên sao?
- Không, ý định đó để sau. Anh biết không, ông chủ thường mắng cô con gái mình: "Mày ngu như bò ấy, tao sẽ gả mày cho con Ali kia!".
- Hay đấy! Thế ông chủ đã gả chưa?
- Chưa! Nhưng tớ đang hi vọng!
1452
Oct 23, 2007
Chuyến tàu ma
Chuyến tàu ma!!!
Thứ sáu, ngày 3 tháng 3 năm 1944. Đồng hồ trên tường chỉ gần 12 giờ khuya. Angelo Caponegro bồn chồn đứng ngồi không yên. Từ ba tháng nay, anh được bổ nhiệm làm trưởng ga tàu hỏa Balvano nằm giữa Naples và Rome. Vài tuần qua, anh bù đầu với công việc...
Nước Ý đang trải qua thời kỳ hết sức đen tối. Từ mặt trận phía Nam, quân đồng minh đang tiến dần lên phía Bắc với những trận đánh nảy lửa. Được sự hỗ trợ của quân phát xít Đức, miền Bắc nước Ý vẫn nằm trong tay nhà độc tài Mussolini. Những tháng đầu năm 1944, nước Ý bị chia cắt manh mún, oằn oại trong cuộc chiến tàn khốc.
Như các trưởng ga ở những vùng có chiến tranh, Angelo Caponegro làm việc dưới áp lực và tinh thần trách nhiệm cao. Bằng mọi cách phải bảo đảm an toàn cho các chuyến tàu chở dân tị nạn ra khỏi vùng giao chiến mà không bị phi cơ Đức oanh tạc. Qua khung cửa kính, Angelo thấy khoảng trên chục hành khách đang chờ đi chuyến tàu số hiệu 8017 sẽ đến ga Balvano lúc 0 giờ 10 phút. Angelo đang trông chờ tàu đến. Đây là chuyến tàu cuối cùng trong ngày.
Tiếng còi hú một hồi dài trong đêm vắng. Angelo bước ra sân ga. Chuyến tàu mang số hiệu 8017 mà trạm cuối là Rome đang chạy vào ga, nhả ra phía sau một vệt khói dài, đen kịt. Tàu giảm dần tốc độ rồi dừng hẳn giữa sân ga. Khách chờ bước vội lên tàu. Hầu như mọi hành khách trên tàu đều mệt mỏi ngủ gà ngủ gật. Tất cả đều đi đến ga cuối: Rome.
Angelo đi lên phía đầu tàu để trao đổi với lái tàu. Do nguồn dân tị nạn tăng đột biến nên phải nối thêm 5 toa tàu và tăng cường thêm một đầu kéo... Angelo hỏi lái tàu:
- Mọi việc êm xuôi chứ?
Người nhễ nhại mồ hôi, lái tàu nghiêng mình ra ngoài cửa sổ đáp:
- Đến đây thì mọi thứ đều suôn sẻ. Nhưng sắp tới sẽ khó khăn đấy. Qua ga Balvano tàu phải leo dốc đèo. Phải dự trữ đủ lượng than cho đầu kéo.
Angelo trấn an lái tàu:
- Tôi sẽ cung cấp đủ than cho hai đầu kéo.
Than được chuyển ngay lên tàu. Trong lúc đó nguyên đoàn tàu dài nằm im: Tất cả hành khách đều ngủ vì mệt sau những ngày dài phải đối phó với hiểm họa chiến tranh...
Việc tiếp tế nhiên liệu cho tàu mất hết 40 phút. Lúc 0 giờ 50 con tàu sẵn sàng chuyển bánh. Sau hồi còi dài, con tàu rùng mình chuyển động. Angelo đứng nhìn theo cho đến khi hai bóng đèn đỏ nơi đuôi tàu mất hút trong màn đ
êm. Anh quay vào phòng làm việc sắp xếp lại sổ sách và ngồi chờ cú điện thoại của Luigi, trưởng ga kế tiếp, thông báo chuyến tàu 8017 đến ga an toàn, trước khi lên giường ngủ. Đoạn đường từ Balvano đến ga Bella Muro dài khoảng trên 20 km. Thông thường tàu chỉ mất 15 phút hoặc tối đa là 20 phút nếu có tăng cường thêm toa.
Dưới ánh sáng mờ tỏa ra từ bóng đèn trong phòng, Angelo bật lửa châm một điếu thuốc, mắt lim dim mơ tưởng sắp được ngả lưng đánh một giấc sau ngày làm việc căng thẳng. Anh mơ về ngày chiến tranh kết thúc, hòa bình lập lại trên đất nước... 1 giờ 5 phút. Giờ này chuyến tàu 8017 phải đến ga Bella Muro. Angelo nhìn vào chiếc điện thoại móc trên tường, bồn chồn chờ tiếng chuông reo và giọng nói quen thuộc của Luigi thông báo tàu đến nơi... Nhưng chiếc điện thoại vẫn im thin thít. Anh châm điếu thuốc thứ hai. Đồng hồ chỉ 1 giờ 25. Ba mươi lăm phút đã trôi qua từ khi tàu xuất ga. Bỗng chuông điện thoại reo vang. Angelo nhấc máy và nhận ra ngay giọng nói của Luigi, trưởng ga Bella Muro. Nhưng sao hôm nay giọng nói của Luigi không bình thường mà pha lẫn bực dọc:
- Chuyện gì xảy ra với tàu 8017 thế? Chán chết đi được khi phải dài cả cổ ngồi chờ, tớ buồn ngủ quá đi thôi!
Đến lượt Angelo giật mình:
- Cậu nói sao? Nó đã rời khỏi Balvano được hơn 40 phút rồi còn gì!
Bất chợt Angelo tỉnh táo hẳn, sự mệt mỏi tan biến nhường chỗ cho cảm giác lo lắng pha lẫn tò mò. Phải chăng đấy là linh tính báo trước điều gì không may xảy đến với tàu 8017? Angelo cảm thấy có điều gì đó không bình thường đang diễn ra. Hẳn là tàu 8017 không bị dội bom bởi anh không nghe tiếng phi cơ hay tiếng bom nổ. Không lý gì tàu 8017 lại không leo nổi dốc vì nó được tăng cường thêm một đầu kéo. Có thể tàu leo dốc hơi chậm nhưng lẽ ra nó phải tới Bella Muro từ lâu rồi chứ...
Để quên bớt âu lo. Angelo xem lịch tàu đến và rời ga của ngày hôm sau. Nhưng càng đọc nỗi lo âu càng lớn dần. Những con số chỉ giờ tàu đến và đi không còn đúng theo lịch như trước đây nữa. Từ nhiều tuần qua, lịch tàu chạy chỉ mang tính tượng trưng. Chiến tranh là như thế. Tàu đến rồi đi bất cứ lúc nào có thể để tránh phi cơ Đức. Lắm khi các trưởng ga chỉ được thông báo giờ tàu đến và
đi vào phút cuối...
Hai giờ khuya. Chắc chắn là có chuyện trầm trọng xảy ra với tàu 8017. Angelo gọi cho Luigi nhiều lần nhưng lần nào cũng chỉ nhận được câu trả lời “Nó vẫn bặt vô âm tín”.
Giờ thì Angelo không thể ngồi chờ được nữa. Anh quyết định gọi báo cho trạm sửa chữa đầu máy nắm tình hình và yêu cầu gởi ngay đến Balvano một toa đầu máy để cùng phối hợp đi khảo sát tuyến Balvano - Bella Muro. Đầu máy đến Balvano lúc 2 giờ 40 phút. Từ ga Bella Muro, Luigi cho biết vẫn chưa thấy bóng dáng tàu 8017!
Đầu máy đi khảo sát di chuyển với tốc độ khá chậm để đề phòng bất trắc... Tàu 8017 có thể đã trật đường ray... Trong tình huống tranh tối tranh sáng như thế này, cẩn thận là trên hết. Ở những cây số đầu tiên, không việc gì lạ ở hai bên vệ đường. Hai thanh ray của tuyến đường sắt chạy song song, thẳng tắp. Toa đầu máy đến đường hầm đầu tiên. Angelo bỗng hét to:
- Dừng ngay!
Tàu 8017 đang nằm bất động ở phía trước. Con tàu đã vào trong đường hầm, chỉ toa cuối cùng là còn nằm bên ngoài. Angelo và lái tàu nhảy vội xuống đất. Họ chạy đến tàu 8017. Đèn trong các toa tàu vẫn chiếu sáng nhưng tuyệt đối không nghe th66
Oct 22, 2007
Phải cẩn thận
Bệnh nhân sắp xuất viện tâm sự với cô y tá trẻ:
- Anh yêu em nhiều lắm, và vì muốn được sống bên em nên anh chẳng muốn lành bệnh tí nào.
- Anh đừng lo ...- Cô y tá lắc đầu - Bệnh của anh không khỏi ngay được đâu. Anh phải biết là bác sĩ điều trị cho anh vừa viết thư tình cho em cách đây không lâu. Mà hôm qua lúc anh và em hôn nhau thì ông ấy đã bắt gặp!
Một bác sĩ được mời tới thăm bệnh cho một nhà quý tộc tính nết khó chịu.
- A, thưa ngài, bệnh ra làm sao vậy ? - bác sĩ vui vẻ hỏi.
- Này, điều đó thì chính bác sĩ phải tìm ra chứ, - bệnh nhân cau có bảo.
- Chà chà, - bác sĩ nói với vẻ tư lự, - Nếu ngài không phiền lòng, tôi xin phép được đi chừng một tiếng đồng hồ để gọi bạn tôi tới đây. Anh ta là kẻ duy nhất tôi biết có thể chuẩn đoán bệnh mà không cần hỏi. Anh ấy là bác sĩ thú y đấy.1926
Hoa Trà Đắng
Anh và cô là một đôi trúng tình yêu sét đánh. Ngay giây phút nhìn thấy nhau, anh đã coi cô là nữ thần của đời mình. Vẻ thanh tú và kiều diễm cùng hòa quyện trong người con gái ấy, anh nghĩ mình do ngẫu nhiên mà có phúc gặp được cô. Anh không quên nổi. Rồi thư từ qua lại, cây cầu tình yêu đã nối 2 phương trời. Hàng năm, trước tiết thanh minh, cô đều gửi từ đất Hàng Châu quê mình tới anh loại trà Minh Tiền. Hương thơm thoang thoảng của loại trà này khiến anh không thể nào không nhớ. Không ví nổi trà thơm như thế nào, chỉ có thể tưởng tượng hương trà như hương thơm thiếu nữ, khiến anh say mê không dứt nổi, khiến cô say mê không ngại ngần. Hai người trẻ vì tình yêu say mê, dù ở 2 miền xa lắc mà gìn giữ tình yêu qua 5 năm trời. Năm 23 tuổi, anh tới Hàng Châu cầu hôn. Anh không ngờ là cô gái thản nhiên cự tuyệt. Cô nói không muốn đi xa nhà. Anh khẩn khoản đề nghị sẽ về nhà cô ở rể, chỉ cần cô bằng lòng. Cô gái vẫn kiên quyết chối từ. Anh không hiểu ra sao, anh không tưởng tượng nổi chuyện tình từng hẹn thề cạn biển nát đá không phai lại thoáng qua như mây trôi vậy.
Một mình lủi thủi quay về, cõi lòng lạnh lẽo. Rất nhanh chóng, anh cưới vợ, sinh con, sống những ngày bình thường như vô số vợ chồng khác. Chỉ trong giấc mộng, đôi khi thấp thoáng bóng hình người con gái Hàng Châu kiều diễm xa vời. Mùa xuân thứ hai sau khi anh lập gia đình, anh lại nhận được trà Minh Tiền trước tiết Thanh minh. Vẫn hương thơm thanh khiết và quyến rũ như cũ, chỉ tình yêu là không như cũ mà thôi. Vợ hỏi anh, ai gửi thế? Anh đáp, một người bạn cũ, cô ấy biết anh thích uống trà Minh Tiền. Cứ vậy liền bảy năm. Anh âm thầm nâng giấc tâm tình người cũ, nhưng vẫn không rõ vì sao, đã cự tuyệt tình anh mà vẫn gửi trà để quyến rũ anh. Năm thứ tám, anh đi tìm câu giải đáp. Anh gặp lại, chỉ là nấm mộ. Em gái cô kể, năm ấy, khi anh tới cầu hôn, cô đã biết mình mắc chứng ung thư. Cô vẫn gượng thản nhiên nét mặt gặp anh, từ chối tình anh. Anh đi rồi, cô gục xuống tuyệt vọng, cô không muốn hủy hoại cuộc đời phía trước của anh, cô đành chọn sống những ngày cuối đời trong cô đơn tịch mịch. Cô hiểu rằng anh sẽ không thể quên được nên cô gửi gắm cho người em gái, hàng năm trước tiết thanh minh lại gửi trà Minh Tiền cho anh. Khi uống trà anh sẽ nhớ tới cô. Cô biết rằng, năm tháng trôi đi, người đàn ông trong anh trưởng thành lên, anh sẽ đủ nghị lực kìm nén sự bồng bột tuổi trẻ, anh sẽ rèn được bản lĩnh thản nhiên trong mọi vui buồn. Người em gái chỉ cho anh thấy những bao gói chưa gửi đi, trên đó còn ghi nét chữ của người chị, anh đếm được ba gói. Người em gái nói, chị cô dặn rằng sau mười năm thì không cần gửi trà cho anh nữa, bởi vì anh đã có hạnh phúc và hình bóng người con gái Hàng Châu đã nhạt nhòa rồi. Anh nhớ lại từng nét mặt, từng nụ cười của cô thuở ban đầu, nhớ tới những lá thư nhạt nhoè nước mắt có ghi những lời tỏ tình ngây ngô mà bền chặt. Cớ sao lại vỡ tan như mây trôi nước chảy thế này? hương trà còn thoang thoảng mà người thì tuyệt xa dấu hình. Trên máy bay, anh đề nghị cô tiếp viên mang cho anh một ca nước sôi, anh pha trà Minh Tiền của người con gái anh yêu, những lá trà tung tăng trong trong tách mãi mới chịu từ từ chìm xuống. Như là nước mắt tận đáy lòng anh vậy, một cơn sóng lui, một cơn sóng lại tới. Anh nhấp ngụm trà đầu tiên, vị chát sít mà lại đăng đắng, tựa như hoài niệm trong anh.. Ngụm trà thứ hai, chan chát pha ngòn ngọt, như ngày đầu yêu nhau tinh khôi. Ngụm trà thứ ba, không còn cảm giác ngạc nhiên, nhè nhẹ như gió xuân lay động. Anh hiểu ra, những kỷ niệm của anh về cô như ngụm trà thứ ba này, nếu anh sống không ra gì, sẽ uổng phí cả tấm lòng cô lo lắng. Chợt anh nhìn thấy trong đám trà một bông hoa nhỏ xíu, nó nhỏ mà xinh xắn biết bao, đã được phơi khô qua sương gió. Anh cho bông hoa vào miệng, nhấm nhấm, một chút đăng đắng lan tỏa. Bông hoa trà đắng nhỏ xíu này chính là cô chăng? Chọn chính lúc này để cùng anh tương ngộ, bông trà đắng khiến anh hiểu rõ nỗi khổ tâm của cô. Anh nhìn ra cửa sổ máy bay, như các hành khách khác, nhưng không phải để ngắm nhìn mây trôi từng cụm, mà là để cho những dòng nước mắt dạt dào mặc sức tuôn rơi.
Oct 21, 2007
Anh sẽ mua mèo khác cho em
Chồng đi làm về, cô vợ trẻ khóc sướt mướt kể:
- Em làm cho anh món bánh nhân thịt, nhưng em sơ ý để mèo ăn hết mất rồi!
- Nín đi em! Nếu có chuyện gì xảy ra với nó, anh sẽ mua cho em con mèo khác đẹp hơn.
1759
Cấm Nói Tục
Bữa cơm trưa đang diễn ra rôm rả. Bố ngồi uống rượu, mẹ và con vừa ăn, vừa nói chuyện học hành.
Con khoe với mẹ:
- Mẹ ơi, hôm nay cô giáo chúng con dạy bài toán phân số khó ơi là khó, sợ ơi là sợ...
Ông bố nghe đến đấy liền phùng má quát con:
- Im ngay! Ðồ láo toét, học với chả hành, đang bữa cơm mà mày dám nói chuyện phân ra đây à. Tao lại đánh cho vọt cứt ra đằng mồm bây giờ.
299Oct 20, 2007
Lẫn lộn đối tượng
Trong một quán rượu tại Alaska, cao bồi mới đến hỏi ông chủ quán:
- Làm thế nào để tôi có thể trở thành một người Alaska?
- Ồ! Dễ lắm
- Chủ quán trả lời
- Anh phải làm ba việc, thứ nhất là tu hết chai whisky trong một hơi. Thứ hai, bắn hạ một con gấu tuyết và cuối cùng là khiêu vũ với một người Eskimo.
- Chỉ thế thôi sao? Hắn nói và kêu một chai Whisky rồi tu một hơi hết sạch. Mọi người hò reo cổ vũ.
- Bây giờ đến... phần hai. Hắn tuyên bố rồi lảo đảo phóng đi. Dân nhậu đợi hắn đến gần nửa đêm, hắn quay lại với bộ áo rách như xơ mướp, mặt bị cào nát, máu me bầm tím:
- OK... Để thành người Alaska... bây giờ thằng Eskimo mà tôi phải... bắn ở đâu?
2320
Người Năm Cũ
Khi Hiên thôi học ở thành phố về, mướn căn nhà, treo cái bảng kẻ bằng bút lông lên giấy các tông "Viết hồi ký thuê" thì Hiên gặp lại người thương của má.
Bảy năm rồi, Hiên mới gặp ông. Ông ốm, xanh, ông không già
- Tôi muốn cháu viết cho người tôi yêu. Và viết thật.
Hiên thưa rằng Hiên sẽ viết thật nếu như ông nói thật. Ông lại cười. Má ơi?
Hiên thèm được viết thật dữ lắm chớ. Hiên vừa học vừa làm thêm việc viết hồi ký non hai năm. Hiên đã gặp nhiều khách hàng nghe họ kể về cuộc đời của họ. Ai cũng làm tỉ tỉ điều tốt, điều cao thượng hơi giống nhau, bày tỏ lòng nhân ái với thế giới, lòng thương mến với tất cả mọi người. Hiên nhận ra một quỹ đạo nhàm chán là không ai kể về những lỗi lầm của mình dù là từ thuở ấu thơ đã ngắt đuôi con chuồn chuồn đỏ nhét vào cọng cỏ hay về chú dế lửa bị mình nhốt trong cái lồng đất đã chết vì chật và buồn. Mà, Hiên cho rằng, hồi ký là phải thật, ai đời người ta lại gian dối với cả chính mình. Đôi khi cầm quyển hồi ký do chính tay mình viết ra, trình bày sạch sẽ, bìa đẹp, lật từ trang đầu tới cuối thấy người ta sống sao mà tốt quá, tốt thiệt, tốt đến không ngờ. Bạn bè cười vào cái ý nghĩ ngớ ngẩn của Hiên: “Thì tật con người ta vậy mà...”. Hiên biểu tin Hiên đi, thấy cuộc đời kiểu nầy không ham, không thấy vui đâu.
Ông không vậy, ông thủ thỉ với Hiên như một người bạn bên một người bạn thân thiết. Hiên cảm thấy cái quý giá nhất của họp đồng nầy là
Ông sống một mình trong một căn nhà rộng, mặt ngó ra một con đường nhỏ chạy vòng vèo quanh một hồ rộng nhân tạo. Vợ ông qua đời gần tròn bốn năm. Họ không có những đứa con trai, con gái. Ông bảo bà yếu ớt, hay đau bệnh lắm. Ông cũng đang bệnh, mỗi sáng, mỗi trưa và tối, Hiên thấy ông uống một vốc thuốc. Hơi thở của ông cũng phảng phất mùi kháng sinh. Hiên hỏi thăm ông bệnh gì, ông cười, bệnh nhỏ thôi, mai mốt hết. Hiên hơi bần thần. Cô vẫn cần mẫn đến nhà ông như mọi ngày. Sáng nào ông cũng rang cơm và chừa cho Hiên một chén. Ông rang cơm rất ngon. Hột com se lại, giòn tan. Mùi tỏi vàng trong dầu nóng xộc vào mũi.
Hiên thường bưng chén cơm ra ăn ngoài khoảng sân hẹp rụng đầy bông điệp đỏ và ngồi xuống cái băng đá đặt dưới bệ cửa sổ. Màu của buổi sáng trong ngôi nhà nầy mới trong trẻo làm sao, Hiên bảo:
- Sống một mình khổ thiệt. Cháu sẽ làm mai cho chú một cô. Thím cũng mất lâu rồi, phải không, chú?
Ông lấy tay vỗ vỗ đầu gối Hiên, tay ông to, nhưng mềm và lạnh lẽo:
- Thôi, cháu. Trễ quá rồi.
Hiên cười, chú vẫn còn trẻ chán. Ông chắc lưỡi, “tự nhiên thèm gặp một người” rồi quay sang hỏi Hiên có muốn nghe chuyện tình của ông không. Hiên còn chờ đợi gì mà không gật đầu. Hiên nhận thấy con người nầy luôn luôn vắt kiệt mình trong đám bùng nhùng thiện - ác, đúng - sai, giả - chân...
Cả trong tình yêu cũng vậy. Hai người ngồi trong cảnh buổi sớm đang vãi nắng lên cao.
Hiên tưởng như mình đang đi trên con tàu cuộc đời ông và
- Đó là thời đạn bom ác liệt, nhưng sáng nào cổ cũng chèo xuồng ra chi khu Rạch Ráng bán trầu. Tôi thương cổ từ ốp trầu cổ bó. Ốp trầu chắc nùi, hai đầu cong cong như mái đình làng. Những lá trầu xanh đằm lên nhau khăng khít không chèn lẫn một lá úa nào. Tôi thương cổ từ ngón tay cái bấm trầu đã mòn khuyết như trăng mùng tám. Tôi hoạt động trong vai một thầy giáo, “con” út của một bà má tiến bộ. Con trai má đi lính cho Ngô Đình Diệm đã bị tử trận, bà má đó quả quyết là con trai bà bị chính lực lượng cộng hòa dập pháo và bà muốn trả thù. Sáng nào tôi cũng ra bến chợ, xuống xuồng của cổ mua một ốp trầu cho “má”. Cổ không đẹp lắm, ừ, giống như cháu vậy, ở cổ luôn luôn lộ ra một nét duyên ngầm, càng nhìn càng thấy lạ, thấy thương. Cổ cũng thương tôi thiệt lòng. Ngặt cái cổ là con gái xã trưởng Ba Chi khét tiếng ác. Gia thế cổ là vậy. Cổ chấp nhận thương tôi mặc dầu cũng đoán được tôi ở phía nào trong cuộc chiến tranh này. Cháu cũng biết thân phận của tôi mà, ông nội tôi, ba tôi, các chú bác đều thoát ly đi làm cách mạng. Gia đình tôi phản đối dữ lắm. Tổ chức cũng không đồng ý. Nhưng lúc đó tôi còn trẻ, trẻ như cháu bây giờ, tôi nghĩ, tình yêu sẽ vượt lên tất cả.
- Cháu cũng nghĩ vậy, chú à.
- Hiên gật đầu.
- Nhưng cháu còn trẻ, cháu có hiểu không? Chiến tranh vốn đầy bất trắc. Nó để lại cho tôi một niềm đau, lâu quá rồi mà còn đau hoài.
Hiên cũng vậy. Hiên biết buồn nỗi buồn chiến tranh từ ngày còn bé. Tụi bạn chơi trò “Việt cộng đánh quốc gia” bao giờ cũng đẩy Hiên về phía giặc. Thằng Đen lớn nhất, nó chống nạnh cười khì khịt; “Mày phải ở “bên nó”. Má tao nói hồi đó ba mẩy đi lính quốc gia”. “Bên mình” bắn “bên nó” phẳng phẳng. Hiên cũng bắn lại phẳng phẳng nhưng Hiên phải chết. Có khi nằm trên ổ kiến lửa để chết, Hiên giật nảy lên, giãy dụa, thằng Đen đứng vỗ tay cười chưa xong đã khóc mướt: “Con nhỏ nầy chết y hệt ba tao”. Hiên cũng khóc. Những đứa trẻ như thằng Đen, như Hiên mới tí tuổi đầu đã bị súng bập dừa bắn vào trái tim thơ ngây. Đen thôi hồn nhiên và Hiên thì ngơ ngác chết.
- Người ta mong hòa bình một, tôi mong tới chín mười, cháu à. Sau Mậu Thân, cơ sở bị lộ, tôi rút vô cứ. Địch ra sức đ
- ... “Người thương có nghĩa trăm năm cũng về ” - Hiên buột miệng, rồi giật mình, cô quấy quá thêm
- Cháu đã đọc câu ca dao nầy ở đâu rồi, chắc là trong trường học.
Ông gật đầu, dường như chớm bàng hoàng, ông nhẩm lại “người thương có nghĩa trăm năm cũng về”. Mặt ông hơi tái đi.
- Vậy tôi không phải là người thương có nghĩa rồi, cháu ạ. Tôi đã có thật nhiều cơ hội nhưng rồi đã bỏ qua. Năm tám hai, tôi chuẩn bị làm bí thư huyện thì nghe tin chồng cổ vượt biên.
- Và chú phải lựa chọn, hoặc làm bí thư hoặc phải từ bỏ tất cả không ai chấp nhận chú lập gia đình với một người đ
Ông nhìn Hiên kinh ngạc, trong mắt ông ánh lên một niềm đau xót:
- Cháu biết nhiều như vậy để làm gì, cháu gái?
Hiên có muốn biết nhiều đâu, đời dạy cô vậy mà. Cô không trả lời câu hỏi, chỉ thốt lên:
- Trời đất ơi, sao chú lại có thể đem tình yêu ra mà bì với mấy cái đó. Cháu mà yêu ai, cháu sẽ vượt qua mọi trở ngại để tới với người ta.
- Cháu đã làm thử chưa?
- Rồi - Hiên quả quyết.
- Có một lần, tôi cũng đã làm như vậy. Tôi về thăm căn cứ. Chiếc tàu hì hụi về tới xóm đã chạng vạng. Tôi lúc đó không nghĩ tới chuyện gì khác ngoài chuyện tôi sắp gặp lại cổ. Khi tàu ghé dưới bực kinh nhà Tám Muốt, tôi thấy cổ bơi xuồng đi đặt đó. Xuồng nhỏ, bóng cổ nhỏ, một mình. Nhìn tôi, cổ mừng tới xuống nước mắt. Tối đó, sau khi ăn đã đời bữa cơm bông súng nấu canh chua cá nâu, mắm sống, tôi chống xuồng qua sông. Hôm đó, tôi hơi say. Chắc tôi ngộ lắm nên đứa con gái nhỏ của cổ cứ nhìn tôi hoài. Tôi ngả mình trên võng mà khói cứ bay nồng mũi. Tôi còn nhớ mình nói rằng không chấp chuyện đã qua, tôi không ngại đứa con gái lên sáu tuổi của cổ. Tôi nói rằng cơn mưa xưa đã đem nguồn nước cũ về đầm. Cổ nằm trên một cái võng khác, giăng xéo qua hai cây cột, đưa con gái ngủ. Cổ chỉ khóc, khóc thật nhiều mà có nói được gì đâu. Vậy mà hai đứa thức, thở vắn thở dài tới sáng. Bữa sau, tôi đi thăm những bà con trong xóm căn cứ cũ. Vườn sau sân trước hố bom chằng chịt hố bom. Bảy năm sau giải phóng mà xóm rất nghèo. Những gia đình cách mạng ngày xưa hết mình nuôi nấng, che giấu chúng tôi cuộc sống rất khó khăn, mặc dầu bông súng đã nở trắng hố bom, bầy vịt ta lội ngủng ngẳng. Cạnh nhà tường đạn bom cháy xém bà con dựng lại căn nhà lá. Tôi về than, bà con mình nghèo quá. Cổ nói với tôi rằng dù có chính tay họ làm hay không nhưng cha cổ, chồng cổ đã gây biết bao nhiêu tội ác, làm cho cái quê nhỏ nầy trở nên như vậy. Mà, có còn ai để giúp cổ trả món nợ nầy cho bà con, cho làng xóm, để cho cổ được ngẩng đầu lên nhìn cuộc đời mà không thấy mình có tội, ngoài tôi. Tôi thương cổ lắm, tôi quay lại, tự hâm nóng mình. Thời đó tôi sống tràn đầy hoài bão, tràn đầy thương yêu như cháu bây giờ, cháu gái à. Tôi chưa biết ham mê tước vị, quyền lợi. Rồi từ từ tôi mới biết cân nặng nhẹ, biết so đo. Tôi lấy vợ, mà, tội nghiệp tôi lắm, lấy vợ mà cũng so đo. Ông già vợ tôi là cán bộ tổ chức của tỉnh. Tới một ngày chợt nhận ra, quyền lực đối với tôi càng giống như cục mỡ rệu trong veo trong nồi thịt kho tàu ngày Tết, nhìn thì thèm, ăn quá ngán mà bỏ thì tiếc.
Ông cười sùng sục. Tiếng cười nghe xao động như quầy dừa rụng xuống hào ranh giữa buổi trưa vắng. Nhưng Hiên giật mình vì ánh mắt không hề có một niềm vui, nó sâu hun hút. Hiên thấy lòng mình lạnh hẳn. Cái nhìn ông lạnh như cái ao sâu phủ kín lục bình.
- Chú à, bây giờ cô ấy ở đâu?
- Cháu có biết xóm Trầu? Một cái xóm đẹp. Căn cứ cũ của chúng tôi. Tôi nhớ hoài, trước mặt xóm là một cái đầm nước gió ơi là gió...
Và một hàng dừa nước bên sông nghiêng mình soi đáy. Những ngày gió chướng về, nước trong vằng vặc như thấy rành rạnh từng sớ lá. Trên bờ kinh, dây choại mọc đầy, đọt choại xanh non nhuốt líu ra líu ríu níu bước chân người. Hàng bông bụp trước sân nhà nở đỏ. Con heo cỏ bụng bự đầy đất sục mũi vào đám rau diệu, rau chay. Sau vườn, dây trầu già leo cây cau ốm. Bầy kiến vàng liêu xiêu bò ra bò vào trên nhánh chanh giấy de ra mé ao. Và ở đó có má Hiên, một đời thầm lặng, hiền lành. Sớm sóm, ngồi xắt chuối quết nát trộn vòi cám cho bầy vịt xiêm ăn. Xẩm tối, má đốt nhang lên bàn thờ ông bà ngoại, đóng cửa, sập rèm. Má Hiên bị bức phải lấy ba Hiên tháng chín, tháng tư năm sau giải phóng miền Nam. Cái khoảnh khắc đó so với cuộc đời ngắn ngủi biết bao nhiêu nhưng đã trì níu cuộc đời má Hiên xuống. Mấy mươi năm, cuộc đời má như hủ sành bể nát, không mảnh nào ráp được với mảnh nào, phải làm hai, làm ba còn lấy keo chắp vá. Niềm vui chỉ những ngày cuối tuần, má Hiên trông từng chuyến tàu trưa, coi Hiên có về không? Một ngừơi quen cũ có về không? Khi ba Hiên đi học cải tạo ba năm, Hiên lớn lên không hề có ba mà không thấy tủi. Ba Hiên về, năm sau xuống tàu vượt biên, Hiên đã là một con bé lạ lùng, Hiên có thể rạch ròi chuyện từng chuyện một. Hiên nghĩ rằng ba ra đi là lỗi của ông, vì ông nghĩ rằng đất này không cưu mang, không liên quan tới chuyện mối tình xa gì gì đó của má. Hồi đó, mối tình đó chỉ là một ngọn lửa le lói cháy trong mắt má Hiên. Lạ sao, đến bây giờ, ngọn lửa vẫn không tắt và chưa bao giờ tắt. Có lẽ, người đời luôn luôn nuối tiếc những gì không tròn vẹn. Hiên vẫn không tin được, chỉ những lời hứa hẹn và một đôi lần nắm tay nhau (Hiên tưởng tượng cùng lắm thì hôn lên má nhau, nếu có thể) lại làm cho người ta nhớ lâu, nhớ sâu đến vậy. Mỗi lần xem ti vi, nhìn thấy ông thoáng qua, trên màn hình, má Hiên luôn cười rất nhẹ, kín đáo âm thầm. Cái cười nhỏ nhưng tràn đầy tình. Hiên có lần bảo, “Con mà thương ai thể nào con cũng lặn lội lại nói với người ta liền”. Má Hiên cười, “Con còn trẻ, má già rồi. Mà, má có xứng gì đâu...”. Hiên chợt nhận ra, thế hệ của mình đã khác, thế hệ mình sống nhẹ nhàng hơn thời của má nhiều.
Không biết bây giờ xóm cũ có còn như trước, cũng ba năm rồi tôi không về...
Ông trầm ngâm. Hiên nói với lòng mình. Không, cái xóm đó không bao giờ thay đổi được. Người ở xóm đó vẫn vậy. Chắc nó không khác được đâu, lúc nào nó cũng soi mình xuống đầm. Thấy mình khác một chút đã sửa lại.
- Lẽ ra bây giờ chú phải về xóm Trầu. Cháu chắc chắn là có người vẫn chờ đợi chú, chờ đợi tới trăm năm.
Ông bồn chồn ngước lên nhìn Hiên.
... Hai hôm sau, khi Hiên quay lại nhìn ông, nhà
Chỉ vậy mà họ có thể bứt khỏi nhau ra được sao, tròi đất quỷ thần ơi, những người lớn... Đường đời gang tấc mà vì nỗi gì mà
Oct 18, 2007
Cảm ứng từ
Trong giờ học lý, Mai quay sang mượn tập lý của Hoa chép bài, sau đó không hiểu chuyện gì cô ôm mặt cười, và đưa tập cho Nam chỉ dòng chữ, Nam cũng cắn chặt môi cười đỏ cả mặt.
- Các em xem bạn Hoa viết tắt chữ này nhé: C.Ứ.T, cả chương này chỗ nào tôi cũng thấy chữ đó, em Hoa sáng tạo thật.
Cả lớp được một trận no cười.
Lời nhắn với các học trò: Muốn sáng tạo, hãy cẩn thận!
1109
Oct 17, 2007
Vali của Gaiđa
Accađi Gaiđa là nhà văn viết cho thiếu nhi nổi tiếng của Liên Xô (cũ). Ông hay lui tới những vườn trẻ ở ngoại ô Matxcơva chơi với các em. Một lần, tiễn Gaiđa ra ga, các em đua nhau xách hộ ông chiếc vali. Đến nơi, một em hỏi nhà văn:
- Thưa bác, tại sao bác là người nổi tiếng mà chiếc vali của bác lại nhẹ và rỗng như thế này?
Gaiđa suy nghĩ rồi trả lời:
- Ồ! Không sao, bác chỉ sợ chiếc vali của bác nổi tiếng còn bác thì lại... nhẹ và rỗng!2456
Ai sợ vợ nhất?
Sư cụ ngồi đàm đạo với mấy người khách, có người hỏi:
- Trong đám ta đây, ai là người sợ vợ nhất nào?
Chưa ai đáp thì sư cụ đã nhận ngay.
- Kể sợ thì tôi đây sợ nhất.
Mọi người lấy làm lạ hỏi:
- Sư cụ có vợ đâu mà sợ?
- Tôi sợ đến nỗi không dám lấy vợ nữa!382
Oct 16, 2007
Đãng trí
Hai cô bạn đồng nghiệp ngồi tán dóc:
- Này, cậu không biết là chồng tớ đãng trí tới mức nào đâu!
- Có chứ! Đêm qua, tôi đã phải nhắc đi nhắc lại là anh ấy kết hôn với cậu chứ
không phải là với tớ mà.
Sau một đêm say đắm bên nhau, chàng hỏi nàng:
- Anh có phải là người đầu tiên của em không?
- Cũng có thể, em thấy anh quen quen.
413Oct 15, 2007
Bảng Ở Nhà Hàng
Có một nhà hàng thường đông khách, vì vậy việc nấu nướng phải thuê rất nhiều người và phải được chuyên môn hóa công việc. Một hôm, trên bảng phân công làm món thịt chim bồ câu, người đầu bếp đã ghi như sau:
"Cô Lan cắt tiết anh Hùng nhổ lông cô Ngọc luộc trứng anh Sơn mổ bụng cô Đào lột da anh Hải rửa chim cô Lài bóp mềm cô Thắm bằm nhừ cô Tuyết xào giòn".
Nhìn bảng, mọi người cười vỡ bụng. Chỉ vì thiếu các dấu phẩy.
Oct 14, 2007
Ban-dăc và kẻ trộm
Một đêm Ban-dăc quên không đóng cửa, ông đã vào nằm nhưng chưa ngủ. Một tên ăn trộm vào không thấy ai, bèn đi đến cái tủ, khẽ mở ra và lục tìm tiền. Bỗng tên trộm nghe nhà văn cười nói:
- Anh bạn ơi, mắc sai lầm lớn rồi. Anh đã đến vào đêm tối như bưng để tìm tiền ở nơi chính tôi, giữa ban ngày chói chang tôi cũng không bao giờ tìm thấy!2481
Người lười nhất
Bố hỏi con:
- Lớp học của con, bạn nào lười nhất?
- Con không biết bố ạ!
- Bố nghĩ con phải biết chứ. Con nghĩ xem, trong khi tất cả các bạn đều chăm chú làm bài, thì ai ngồi ngó nghiêng nhìn ra ngoài?
- Thầy giáo ạ!
Cô giáo nói với phụ huynh học sinh:
- Anh ạ, con trai anh học rất yếu môn địa lý.
Ông bố trả lời:
- Thế thì càng tốt! Nó sẽ không tìm thấy chỗ chúng tôi giấu tiền.30
Châm ngôn thời @
1. Tôi cưỡng lại được trước mọi thứ, trừ những cám dỗ.
2. Có tiền thì sướng hơn là nghèo, nếu xét về mặt tài chính.
3. Tôi nghĩ là tôi nên bắt đầu đọc thơ Shakespeare. Nhưng rồi tôi nghĩ lại, tại sao tôi phải làm thế? Hắn ta chưa bao giờ đọc một bài thơ nào của tôi cả.
4. Tôi từng có nhiều ham muốn, ham muốn quá nhiều thứ. Bây giờ tôi chỉ có một ham muốn, là làm sao loại bỏ được những ham muốn đó.
5. Vì tình yêu, người phụ nữ sẵn sàng hy sinh mình, còn đàn ông thì sẵn sàng hy sinh những người phụ nữ khác.
6. Nếu ta phải trả tiền cho người đẹp thì người đẹp ấy chẳng đáng giá một xu.
7. Tôi không hiểu dịch cúm gia cầm có ảnh hưởng thế nào tới những tin vịt?
8. Câu nói "không" vẫn là phương tiện tránh thai truyền thống tốt nhất.
9. Cái cười thành thực nhất là cười ruồi.
10. Thà để họ cười ta hơn là để họ khóc ta.
11. Thà nhận một ít tiền hơn là lời "cảm ơn nhiều".
12. Rượu vang có lợi cho sức khỏe, còn sức khỏe cần để uống rượu vodka.
13. Tất cả những gì báo chí viết đều là sự thật trăm phần trăm, ngoại trừ những sự cố mà quý vị trực tiếp chứng kiến.
14. Báo chí nói cho độc giả biết điều mà người ta không hiểu và dạy cho hiểu điều mà người ta không biết.
15. Báo lá cải có ích ở chỗ chúng dạy ta không nên tin vào chúng.
16. Trí tuệ nhân tạo chẳng là gì so với sự ngốc nghếch tự nhiên.
17. Người thông thái viết những câu châm ngôn, kẻ ngu dốt lặp lại chúng.
18. Người hiểu biết thì nói chuyện với anh, người thông thái thì lắng nghe anh.
19. Cho anh ta một con cá, anh ta sẽ ăn trong một ngày. Dạy anh ta câu cá, anh ta sẽ không làm phiền anh suốt một tuần.
20. Mỗi khi tôi buộc phải chọn lựa giữa hai tật xấu, tôi thường chọn cái mà tôi chưa bao giờ được thử.
26
Oct 13, 2007
Điều Kỳ Diệu
1. Dung nói, bằng một dáng vẻ vui mừng thái quá, khác hẳn với thói quen e dè thường ngày : "Em vừa chích ngừa xong, thứ hai đến là lấy vé máy bay. Anh mừng cho em đi !". Tôi nghe bằng một cảm giác nhạt nhẽo, không buồn không vui, trong đầu đang có một tiếng nói rã rời : thế là hết, hết thật rồi, tự hỏi : việc gì mà Dung phải tỏ ra vui mừng thái quá như vậy, tôi và Dung hiểu nhau quá rồi mà ! Con đường dẫn đến công viên bờ sông buổi chiều nay sao vắng vẻ quá, lặng lẽ quá. Tôi muốn la hét hay làm một điều điên khùng nào đó vì những ý nghĩ không nói ra được, nhưng rồi lại gật gù : "Anh chúc mừng Dung !". Chợt thấy đau lòng : bây giờ Dung, cả tôi nữa, cũng khác trước lắm rồi, hình như đã bắt đầu sống không thật lòng với nhau như những người xa lạ rồi thì phải...
Mùa hè, trời oi bức, ở chiếc ghế đá nhìn ra sông không có một ngọn gió. Chúng tôi đến đây, chỗ hẹn cũ, bằng hai chiếc xe máy đời mới bóng loáng, sao có chút gì lạt lẽo, không hề giống như cái thời tôi đèo Dung đi khắp nơi bằng chiếc xe đạp cà tàng của tôi. Cũng chiếc ghế đá này, ngày xưa chúng tôi đã háo hức gặp nhau đến bao nhiêu, lúc này đang là chứng nhân của một cuộc chia tay, dù lòng chẳng muốn, một cuộc chia tay mà Dung đã chuẩn bị hàng năm trời, với một quyết tâm tưởng như không có gì lay chuyển nổi. Trời nóng quá, hình như Dung hơi căng thẳng thì phải. Trên trán Dung lấm tấm mồ hôi, tôi những muốn đưa tay lên lau trán Dung, chợt nghĩ : mình bây giờ có còn được phép nữa đâu, lại thôi. Tôi định nói một câu thật cay độc với Dung, có gì mà em vui vẻ thế, nhưng rồi lại buông một câu hiền lành : "Sang bên đó nhớ viết thư về cho anh.". Có lẽ suốt đời, tôi là một thằng chẳng làm được điều mình muốn, luôn luôn để tuột khỏi vòng tay những cái tưởng đã của mình vì cái tính lần khần, thiếu quyết đoán ở những lúc cần thiết...
2. Dung gởi cho tôi tờ lịch ngày Dung lên máy bay, như một lời từ giã, không kèm theo một dòng nào, chữ ký cũng không, khác hẳn thói quen thường lệ của Dung. Tôi cầm tờ lịch săm se, cũng giống như bao tờ lịch khác, in hình một cánh hoa chìm, màu sắc loang lổ nhòe nhọet, tôi không nhận ra là loại hoa gì, trên nền cánh hoa là con số 23 to tướng, 23 tháng 6, ngày Dung đi. Chợt nghĩ : suy cho cùng, cũng là một tờ lịch vô tri thôi, bỗng dưng trở thành kỷ vật, thành đồ quý giá. Trên tờ lịch có in một câu danh ngôn, như muôn ngàn câu danh ngôn khác được in trên lịch kèm với những từ "lập xuân", "tiểu thử" dự báo thời tiết : "Sớm hay muộn, người ta đều phải trả giá cho những điều đã làm.". Có một lần Dung hỏi tôi : "Anh tính sao chuyện của tụi mình ?", tôi đã cười bâng quơ như thể chuyện đùa. Ngày đó tôi ngây ngô quá, chưa quyết định được những sự kiện lớn lao của cuộc đời mình nên đã khỏa lấp cho qua, đâu biết bây giờ tôi phải trả giá đây, tôi hối hận lắm rồi đây. Dung như một cánh chim chỉ đậu xuống một lần thôi, rồi đi, không hề quay trở lại dù sau này tôi có nhiều lần nói chuyện nghiêm chỉnh với Dung. Câu cửa miệng của Dung là : "Mọi chuyện lỡ hết rồi !", sao tôi thấy sao Dung tỏ ra cố chấp quá mức, sao yêu thương nhau mà người ta cứ luôn thích làm khổ nhau...
3. Dung viết thư về cho tôi, thăm hỏi ân cần, cuối thư khuyên bằng một giọng khá chân thành : "Anh lo cưới vợ đi, đừng lông bông nữa ! Anh cũng lớn rồi, không chần chừ được, rồi thì ai cũng thế cả.". Một kiểu khuyên bảo của người lớn dành cho trẻ con, không phải là câu nói của một người yêu dành cho người yêu. Vậy thì thứ tình cảm lâu nay giữa tôi và Dung, cái quan hệ mà lâu nay tôi vẫn luôn gìn giữ đó là gì ? Dung vẫn biết mà, tôi đâu có yêu thương ai ngoài Dung. Hay hớm thật ! Bất chợt tôi nhận ra chuyện của mình bây giờ cũng gần na ná như mấy chuyện tình vớ vẩn trong phim Hồng Kông mà ngày xưa mình ghét cay ghét đắng. Tương tự mấy câu hát rẻ tiền vẫn hay hát trêu nhau : "Về đi, kẻo người ta chờ, kẻo người ta mong. Kìa một chiếc xe hoa đang chờ em đó...". Mới thấy đâu phải lúc nào mọi chuyện cũng rõ ràng như một cộng với một bằng hai được...
Dung bây giờ xa xôi quá, thư từ thì chậm như rùa bò, lương của một nhân viên văn phòng mèn như tôi đâu cho phép một cú điện thoại sang Mỹ nói toạt với Dung mọi chuyện. Tôi vẫn thường nghĩ tình yêu không phải là một thứ để cầu xin, cục tự ái trong tôi luôn luôn cao như cái núi, vậy mà bây giờ lại có cảm giác sau này, mình chẳng thể nào gặp ai được như Dung, bây giờ không làm cho Dung hiểu mình được thì sau này chẳng còn lúc nào nữa. Tôi tự tin lắm, bao nhiêu cô sẵn sàng chờ tôi nói một câu đấy thôi, sao trong chuyện này vẫn thấy mong manh quá. Tôi đâu nghĩ mình sẽ cầu xin Dung, mà chỉ thấy mình phải làm một điều gì đó để giữ tình yêu lại, bàng hoàng nhận ra đã khá lâu, hình như không còn là của mình, cho mình. Lần đầu tiên tôi có được cảm giác của một người đang chạy đua trên chặng đường dài, mệt mỏi, cạn kiệt, thấy đích đó mà không sao vươn tới được...
4. Tôi đã từng mơ mộng nhiều về một cuộc hôn nhân vì tình khá lý tưởng, vợ chồng yêu nhau, cho dù có gặp bất kỳ khó khăn trở ngại nào thì vẫn yêu nhau. Đoàn cười : "Mầy sống trên mây vừa vừa, có chết già cũng không tìm đâu ra được vợ.". Tôi không tin Đoàn, không bao giờ tin lời Đoàn nói, khi ngày ngày, tôi vẫn chứng kiến bao nhiêu cặp yêu nhau đến thế. Lại băn khoăn, liệu với tình cảnh như hiện tại, sau này cưới nhau, tôi và Dung có tìm được hạnh phúc... Dường như trong tôi luôn có những ước muốn trái ngược nhau, nửa thế này, nửa thế kia, chẳng thể nào rạch ròi được, muốn được cả mà không dám dấn thân. Như trong bóng đá, tôi chỉ luôn luôn có thể là khán giả, ngồi trong khán đài hò hét, thèm muốn, nhưng lại không dám nhận lãnh chiếc áo cầu thủ bước ra sân. Phải chăng, tôi là người không có khả năng mang lại hạnh phúc cho ai khác ?
Tôi vẫn đi về trên những nẻo kiếm tìm hạnh phúc cho riêng mình, không còn Dung ở gần bên, cuộc sống tưởng khác đi nhiều mà thực ra chẳng khác trước là mấy. Thảng hoặc, không rõ ràng lắm, trong tôi vẫn vấn vít cái cảm giác hình như tôi đã tự huyễn hoặc về những điều Dung mang lại cho đời sống của mình. Ngày có Dung, cảm giác cô đơn trong tôi đôi lúc vẫn tràn ngập, chỉ có khác đi, ngày đó, tôi còn có được viễn cảnh hạnh phúc cùng Dung chờn vờn trước mắt. Bây giờ thì cái viễn cảnh ấy cũng không còn, nỗi trống vắng trong tôi ngày càng dày thêm. Tôi kiêu ngạo lắm, luôn giấu kín nỗi trống vắng cho riêng mình. Để thấy ngày mình càng già cỗi đi, chấp nhặt và cầu toàn hơn mà chính mình cũng đâu phải là khối hoàn hảo...
5. Ngày đầu năm, Dung điện thoại về chúc Tết, lần đầu tiên Dung điện thoại về, tiếng cười trên phone vễn thế, trong vắt và ngọt ngào : "Em nhớ Đà Nẵng lắm, nhớ bạn bè lắm.". Có một nỗi gì đó thật ngọt ngào len lỏi trong tim tôi. Còn anh thì sao ? Đây có phải là điềm báo tốt lành trong ngày đầu năm ? "Em ở bên này buồn lắm, lạc lõng lắm. Ra đi, mới thấy mình mất nhiều thứ quá !". Thì anh vẫn còn đây, nguyên vẹn như ngày xưa, đang nghe em nói ! "Sao anh chẳng kể gì về anh cho em nghe cả ? Anh có còn giữ tờ lịch em tặng anh ?". Vẫn còn y nguyên, vẫn nhớ y nguyên : Sớm hay muộn, người ta đều phải trả giá cho những điều đã làm. Dung cúp máy rồi, tôi vẫn không nói được với Dung một lời cho ra hồn. Rồi không dưng thấy mắt mình cay cay, đừng mà, hôm nay là ngày đầu năm, có Dung phone về chúc Tết !
Tôi ngồi lần hồi giở từng kỷ vật của Dung ngày xưa, nâng niu trong bàn tay. Đây là chiếc ví da Dung tặng trong dịp sinh nhật, kia là mảnh giấy nhỏ Dung viết hồi mới quen nhau : "Anh nhớ rửa rau sống bằng thuốc tím trước khi ăn", đây nữa, cuốn nhạc Phú Quang nhân lần Dung đi Hà Nội chơi và gần nhất là tờ lịch ngày Dung đi, không một dòng, không chữ ký, ngày cuối cùng Dung còn ở Việt Nam, mà bây giờ tôi mới hiểu. Chợt thấy chùng lòng, có một thời, tôi nghiễm nhiên đón nhận những săn sóc của Dung như một bổn phận phải có, lâu lắm rồi, cuộc sống tôi dường như không còn những điều nhỏ nhặt nhưng quý giá như thế này. Mới thấy, nếu không biết nâng niu, rồi mọi điều quý giá cũng sẽ bỏ ta mà đi. Tôi lần giở từng trang cuốn nhạc Phú Quang, bắt gặp bài hát ngày xưa Dung thích, cứ bắt tôi tập để hát cho Dung nghe : "Người yêu ơi, dù mai này cách xa. Mãi mãi diệu kỳ là tình yêu chúng ta...", cố nén một nhịp tim đang run lên nhè nhẹ. Em có còn điều kỳ diệu nào dành cho anh không Dung ? Bây giờ đang là mùa xuân, sáng nay, hiên nhà anh nắng vàng lắm, rực rỡ lắm. Anh ngồi đây, mơ về một nơi xa lắc, và nắng, nắng sẽ làm cho băng giá trong tim em tan đi ?
Oct 12, 2007
Em muốn ly hôn
Nhân kỷ niệm 10 năm ngày cưới, chồng âu yếm hỏi vợ:
- Em có thích một chiếc áo bằng lông thú không?
- Không.
- Anh sẽ mua tặng em một chiếc Mercedes nhé?
- Không.
- Hay là anh cho em một ngôi nhà nghỉ mát trên núi?
- Không... Người chồng chịu thua:
- Vậy em hãy nói thẳng, em thích cái gì, chúng ta sẽ giải quyết nhanh.
- Em muốn ly hôn.
- Trời! Anh đâu có dự kiến sẽ chi nhiều như thế!
1742
Những Dấu Chân Chim
Ðể nhớ lại những ngày tại trại tỵ nạn Songkhla.
Hồi mới nhập trại Songkhla, chị Năm được phân phối cho một khoảnh nhỏ ở cuối một dãy lô lều. Thấy chị độc thân, đi một mình, ông trưởng ban tiếp cư ghép thêm vào form của chị một con bé lên sáu. Chị Năm vui vẻ nhận ngay:
- Con bé này đi cùng ghe, tôi biết. Gia đình nó lúc lên ghe đâu ba bốn người. Bây giờ chỉ còn mỗi một mình nó, tội nghiệp!
Trên giấy tờ, mọi sự dàn xếp như thế là ổn thỏa. Ông trưởng ban Tiếp cư xoa tay hài lòng về phương cách giải quyết hữu hiệu của mình. Trong vòng hai tháng qua, có nhiều trường hợp tương tự như thế xảy ra. Chưa bao giờ có một sự khiếu nại nào về chuyện nơi ăn, chốn ở. Ðồng bào mới ở ghe lên, ít nhất cũng được ban Tiếp cư chiếu cố giải quyết một lần. Còn sau đó, có những vụ sang đi, bán lại chỗ ở trong lô lều là do ý thích riêng của từng người. Ðã tới bến bờ Tự do rồi mà ! Mà nói cho ngay, những vụ sang, bán lén lút này dù có muốn theo dõi để nắm vững nhân số trong từng lô lều, nhưng ban Tiếp cư dẫu có tài thánh cũng chẳng thể kiểm soát nổi. Sổ sách của Ban Ðiều Hành trại do đó chỉ có giá trị thực tế trong vòng một, hai tuần lễ, còn sau đó thì vô phương có thể chiếu theo sổ sách để điều hành nhân sự trong trại được.
Nhưng dù như vậy, thì chiếu theo sổ sách của Ban Tiếp Cư, con bé lên sáu tuổi, tên Nguyễn thị Bích Loan đang sống chung với bà Phan thị Năm, hai mươi tám tuổi tại sạp số 18, thuộc dẫy A, khu lô lều số 17. Lý lịch của nó được ghi là :
- Ði ghe Rạch Giá, mang số EQ 1246.
- Bố mẹ, anh chị em đều chết trên biển.
- Không còn ai thân nhân. Chị Nguyễn thị Năm nhận về coi sóc.
Cuộc sống ghép chung như thế kể là tạm ổn.
Cái điều mà mọi người lo lắng về nó nhất là sợ con bé nhớ bố, nhớ mẹ, nhớ chị sẽ khóc dai làm phiền lòng hàng xóm, vậy mà lại không xẩy ra. Hình như cái thời gian kêu gào thảm thiết, gọi tên người thân đã qua đi từ hồi còn lênh đênh trên thuyền và ở phòng tạm trú của trụ sở Cảnh sát Thái lan. Vào đến đây, con bé đổi tính, suốt ngày chỉ ngồi lì và câm như một con hến. Hôm dẫn nó về khu sạp của mình, chị Năm dặn dò, hơi lớn tiếng một chút cho mọi người nghe thấy:
- Theo tao, ngoan ngoãn, tao nhận làm con nuôi.
Nhiều bà con cùng lềâu, thấy hoàn cảnh của nó, đem lại cho bao nhiêu là thứ : quần áo, chăn mền, bánh kẹo và những gói mì ăn liền. Chị Năm xếp dọn riêng cho nó một góc ở đầu giường. Chị dặn dò:
-Ðây là chỗ để kem đánh răng, bàn chải. Ngủ dậy thì xếp gọn cái mền lại để ở góc này. Còn những gói mì thì tao để trong cái túi giấy chỗ ni, hễ đói thì đi xin nước sôi ngoài quán mà bỏ mì vô. Chả có nước sôi thì xé cái bao ra mà ăn khô cũng được. Ăn xong nhớ đem bát đũa ra giếng bơm mà xin nước rửa cho sạch sẽ. Còn đôi dép này, tối đi ngủ nhớ nhét lên đầu sạp kẻo có đứa nó thò tay ở ngoài vào lấy đi thì chỉ còn nước dẫm đất ....vân... vân...
Sự chu đáo của chị làm mọi người mừng thầm cho con bé. Như thế chả hơn một lũ lau nhau tối ngày chạy đầu lều, cuối bãi, cũng toàn là những đứa thất lạc gia đình, bơ vơ, lạc lõng cả, mà đâu có ai đoái hoài tới.
Câu chuyện đau thương của chiếc tàu nhập trại trong đó có "một con bé lên sáu bị chết hết cả gia đình" gây xôn xao trong dư luận bà con được vài hôm thì lại có những chuyến ghe khác nhập trại. Ðau thương lại dồn dập, chồng chất, nhiều đến nỗi vùi lấp luôn cả hình ảnh của một con bé, loắt choắt như một con chuột, suốt ngày ngồi ở dưới chân chõng nhà chị Năm, hỏi năm bẩy câu mà cũng không hề hé răng. Riết rồi chẳng còn mấy ai bận tâm đến nó, trừ những con ruồì cứ lăn xả vào, bám riết lấy mái tóc rối két lại của nó, khuôn mặt nhếch nháp có hơi hướm cái vị mặn mặn của mồ hôi hay mì gói, và nhất là ở những vết trầy trụa trên cánh tay, bàn chân có chỗ vẫn còn mưng mủ chưa lành.
Buổi tối đến chị Năm ôm một tấm chăn, nằm khoanh tròn quay ra mé cửa lô lều vừa nghe nhạc, vừa ngủ lơ mơ. Con bé cũng rúc đâu đó ở dưới chân chị, nhiều hôm ngủ mê, nó đạp chân ra khỏi cái mùng tùm hụp, bị muỗi nó đốt đỏ cả cẳng chân như bị lên sởi.
Rồi có một hôm trời trở lạnh, buổi tối sắp đến giờ trại tắt đèn, con bé đang ngủ thì bị chị Năm lay dậy, ghé vào tai nó thì thào:
- Xí! Cái con bé này! Mầy mắc cái giống gì mà ham ngủ quá vậy? Ðây tao cho hai đồng chạy ra ngoài quán mua cái kẹo mà ngậm chơi, chừng nào tao "hú" thì hãy về.
Nói rồi, chị Năm kéo hai tay con bé, dựng nó dậy và dúi cho nó một đồng Bạt (tiền Thái) lẻ. Con bé mắt nhắm, mắt mở cứ như một cái máy, loạng choạng chui ra khỏi cửa lều. Làn cát ẩm dưới chân làm nó tỉnh hẳn ngủ và nhớ ra rằng mình còn chưa kịp xỏ chân vào đôi dép nhật xinh xinh màu đỏ mà trước khi lên chõng, nó vẫn có thói quen nhét ở đầu giường. Nó cũng nhớ mang máng rằng đồng bạc mà dì Năm vừa dúi cho nó cũng đã bị văng đâu đó ngay ngoài cửa lều. Nhưng làm sao kiếm vì trời tối thui. Dưới ánh sáng đục lờ lờ của bầu không khí bao phủ một làn sương mỏng phản chiếu ánh trăng suông xuyên yếu ớt qua những lớp mây mù chỉ thấy hiện ra mờ mờ những sô nước, những dây phơi quần áo, những cột hàng rào chăng kẽm gai và những mái lô lều nhấp nhô cao thấp.
Nhưng rồi bằng cách nào đó, con bé cũng mò được tới bên hông nhà thờ, một ngôi nhà gỗ được xây cất thô sơ như cái nhà lồng chợ nơi thôn dã. Ấy vậy mà ở đây cũng lổng chổng đủ thứ bàn ghế thấp tè đặt ở mé ngoài, ngay sát vách gỗ. Nó thuộc quyền sở hữu của một hai quán cà phê, sau khi tan lễ nhà thờ thì chủ nhà bầy biện bánh trái, nước ngọt, cà phê ra bán. Ban ngày khách ra vô cũng khá tấp nập, đến khuya tới giờ Trại bắt tắt đèn đi ngủ thì những cái bàn được xếp ngay ngắn lại và vẫn có nhiều người lui tới, vừa dựa lưng vào vách gỗ của ngôi giáo đường, vừa ngó đăm đăm ra bãi biển có tiếng sóng vỗ rì rào ngay phía trước mặt. Trong khi ấy, ở bên trong nhà thờ, những chiếc ghế gỗ dài đã trở thành chỗ ngả lưng của những kẻ lang thang, có người mới nhập trại chưa được ban Tiếp cư xếp chỗ cho vào lô lều, cũng có nhiều đứa trẻ không thân nhân, chẳng được ghép vào form nào thì thỉnh thoảng cũng tụ tập trò chuyện rỉ rả với nhau.
Con bé Bích Loan cũng biết mò tới nơi đó mỗi lần bị chị Năm dựng dậy một cách bất tử. Tình trạng nó bị gọi dậy đang khi ngủ, trước thì chỉ họa hoằn đôi ba bữa, sau trở nên thường xuyên hơn. Mà mỗi lần chị Năm cần sự tự do thoải mái trên chiếc sạp buông cái màn tùm hụp của mình, chị cũng chẳng thấy cần thiết phải dúi cho con nhỏ đồng bạc ăn kẹo nữa. Chị chỉ ghé vào tai nó, nói một câu gọn lỏn:
- Tối nay ra ngoài chơi như bữa hổm, nghe mầy!
Thế là con bé nhỏm dậy. Bây giờ thì nó không quên xỏ chân vào đôi dép Nhật màu đỏ và ôm theo cái mền chưa một lần được giặt kể từ ngày nhập trại. Những hôm như thế nó hay ngồi ở bên hông nhà thờ, mặt quay về phía bãi biển mênh mông mà vào ban đêm nom như một cái miệng hang khổng lồ, tối thăm thẳm và có chiều sâu hun hút.
Biển. Cái danh từ nghe khủng khiếp thật, nhưng ít ra là nó cũng còn gợi nhớ được ở đấy những hơi hướm của người thân với những hình ảnh không bao giờ có thể phai mờ: người này chới với trên mặt sóng trước khi bị nhận chìm, kẻ kia bị chém, máu loang lổ làm át cả màu xanh của nước lóng lánh như ngọc bích. Và trong tiếng sóng ầm ì từ xa vẳng lại, nó như còn nghe rõ tiếng mẹ và chị của mình la thất thanh giữa đám đông lố nhố.
Con bé thường hay ngủ gục ở bên vách gỗ nhà thờ giữa những hình ảnh và âm thanh lộn xộn đó. Vào một đêm mưa rả rích, nó choàng dậy trong những tiếng ồn ào ở bên kia vách gỗ. Nó leo lên mặt bàn để nhìn qua những chấn song gỗ của ngôi giáo đường. Nó trông thấy trên bục giảng, dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn yếu ớt hắt xuống từ cây thập tự giá ghép lại bằng hai mảnh gỗ thùng đã được bào cho nhẵn bóng, một lũ trẻ nằm ngồi lố nhố.
A! Thì ra ở bên lề cái xã hội khốn cùng này, không chỉ có một mình nó! Trời mưa làm lũ nhỏ như những con chuột rời bỏ hang ổ, kéo nhau về đây tụ tập. Có đứa ở trần. Có đứa khoác những chiếc áo tây rộng thùng thình. Có đứa cuộn tròn trong những tấm mền, có đứa chỉ đeo đúng một mảnh quần lót.
Con bé cảm thấy gần gũi ngay với bầu không khí ồn ào vô trật tự diễn ra ở ngay cái chỗ mà ban ngày thì được dùng làm nơi chốn trang nghiêm, thờ phụng này. Có lẽ vì đa số đều lau nhau ở cùng cỡ tuổi nhóc tì, thằng lớn nhất chỉ khoảng mười ba, mười bốn, đứa nhỏ nhất bé bé, xinh xinh còn hơn cái Loan nữa kìa. Chúng nó chỉ chung nhau ở có mỗi một điểm. Ðó là tất cả những người thân đều đã mất tích hay trôi giạt đâu đó ngoài biển khơi. Hình ảnh mấy đứa bé nằm ngủ khoèo, đầu đứa này gối lên cẳng chân của đứùa khác, làm cho cái Loan cảm thấy mình bớt bơ vơ. Nó tụt xuống khỏi cái bàn thấp và lẻn vào đứng dựa lưng, cạnh một chiếc cột tre.
Con nhỏ cũng khôn ra gì, nó ướm sẵn, nếu lũ trẻ trên bục gỗ biểu lộ một cung cách gì dữ dằn, độc ác thì nó dư sức để ù té chạy. Nó biết một chỗ thứ hai có thể ẩn núp một cách an toàn, đó là cái vỏ thuyền của dân tỵ nạn nằm phơi những mảnh ván mục đầy rêu phong ở ngoài bãi cát phía cuối trại. Nhưng lũ nhỏ không thấy có dấu hiệu gì gọi là sẵn sàng gây hấn với nó cả. Nó mon men tiến lên một hàng cột nữa, và lần này thì có đứa lên tiếng:
- Cho nó lên đây nằm, ở ngoài mưa tạt ướt.
Một đứa con gái dễ lớn hơn Loan đến bốn năm tuổi, xòe bàn tay ra. Thế là con bé chạy ù lên nhập cuộc.
Trời rả rích mưa buồn. Gió từ bãi biển lùa qua khuôn cửa tuềnh toàng tứ phía làm mấy đứa rên lên kêu rét. Một cuộc "góp chăn" đắp chung được bầy ra và con bé cũng gỡ cái chăn vẫn đang đeo dính trên vai của nó đem trao cho thằng lớn nhất. Bây giờ cả đám chúng nó trở thành những đống lùng bùng, co quéo dưới lớp chăn mỏng.
Ðấy là một buổi tối vui nhất của con bé kể từ ngày nhập trại. Nhiều hôm sau đó, chúng nó trở nên thân thiết với nhau hơn. Nếu trong trại, người lớn thường tổ chức làm chung, góp chung để mời nhau tham dự những buổi ăn cháo, ăn chè thì lũ nhỏ cũng có hôm sì sụp, nhai nhá chung với nhau những tấm bánh, gói kẹo. Rồi chúng nó kể với nhau um sùm đủ thứ chuyện: chuyện công an, bộ đội, chuyện Tổ trưởng dân phố, Tổ phó an ninh, có cả chuyện kinh nghiệm nằm tù vì vượt biên bị đổ bể (trong số này ít nhất cũng có năm, sáu đứa đã theo gia đình nếm mùi nhà tù trong trại giam ở quê nhà), rồi chuyện hành trình trên biển, chuyện sinh hoạt ở các quán cà phê, các sạp bán đồ ở khu chợ của người Thái Lan phía ngoài cổng trại.
Con bé Loan thì chẳng có chuyện gì để kể, nhưng nó lãnh phần ôm một con nhỏ lên bốn vào lòng để cho thằng anh của nó vừa kể chuyện, vừa múa may chọc cười cho cả lũ. Trong cả bọn, thằng nhỏ này láu lỉnh và có máu giễu nhiều nhất. Nó tên Lâm, vượt biển với bố mẹ và đứa em gái. Lúc ra bến bãi, động ổ thế nào mà công an bắn loạn xạ. Thế là cả đám chạy tứ tán và chiếc ghe chưa kịp lên hết người đã rồ máy bỏ chạy. Thằng Lâm cùng con em gái lạc tuốt bố mẹ, qua được tới đây. Hôm nhập trại, nó đứng chung form với ông chủ ghe để được điều vào ở trong lô lều. Trong cái áo lót nó mặc, bố nó còn ghi được địa chỉ của bà cô họ của nó ở bên Huê kỳ.
Ông chủ ghe xúi nó viết thư cho bà cô để bà chuyển tiền về trại trả nợ cho chuyến vượt biển mà anh em nó còn thiếu. Thằng Lâm không chịu. Thế là cãi nhau tán loạn cả lên và nó ôm phứt con em ra khỏi lô lều.
Càng sướng! Càng rộng cẳng, muốn làm chi thì làm. Nó mới mười hai mà khôn tổ. Nó lén lên gặp anh Dư ở ban Tiếp Cư để đòi phát gạo cho riêng nó một "phom". Rồi nó lại ngoại giao được với cụ lô trưởng để mỗi khi có đồ ăn phân phối thường là cá, những con cá to bằng vài đốt ngón tay với vài củ su su thì cũng đừng quên phần của anh em nó. Có gạo, có đồ ăn, nó gửi bà bán quán cho anh em nó được góp phần gạo nấu ăn ké. Bù lại, nó cũng lăng xăng rửa được cho bà chồng bát, bó đũa. Lâu lâu nó không quên "chọt " của bà chủ quán một gói kẹo, một bọc xôi hay lon chè đem về cho con em gái. Lũ trẻ thèm ăn chè lắm. Nói cho ngay, ai mới ở ghe lên cũng đều thèm của ngọt hết. Kẻ có tiền, nấu chè ăn rả rích cả tháng mới đã thèm. Còn những đứa nhỏ không thân nhân, lâu lâu mới có dịp chia nhau sì sụp một, hai túi chè, vị ngọt ngọt của đường, vị béo ngậy ngậy của đậu xanh, đậu đỏ hay bột lọc có pha thêm mùi vanille, bao giờ cũng là những điều mà chúng nó mơ ước.
Ngoài món chè ra, nhiều đứa còn thèm đủ thứ đồ ăn bầy la liệt ở quán hàng hay sạp chợ. Ngôi chợ nhỏ xíu bằng cái vạt của một khu gò thấp nằm ở phía bên ngoài hàng rào kẽm gai được dựng lên hàng chục khung lều nhỏ. Vào mỗi buổi sáng, dân địa phương thường đem đến bầy bán đủ loại mặt hàng. Chợ họp mỗi ngày có hai tiếng đồng hồ, nhưng người ra vô đông nghìn nghịt vì tiếng là dân tỵ nạn nhưng khối người rủng rẻng vì có thân nhân ở ngoại quốc gửi cho qua hình thức International Money Order và trong trại có hẳn một dịch vụ đổi qua tiền Thái.
Mấy thằng nhỏ trong đám trẻ lang thang, tuy chẳng có tiền cũng chen chân vô đó để nhìn, ngắm, tò mò coi cái này, cái kia, và cũng có hôm cơn thèm lên bất tử, có đứa chơi càn chọt cái áo thung, đôi dép Nhật hay nải chuối, miếng thịt. Một lần thằng Cư xui xẻo, vừa thò tay vô sọt trứng đã bị chủ hàng rình sẵn túm lấy nó, la rầm rĩ lên. Mọi người xúm xít lại, có anh tỵ nạn nóng nẩy táng cho thằng nhỏ ba bốn cái bợp tai về cái tội "làm mất thể diện quốc gia". Nhưng có người lại nói:
- Chuyện đâu còn có đó, ai có quyền gì mà đánh nó. Cứ giao nó cho cảnh sát Thái Lan là xong hết.
Thế là chỉ nhấp nháy, một viên cảnh sát xuất hiện. Ông ta mập như một con heo, trên tay lúc nào cũng lăm le cái roi tre sẵn sàng quất lên đầu lên lưng dân tỵ nạn, tác phong không khác gì một anh cập-rằng ngày xưa cai trị dân thuộc địa bằng roi vọt. Thằng nhỏ bị xách lên như một con mèo ốm, rồi vừa dẫn nó đi, viên cảnh sát vừa quất vào đít thằng bé những lằn roi đến nơi đến chốn khiến nó cảm giác như có những dòng nước sôi nóng bỏng đang chảy trên mông của mình.
May cho nó, trụ sở cảnh sát chỉ ở phía bên kia lề đường. Tuy chưa hưởng thụ được trái trứng nào, nhưng tội danh của nó được ghép là "ăn trộm trứng ngoài chợ". Ở trạm cảnh sát, người ta giao nó về cho Văn Phòng Cao Ủy Liên Hiệp Quốc. Từ văn phòng Cao Ủy Liên Hiệp Quốc, nó được chuyển xuống Ban Ðại Diện trại. Từ Ban Ðại Diện trại nó lại bị giải xuống Tiểu ban An Ninh để lập lý lịch, hồ sơ. Thì cũng lại : Ði ghe mang số...nhập trại ngày...Bố chết. Mẹ chết...chứ còn cái gì khác hơn ?
Mãi đến chiều tối, lệnh phạt về tội "ăn cắp trứng" của nó mới được ban hành trên loa phóng thanh treo ở khắp mọi nơi trong trại. Trong lệnh cũng "chiếu điều này", "chiếu điều kia", sau khi kể rõ tội trạng, "đương sự" phải nhận lãnh một số ngày phạt phải đi làm vệ sinh trong trại.
Chiếu trên giấy tờ thì nó phải lãnh đủ tới mười lăm ngày cọ cầu tiêu công cộng lận. Làm mất thể diện quốc gia, đâu phải chuyện rỡn. Nhưng nhìn cái vẻ loắt choắt của nó, một ông trong Ban Ðại Diện kéo anh trưởng ban An ninh, Trật tự lại rỉ tai:
- Hù nó đôi ba ngày cho nó tởn vậy thôi, cái ngữ đó, làm sao nó xách nổi xô nước mà cọ cầu tiêu.
Anh Trưởng ban An ninh Trật tự lúc thi hành chỉ thị, đã hù thằng nhỏ rất tận tình:
- Mầy không thấy dân ở đây nó dữ lắm sao? Lần này nó thương tình giải mày qua "Liên Hiệp Quốc", chứ lần sau ý à, cứ lẳng lặng đem mày ra mà cắt cu!
Thằng nhỏ chẳng những không sợ lại còn toe ra cười. Nó xăng xái đi trước một anh an ninh áp tải để xuống khu nhà cầu. Hôm nay án phạt có một anh can tội băng hàng rào đi mua mai- coỏng tức là rượu đế lậu, hai anh khác đã can tội đánh bạc lại còn xoay ra đấm đá nhau, ngoài ra còn một chị nữa thì bị bắt quả tang đem gạo dư, ăn không hết bán lại cho dân địa phương, vi phạm nội quy của Cao Ủy.Trong cả bọn bị phạt làm vệ sinh, chỉ có nhà chị này là nom ăn diện bảnh bao nhất. Chị ta nhìn thằng Cư đang nhanh nhẩu kỳ cọ cái bồn cầu ra dáng một thằng bị phạt chuyên nghiệp, bèn cà kê với nó:
- Ê nhỏ ! Nghe nói mày bị ốm đòn mà chưa rớ được tới trái trứng nào, phải vậy không?
Thằng Cư chỉ đáp lại bằng cách ném cho chị ta một cái nhìn hậm hực. Nhưng chị ta vẫn ỉ ôi tiếp :
-Mày chọc vô bọn nó làm chi. Ðói khát gì một trái trứng !
Anh đánh bài đứng gần đó nghe lóm được, ngứa mồm nói chen vô:
- Thôi đi bà ơi! Bà có tiền, ních đủ thứ nên mới nói được câu "đói khát gì". Nó tứ cố vô thân, có họ hàng thân thích gì cho được đồng bạc cắc nào đâu.
Chị đàn bà kêu lên:
- Không có đồng cắc nào thì làm việc đi! Bộ cứ nghèo rồi đi ăn cắp, ăn trộm hả? Này nhỏ! Mầy muốn có tiền ăn trứng, hãy cọ phần cầu tiêu của tao đi. Tao trả cho hai chục!
Rồi chị chóp chép cái miệng;
-Ái chà, hai chục Bạt tiền Thái chớ chẳng phải chơi đâu nhá. Làm đi, "lao động là vinh quang" mà !
Thằng Cư đang hôi hám sẵn, lại thấy được trả tới hai chục Bạt, liền ngẩng đầu lên cất tiếng Ô Kê liền. Thế là nó lụi đụi kỳ cọ một hơi mười cái bồn cầu, chung quanh vương vãi những tờ giấy báo chùi trên in toàn một thứ chữ gì mà nom y như những con cung quăng và khắp mọi chỗ, ở xó xỉnh nào cũng văng vãi tung tóe vì cả trại ai cũng thích ăn chè!
Tuy nhiên thằng Cư vẫn cứ vừa huýt sáo vừa làm việc vì trong lòng nó cũng đang vui vẻ khi nghĩ tới hai chục Bạt tiền Thái được lãnh lúc đã lao động xong. Trong khi ấy thì chị đàn bà ngồi vắt vẻo trên chiếc trụ hàng rào kẽm gai, hai mắt lim dim, cặp môi son đỏ chót ngậm phì phèo điếu thuốc lá Samit, loại thuốc thơm có đầu lọc. Ðến lúc xong việc, thằng Cư được chị dúi cho hai chục đồng đúng theo hợp đồng đã quy định. Cu cậu sướng mê tơi, để nguyên cả bộ quần áo lẫn bàn chân, bàn tay hôi hám, chạy biến ra khu hàng quà. Ở đấy, nó ních một hơi hai cái bánh rán, một tô chè và một ly nước ngọt. Vậy mà tiền vẫn còn dư để mua thêm một chục trứng gà.
Ðến tối, lúc cả trại đã tắt đèn, Cư khuân lên bục giảng nhà thờ một bọc trứng đã luộc sẵn.Thằng Lâm trông thấy thế kêu lên:
-Ê! Mày ăn cắp trứng bị nhừ đòn mà vẫn không chừa sao?
Cư nhìn nó vênh mặt lên:
-Tao ăn cắp được quả trứng của đứa nào, mày nói nghe coi? Cái này là công sức của tao làm ra, thằng nào chê, cứ việc ngồi đó.
Trong cả bọn, chả có đứa nào chịu ngồi đó cả. Chúng nó xúm lại chia nhau bóc trứng ăn ngồm ngoàm. Ðứa bé nhất cũng được ăn riêng một quả trứng. Ăn xong, cả lũ nằm ngổn ngang kể chuyện gẫu hay hát hỏng um sùm.
Thật ra, trong bụng áo của thằng Cư còn nguyên một túi ny-lông đựng chè đậu xanh còn nóng hổi. Nó định tâm, chốc nữa cả lũ ngủ hết, sẽ đánh thức con bé Bích Loan dậy để cho nó ăn riêng một gói chè. Con bé vẫn bị dì Năm đánh thức dậy lúc đang giở giấc, đã quen rồi nên chắc là không cằn nhằn gì đâu. Hơn nữa. nó mà nghe nói đến chè là tỉnh như sáo ngay.
Cư vui vui khi nghĩ đến cái lúc dúi vào tay con bé gói chè nấu bột lọc và hình dung đến cái miệng chúm chím của nó lúc ăn những muỗng chè. Nhưng cu cậu nằm nghĩ ngợi lơ mơ thế nào ngủ khò, quên bẵng ngay cái chuyện khều chân con bé tỉnh dậy.
Sáng sớm hôm sau, lúc cả bọn nháo nhào bảo nhau thức dậy rút ra bãi ngoài để trả lại khu tôn nghiêm cho ngôi giáo đường thì thằng Cư phát giác ra đêm qua, nó đã ngủ quên đè lên, làm túi chè bục rách cả ra khiến ngực áo của nó trở thành một mảng bầy nhầy, nhão nhoẹt...