Má ơi! Các ông mục sư khi chết lên thiên đ
Ừ! Phải đấy con.
Vậy con sư tử khi chết thì sao?
Nó là giống ăn thịt người, phải xuống địa ngục đền tội.
Vậy thì con sư tử ăn thịt ông mục sư khi chết nó đi đâu?
? ? ?
2830
Trong buổi tiệc, có người tự khoe rằng mình rất sành chuyện kiếm hiệp bên Tàu, kể rằng:
Đêm kia, một vị quái hiệp đứng trên nóc nhà thình lình bị một kẻ lén đập cây gậy sắt trên đầu. Cây gậy tròn bằng bắp chân chạm phải đầu quái hiệp, gãy làm đôi. Khúc gậy bị gãy nặng đến nỗi rớt xuống thủng mái ngói, rơi trúng một người đang ngủ gãy giò. Thế mà quái hiệp không biết rằng mình vừa bị đánh, ghê chưa?
Kể xong, người ấy hỏi:
Các bạn có biết vị cao thủ võ lâm ấy là ai không?
Tức thì có người đáp:
Là tía của thằng đặt chuyện đó chứ ai!
Ba anh rủ nhau vào quán đánh chén. Một anh hỏi :
- Ðĩa này là đĩa thì gì ?
Một anh hay nói chữ bèn nói :
- Rõ thật "thực bất tri kì vị" (¡n mà không biết mùi vị)
Anh thứ ba ghé vào tai anh thứ nhất, bảo :
- Nó nói xỏ anh đấy
Anh này chẳng chịu lép vế, liền nói :
- à, à anh định khinh tôi à ? Anh biết "thực bất tri kì vị" tôi, dễ thường tôi không biết "thực bất tri kì vị" anh hẳn ?
Nhà cậu Tư Nhớ cũng ở đó, xiêu xiêu giữa vườn thuốc Nam, quanh năm nồng nàn hương hoa cỏ. Nhưng cậu không có nhà, cậu đang dự đám tang trên Lung Dừa. Cậu “đuổi quỷ” trong đội đạo tỳ của Chữ thập đỏ xã. Gần mười lăm năm cầm đuốc múa quanh quan tài đến chai tay, lửa phà nám mặt, mấy lần ngậm dầu phun lửa bị sặc trối chết, càng lớn tuổi cậu càng tưng tửng, ai cũng nói, ổng bị sặc dầu quá trời đất như vậy mà không mát dây cũng uổng. Cậu nghèo, nhưng đèo bồng nuôi một thằng nhỏ mồ côi cha mẹ. Bình thường thì thằng Lụm kêu bằng tía, nhưng có lúc, kêu vậy cậu la thấu trời: "Mầy làm như tao già lắm vậy, kêu tao bằng anh đi, bằng thằng cũng được nữa”. Một tháng ăn cơm nhà chừng ba bữa, còn hai mươi bảy bữa cậu dọn vườn, chặt thuốc cho chùa nên được đãi cơm chay. Hết việc, cậu dắt thằng con lang thang làm mướn dài dài theo xóm, ăn cơm ở đó luôn. Đội đạo tỳ có việc thì hai cha con dùng cỗ đám tang, lắm lúc cậu về nhà biểu thằng Lụm: "Đổ nước mắm vô kho quẹt ăn. Tao ngán thịt heo thấu trời rồi”.
Chỉ nhà dì Út Thu Lý là cậu không bao giờ lui tới. Hồi bà Hai má dì còn sống, ra đường chạm mặt, tránh không được, cậu mới mở miệng, giọng có một chút hằn học, một chút chua xót, một chút mỉa mai: “Thưa má!”, rồi cậu cun cút đi thẳng. Những chiều ngang qua nhà, thấy bà Hai bắc cái ghế ngồi ngoài hàng ba là cậu cởi quần dài, tụt xuống mé kinh, lội qua khỏi đoạn đó mới ngoi ngóp lên bờ. Đám trẻ trong nhà thấy cảnh đó cười ngắt nghẻo, chỉ dì Út Thu Lý là chua xót ngẩn ngơ, người coi tưng tưng vậy mà giận dai ghê hen. Rồi dì tự hỏi, nếu mình là anh ấy, thì mình có giận không?
Giận. Bởi gió kia, mưa kia, những mái nhà chiều chiều khói tỏa kia, người phụ nữ đang na cái bụng bầu lặc lìa qua ngõ kia, và những đứa trẻ kia, cả thằng Lụm… hết thảy đều làm cho người đàn ông đó nhớ một mái ấm đã bị tước đoạt của mình. Bởi nếu con cậu còn sống, bây giờ chắc nó cao hơn thằng Lụm. Những khi ngồi nhớ lại, cậu ứa nước mắt, ước gì mình được nhìn thấy nó một lần, một lần thôi, sau này có sặc dầu hay chết hụt dưới mương, có lẫn lộn việc này việc khác, dứt khoát cậu sẽ không quên hình bóng vợ con mình.
Nhưng cả mơ ước đó cũng bị má vợ cậu, bà Hai cướp đi mất. Khi dì Ba Thu Lê để lòng thương cậu Tư Nhớ, roi đòn mấy cũng không cản được, bà đã nghiến răng trèo trẹo khi nhắc tới cậu, "thằng ăn cướp". Sinh cả thảy cả sáu người con chỉ có hai đứa con gái: dì Út Thu Lý vụng về, đểnh đoảng như trẻ con, vui buồn ra mặt; bà Hai dồn hết tình thương cho con gái Thu Lê vén khéo, nhu mì. Hồi đó, dì Ba mới hai mươi tuổi, trong lòng người mẹ, dì còn non nớt, dại khờ. Ai mà ngờ một bữa dì bỏ bà đi… Nhà cậu Nhớ cách nhà bà một quãng đường xóm, những bữa đi ngang qua nhà, bà Hai nghe giận nhói ngực khi thấy con gái mình khép nép đi cạnh chồng. Cái nhìn van lơn và hối lỗi của cậu Tư Nhớ nhỏ nhoi trước biển lửa giận hờn trong trái tim người mẹ. Không bảo nhau nhưng cả hai người đều hy vọng, dù lâu lâu lắm nhưng sẽ có một ngày bà tha thứ.
Hồi đó, gia tài của hai người chỉ có căn nhà dựng trong vườn chùa với chiếc xuồng. Dì Ba hay cười, an ủi: "Anh buồn gì, xóm mình đâu chỉ nhà mình nghèo…". Dì làm bánh bò, sáng sớm hai vợ chồng chèo bán dọc theo các xóm ven đầm, buổi chiều họ xin rơm chở về gieo cải, trồng rau trên liếp nhỏ kế bên nhà. Dạo đó, người ta dồn về nơi này để theo những con rạch ngoắt ngoéo ra cửa sông Thầy Xúi vượt biển tìm đất hứa. Nhiều bữa thấy người ta lỡ đường, vơ vất ngoài bờ bụi, khổ sở với bầy muỗi lá, cậu Tư cho quá giang, cho ngủ lại, san sẻ ít chén cơm nguội. Cậu với dì không hỏi họ đi đâu, làm gì, hỏi họ cũng không nói thiệt, chỉ nghĩ trong bụng, xứ sở mình ở đây mà hổng ở, đi làm chi cho cực thân vậy không biết. Cho tới một bữa trên đường chở rơm về, cậu bị công an xã bắt vì tội đưa người vượt biên. Cậu Tư Nhớ có kêu oan nhưng các anh công an cười, hỏi bà già vợ thưa mà còn oan ức gì? Cậu nghẹn lời, ngỡ ngàng và đau xót.
Lúc đó là tháng năm, đôi vợ chồng trẻ đang nôn nao đếm ngược từng ngày chờ đến sang giêng sẽ đón đứa con ra đời…
Bốn mươi ba ngày sau cậu Tư được minh oan. Lúc về thì cỏ đã mọc xanh lối vào. Giồng cải bên nhà trổ bông, ngồng cao tới ngực. Lúc về, chuột cắn rơm làm ổ trong cái cà ràng trên bếp. Lúc về, người cũ không còn ở chỗ cũ, nhà lạnh ngắt, buồn xo. Cậu Tư Nhớ uất quá vác cây mác chạy tới nhà bà Hai đòi người. Bà đứng chận ở cửa, mặt thản nhiên, lạnh tanh như đồng, bảo “Ở đây không có gì liên quan tới cậu. Con tôi nó ra chợ ở rồi, còn con cậu hả? Ra bãi rác ngoài trạm xá xã mà kiếm". Cậu Tư Nhớ hoài, nhớ đời đời kiếp kiếp cái vẻ mặt chai đá của bà Hai, cậu cười, sao con người đối với nhau có thể cạn ráo đến vậy.
Cho đến bây giờ dì Thu Lý vẫn còn nhớ giọng cười của cậu hôm ấy, nó lạt nhách, không dư âm, như thể đá cười. Cho đến bây giờ, gặp dì, cậu vẫn hay cười như thế, có lúc cậu còn làm ngơ không thèm nói chuyện. Nhưng dì không giận, vì nghĩ nhà mình nợ anh ấy rất nhiều, cho tới khi má dì nằm xuống, món nợ ấy vẫn còn nguyên.
Người ở xóm Rạch Ruộng ai cũng biết dì Út Thu Lý thương cậu Tư, họ dạy con nít ngạo chơi "Trồng tre trở gốc lên trời. Con chị qua đời rồi tới con em". Nghĩ cho nghiêm túc, hai người này cũng thật xứng đôi vừa lứa. Ngày nào dì Út cũng đi làm công ở chùa Phấn, hốt thuốc tiếp sư cô, lúc rảnh chạy qua nhà cậu Tư Nhớ quét cái nhà, lau bộ ván, cho chó mèo ăn. Dì coi nhà cậu như nhà mình, nên quen cái lối đi hẹp giữa bộ ván ngựa cũ kỹ và chiếc giường, quen với căn bếp nằm chếch phía trái, đó là một góc tù mù khói, nhưng đó là một chỗ ấm áp nhất. Mấy đứa con nít khen dì giống cô Tấm trong truyện cổ tích.
Bây giờ gần hai mươi năm rồi, tóc đã trắng những sợi già, chuyện tình đó vẫn chưa đi tới đâu. Chiều nay lại, thay vì lòn tay qua lỗ mở cái móc khóa quen thuộc ra, dì Thu Lý tự nhiên giữ lễ, đứng chờ ngoài cửa. Thằng Lụm về trước, thấy dì, nó cười, hỏi: "Ủa, sao Út không vô?". Dì bảo: "Vô gì, nhà người ta mà". Thằng Lụm nhìn dì lom lom, nó thấy dì bữa nay lạ quá, không biết có phải tại rụng mấy cái răng không. Nhưng lúc đó đã nghe tiếng đá banh dội binh binh đằng xóm, nó rảnh đâu mà thắc mắc, vọt đi mất. Cậu Tư Nhớ qua khỏi lùm nhãn lồng, làm như không thấy dì Thu Lý, vạch cái cửa đi tuốt vô nhà. Cậu ra ngoài giàn ôm củi vô, rồi chổng mông thổi lửa nấu cơm nước, khuôn mặt cậu tỉnh rụi. Nước sôi, cậu đi rửa cái bình mẻ vòi, châm trà. Cậu chống rèm cửa sau lên, lau bộ ván ngựa đầy dấu chân gà, quét cái nhà vương vãi rác rồi ngồi uống trà. Cái vạt áo màu bông cà của dì Thu Lý vẫn phơ phất bên ngoài cửa. Muỗi kêu o e xà quần bên lỗ tai, giờ này muỗi bắt đầu bay khỏi đám lá đi kiếm hơi người. Ngoài sân chắc muỗi cũng nhiều… Cậu Tư hơi trù trừ giây lát rồi đứng lên, ra cửa trước nói trổng không:
- Sao bữa nay mắc gì mà không vô nhà? Ngoài này muỗi cắn chết.
Dì thở ra, cứ tưởng là thằng chả không mời. Dì cố nén cười, nghiêm mặt bước vào, đứng lừng khừng khách sáo như khách lạ. Cậu Tư coi bộ hơi bực:
- Sao không ngồi đi? Coi chừng làm nhăn bộ ván tui nghen.
Nói rồi, cậu đi gom mớ vỏ dừa khô vô nhen mẻ ung. Cậu ngồi thổi hoài cho đến khi lửa bùng lên, cậu lại vùi cho tắt. Rồi hì hụi chỗ này, hì hụi chỗ kia, không làm gì cũng lăng xăng. Sực nhớ ra, cậu lại đằng chái bếp lấy khúc ổi vừa được phơi dốt nắng, ngồi đẽo ngỏng cối, ngày mai, đằng nhà Tư Biểu có đám giỗ, thể nào cũng xài. Cậu sợ rảnh tay rồi phải mở lời nói với nhau. Mà cậu thì không biết nói gì hết, không muốn nói gì hết.
Bởi mỗi khi gặp nhau, lòng người này chỉ toàn những oán giận, những nỗi đau, còn người kia tràn đầy niềm yêu thương vô vọng mà họ đã không còn ở tuổi hai mươi, ba mươi để nói ra tâm trạng ấy bằng lời. Nên chiều nay lặng lẽ lạ thường, có thể nghe rõ ràng tiếng muỗi kêu, tiếng xì xì mọng nước của thanh củi ướt cháy trong mẻ, tiếng lưỡi mác vót khứa ngọt vào cây ổi, tiếng trái dừa chuột khoét rụng đùng xuống hào ranh… Dì Thu Lý lên tiếng:
- Anh Tư à… bữa nay em mới nhổ ba cái răng.
- …
- Tính luôn hôm rảy là bảy cái rồi đó. Thấy vậy mà già rồi…
Cậu Tư Nhớ vẫn nín thinh, hì hụi gọt đẽo, thấy mình cũng thật nhẫn tâm. Kinh kệ mỗi ngày từ chùa Phấn vọng sang cùng tấm lòng chân thật của dì Út vẫn không làm cậu nguôi đi oán hận. Cậu mà đáp tình dì chẳng phải là đã tha thứ cho nhà đó sao; ngu sao, đâu có dễ vậy.
Dì Thu Lý ngồi trên tấm ván đã cong vênh, nghe lòng trống không đã sạch sành sanh những niềm hy vọng cuối. Không biết làm sao cho hết bối rối, dì ngó quanh quất cho giống người xa lạ chơi. Dì nhìn chiếc quai nón bằng vải nhung đã phai màu treo ở đầu giường, cái áo bà ba màu bông cà bọc trong bọc ni lông treo trên vách cùng với chiếc cặp đỏ bằng nỉ (hôm chị Thu Lê theo chồng, nó chỉ đủ để ba bộ đồ với cái khăn tắm, dì Út lén má xếp giùm). Dì nói bằng một tiếng nhói:
- Anh nhớ chị Ba em?
Lần này cậu Tư Nhớ đổ quạu, vặc lại:
- Bộ tui trâu bò sao mà không biết nhớ? Biết còn hỏi!
Ờ, thì biết. Hơn hai mươi năm rồi cậu Tư với dì Thu Lê đã không gặp lại nhau. Mỗi bận lễ Tết, hay đằng nhà bà Hai tổ chức giỗ ông Hai, cậu đứng xa xa dòm ngó, nghe nhộn nhạo từng khúc ruột. Hổng biết cổ có về không ta? Thằng Lụm hiểu lòng cậu, nó chạy đi coi, nó kể ở ngoài chợ người ta về đầy nhóc, người nào người nấy đẹp đẹp không hà, tía. Nhưng trong đám người đẹp đó không có người cậu thương, dì Ba không về, dì viết thơ gởi bà Hai (lá thơ đó nhòe nước mắt) thưa rằng chắc chẳng bao giờ dì về quê nữa, quay lại đó, rồi làm sao, mặt mũi nào để gặp một người. Dì viết rằng, má ơi má đừng buồn, chừng nào nhắm mắt xuôi tay, con sẽ về để nằm trên đất nhà mình.
Câu chuyện đó dì Thu Lý kể cho cậu Tư Nhớ nghe vào một ngày mưa gió, cậu đội áo mưa lại chữ thập đỏ xã, xin được giữ một chân đạo tỳ trong đội mai táng. Ai cũng hỏi sao tự nhiên đi làm cái nghề u ám vầy, cậu cười không nói. Chỉ có một người biết, càng biết nhiều càng nghe lòng buồn nhiều.
Dì Ba Thu Lê bây giờ đã theo chồng sống ở nước ngoài, vò võ không con, dì cay đắng, "trời phạt vậy". Dì hay gởi thư, tiền và hình về nhà. Trong hình lúc nào cũng đeo nhiều đồ trang sức, mập mạp, đầy đặn, cười thật nhiều nhưng đôi mắt lại buồn thiu, luôn luôn ngó thẳng về phía trước mà ánh nhìn không có một chỗ vịn nào. Một người sống không quê hương, sống đầy mặc cảm, dằn vặt, sống mà đau đáu hoài chuyện cũ thì biết níu đâu bây giờ?
Chiều nay ngồi trong nhà cậu Tư Nhớ, dì Út lại nhớ chị mình. Dì chợt nghe lòng quang quẻ lạ lùng, sao mình không giúp cho anh chị ấy gặp lại nhau một lần, bây giờ không làm, đợi tới chừng nào. Mình làm được mà, thí dụ như mình giả đò chết. Chị Ba Thu Lê nhất định sẽ về, sẽ gặp lại anh Tư Nhớ, dù bây giờ tóc xanh phai màu, gặp chơi vậy thôi chứ không thay đổi được gì hết. Nhưng thương nhớ nhau thì hội ngộ lúc còn đang sống, chứ đợi người âm kẻ dương làm chi… Đời vốn dĩ đâu có buồn dữ vậy.
Dì Út Thu Lý ngồi ở đó tới chạng vạng, không nói thêm gì nữa, chỉ đau đáu ngắm cậu Tư, lòng tràn đầy thương yêu. Lúc về, dì mới lại gần, dạn dĩ gỡ cây mác vót trong tay cậu ra, nắm ngay lấy bàn tay nóng rực ấy, định cười, nhưng nhớ mấy cái răng cửa vừa nhổ nên thôi. Rồi dì bảo: "Mai mốt chế ba về, anh Tư à. Thiệt, mai mốt này…"
Khi qua cửa dì Út Thu Lý mới hay, con mắt rửa bằng khói đã nhòe nước.
Rồi những cơn gió tháng bảy đưa tin vui đến từng mái nhà trong xóm Rạch Chùa. Người ta bần thần, vậy a? Xa xứ biết bao lâu rồi, trôi dạt tận nước ngoài, cuối cùng người con gái đó cũng về thăm lại xóm Rạch. Cậu Tư cuống quýt hỏi thằng Lụm, có đúng cổ không, mậy? Đúng hả, về rồi hả, về một mình hả? Vậy a? Trời ơi! Gió thổi bời bời vào căn chòi của cậu Tư Nhớ, thốc cuộn những tàn tro xát vào những vết cắt trong lòng.
Dì Thu Lý chỉ còn làm được một chút đó cho Tư Nhớ để trả cho cậu món nợ nhà dì đã vay, để cậu gặp lại người xưa. Nhưng cậu đã phụ lòng, khi dì Ba Thu Lê về, tận mặt nhau, cậu lắc đầu, cười, khẳng khái "Em Lê đâu có già, đâu có mập ú ù u như vầy". Cả ba người quay lưng lại với nhau, bưng mặt khóc, thương cho tuổi thanh xuân đã qua mất rồi.
Bến Hạnh Phúc
Bên kia đầu dây, Dũng cười lớn, làm cái phôn như muốn vỡ tung. Hết cười, khi đó chàng chợt nhớ, chàng nói với tôi, em biết không rồi đây anh sẽ để dành biết bao nhiêu là tiền thay vì phải trả cho những cú viễn liên như bây giờ...anh muốn dùng tiền đó đưa em đi hưởng tuần trăng mật thật hạnh phúc, thật thoải mái.
Một tối đang loay hoay xếp đống quần áo vừa mới giặt xấy xong thì phôn reng. Bên kia đầu dây, một giọng nói quen thuộc vui vẻ hỏi:
-Khỏe không Bích Chuyên?
Dũng, bạn của thời Lê Bảo Tịnh, Tuổi Hoa, Tuổi Ngọc, Ngàn Thông, của thuở mới tập tành thơ văn. Dũng hơn tôi 2 tuổi, học hơn tôi hai lớp. Đậu Tú tài xong Dũng du học bên Tây Đức, rồi vẫn ở đó cho tới nay. Năm 75, tôi chạy được sang Mỹ, và cũng ở nơi đây từ đó cho đến bây giờ. Dù xa nhau đã lâu và chưa một lần gặp lại, chúng tôi vẫn thường xuyên gọi phôn, đúng ra Dũng hay gọi tôi những tối cuối tuần, nên dĩ nhiên là phải nhận ra giọng nói của nhau ngay.
-Ồ! Khỏe chứ! Còn Dũng thế nào?
-Cũng ôkê! Rồi Dũng úp mở...đang ở rất gần Bích Chuyên.
-Tây Đức mà gần cái nỗi gì...Sau đó tôi cười chọc...ngày xưa có học địa lý đó không ông bạn? Hay tới giờ thầy Bằng Phong là kiếm chỗ đi ngủ?
-Không phải Tây Đức, đang từ Toronto đây nè.
-Toronto, Canada?
-Ờ, qua được hai hôm rồi, chợt nhớ tới Bích Chuyên nên gọi.
-Đang làm gì bển?
-Qua ăn đám cưới cô em.
-Thích vậy! Ừ, bây giờ chịu là có gần hơn một chút.
Tôi đang ở Seattle, vùng Tây Bắc nước Hoa Kỳ, Dũng đang ở Toronto, vùng Nam Gia Nã Đại, tuy nói là gần nhưng cũng cách nhau 3 múi giờ, so với Tây Đức ở Âu châu thì gần hơn rồi. Tôi vẫn hay gọi một bà chị họ bên Gia Nã Đại, hệ thống gọi phôn y hệt ở Mỹ, nên tôi nghĩ Canada thì như anh em họ vậy, mùa hè lại hay xách xe qua Vancouver BC ăn trái cây vùng nhiệt đới ít nhất một lần, rồi mua thịt heo quay, bánh cuốn nóng...Ở biên giới có treo cờ Mỹ sọc đỏ sọc trắng với 50 ngôi sao, cờ Gia Nã Đại lá phong đỏ trên nền trắng giữa hai vành sọc đỏ, cũng có đài tưởng niệm khắc hai hàng chữ lớn Children of common Mother, những đứa con cùng mẹ, có thảm cỏ xanh mướt, hoa đỏ trồng thành cờ Gia Nã Đại, dân du lịch cầm máy hình bấm lia lịa, "Mẽo" và "Điên" là anh em. Vancouver BC thì tôi qua luôn, mà mặt Quebec hướng đông thì chưa bao giờ đi, mặc dù cô bạn thân Ngọc Dao đang ở bên đó, ngày xưa nó réo tôi qua chơi, tôi không qua, chán nó đi lấy chồng, rồi đời sống gia đình bận rộn không giống nhau, hai đứa sau này không còn liên lạc nữa.
Dũng cũng biết Ngọc Dao, thuở ở Lê Bảo Tịnh, Dũng si đậm cô nàng. Những hôm trời mới trở lạnh nhè nhẹ, Dũng đã mặc thay đổi những cái áo len tay dài tròng qua đầu màu xanh rêu hay xanh lục, do mẹ đan. Dao thủ thỉ bên tai tôi cái thằng điệu quá. Dù Dũng hơn Ngọc Dao hai tuổi, học trên hai lớp, Dao cứ nhìn Dũng là một thằng nhóc, tại Ngọc Dao dạo đó đã có người yêu là một đại úy nhảy dù. Dưới mắt tôi, Dũng thật hoàn toàn: cao, trắng, đẹp trai, cận thị nhẹ, họ giỏi và có tài thơ văn nữa - cuối niên học Dũng đậu tú tài II ưu hạng lại giỏi sinh ngữ nên được học bổng du học Tây Đức.
Dạo đó Ngọc Dao, Tuyết Dung, Vân Hiền và tôi còn đang học lớp mười, năm dưỡng sức, Ngọc Dao đang ngụp lặn trong buổi đầu hạnh phúc tình yêu, Tuyết Dung vẫn như con nít nhổ giò cao nhất bọn, mặc áo dài ngực thẳng băng, ai rủ đi đâu cũng lắc đầu nguầy nguậy, phải về trông em, Vân Hiền học giỏi nhất lớp, lúc nào cũng buồn vì bố đau cứ vô ra nhà thương hoài, còn tôi thì đã có thơ con cóc... đăng báo - nhờ vậy mà quen Dũng vì cùng ký tên kèm theo tên trường. Tôi thân với Dũng vì Dũng cố tình thân với tôi, tôi biết lý do nhưng không thèm có chút tự ái nào, Dũng học giỏi lại văn nghệ văn gừng, quen Dũng tôi cũng hãnh diện. Tôi chơi thân với Ngọc Dao, Dũng chơi thân với tôi, suy ra thì Dũng cũng phải thân với Ngọc Dao chứ, vậy mà những lần đụng đầu ở nhà tôi, Ngọc Dao xa lạ hết, Ngọc Dao lạnh lùng hết sức, thành ra Dũng chỉ gật đầu chào, vậy thôi.
Đời rắc rối như thế đấy, Dũng " đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu", nhiều nàng ở Lê Bảo Tịnh ái mộ, vậy mà Dũng chỉ muốn thấy một lần trong ngày Ngọc Dao cười là đủ, Dũng chạy qua lớp tôi cho tôi viên kẹo cũng chỉ để nhìn Ngọc Dao. Tụi con gái trong lớp không hiểu chuyện tưởng Dũng theo tôi, còn con trai thì nghĩ tôi thích "mấy anh" hơn, coi thường tụi nó là nhóc tì. Tôi tội nghiệp Dũng chứ chẳng giúp được gì. Tôi trách Ngọc Dao:
-Dũng thương mày!
Ngọc Dao tỉnh bơ:
-Ừ, tao cũng thương anh Dũng nữa
- Người yêu lính dù của nó cũng tên Dũng.
-Tao nói Nguyễn anh Dũng kìa... hay để tao nói mày có bồ rồi!
Chưa được! Cuộc tình của hai người chưa được phép công khai, dù nhà Ngọc Dao đã biết. Dũng Dù ngấm ngầm để ý Ngọc Dao khi con bé còn nhỏ; năm Ngọc Dao lên lớp mười, ông mới tỏ tình.
Ngọc Dao kể:
-Chàng gan không ngờ, nói thương tao trước mặt cả nhà, chàng xin phép ông bà cụ để được thương tao. Ông cụ sửng sốt vì đâu có thích tao có bồ là lính mà lại nhảy dù nữa, cha mẹ nào lại chẳng lo. Ông cụ giận tao, ông cụ giận Dũng. Thật ra từ đầu tới cuối ông vẫn thương Dũng vì Dũng là bạn học từ nhỏ của anh cả tao, bạn từ ngoài Hà Nội kìa. Chỉ vì lo cho tao, ông cụ không muốn Dũng và tao thương nhau thôi.
Bố mẹ sợ muốn đau luôn, sợ con lấy chồng nhà binh rồi khổ, nhưng tuổi mới lớn thích mộng mơ, có máu lãng mạn, có người yêu là lính chiến với những hoa mai vàng nở rực trên vai áo trận nghe sách vở văn chương hơn, chứ thứ thư sinh học trò học giỏi trắng trẻo như Dũng nhìn con nít lắm! Dũng Dù lớn hơn Dao 8, 9 tuổi, hồi đó bọn tôi không đứa nào nghĩ anh...già hơn Dao, bây giờ nghĩ lại tôi thấy bọn tôi toàn là một bọn con nít.
Ngọc Dao đã có người yêu, Nguyễn anh Dũng không biết chuyện cứ nhờ tôi làm chim xanh chim đỏ. Mấy lần tôi định nói sự thật đ84
Qua cầu nhớ người
Chiếc sà lan chở người, vật liệu, máy móc đi xây dựng chiếc cầu bắc qua sông Dài chiều nay đến Đội Đỏ rồi. Những đứa nhỏ vừa chạy vừa la dài xóm, "Làm cầu! Làm cầu! Má ơi má!". Những cơn gió tháng Sáu đã làm cho tiếng reo đó bay xa, ai nấy đều nhổm đít ngồi dậy, bưng chén cơm lưng mà lòng vui tớ mở, trời đất ơi, thiệt hả, thiệt là Hai Nhớ dẫn thợ về xây cầu? Có người chạy lại nhà một bà má ăn trầu môi đỏ như son, đứng ở cửa vỗ đùi cái đét, "tôi biết lắm mà, hồi nào giờ thằng con chị nói là làm, nhắn với nó, cả Đội Đỏ này mang ơn nó". Má cười miệng ờ ờ, "vậy hả, vậy hả" rồi nhìn đám công nhân xây dựng đang đứng lúp xúp dưới bến sông nhà mình, xớ rớ đứng ngồi, không biết mình đang vui hay buồn, cái rõ ràng nhất mà má cảm nhận được, nhà ta, con ta đã làm một chuyện động trời, bắc cầu qua sông Dài.
Đoạn sông Dài chảy qua Đội Đỏ không rộng lắm, nghe nói hồi chống Mỹ bộ đội bắc được cây cầu dừa tám nhịp để hành quân qua đánh chi khu Đồng Rạ. Được chừng mười ngày thì bị máy bay đánh sập, từ đó tới giờ, giữa đôi bờ đi lại chỉ nhờ chiếc đò ngang, chèo xuôi ngược cà tịch cà tang, bữa vui thì chèo khuya, bữa buồn chú Xái nghỉ sớm (độc quyền mà). Người Đội Đỏ nóng ruột quá. Lại Ủy ban xã thì nghe báo là chưa có kinh phí, cây cầu quy mô vầy, phải chờ tiền ở trên rót xuống, chớ xã nghèo quá. Dân bàn hay là để dân đóng góp lãnh đạo xã cười hỏi, "nhiều lắm, góp nổi không?" rồi quảy cây vợt đi đánh tennis (chớ để sân không, đóng rêu hết còn gì). Nhưng mơ ước về một cây cầu vẫn âm ỉ trong lòng của nhiều người Đội Đỏ, những người chiều chiều ra bờ sông để nhớ nhau.
Anh Hai với anh Năm, con của bà má ăn trầu cũng hay ra ngồi uống rượu ngoài bến. Má rầy anh Hai bày đầu cho anh Năm làm chi, mới hai mươi mốt tuổi đầu đã tập tành rượu chè, anh Hai cười, "Ngồi ngoài này gió quá, uống chút ít cho ấm bụng, má coi, con với thằng Hiệp có bao giờ say đâu". Má cắc cớ hỏi chơi (vì trong bụng đã có câu trả lời), "Ngoài này gió sao không vô nhà?". Anh Hai, anh Tư chỉ lặng lẽ cười cười, không nói, ngó qua bên kia bờ sông Dài.
Bên đó là chợ Đội Đỏ. Những đêm không trăng ánh đ
èn loang sáng cả trời bên này, đ
èn trong sân tennis trước Ủy ban xã, đ
èn treo trên cây cột điện cao dựa bến đò đ
èn từ dãy hàng quán ven theo con lộ cặp mé sông... Quán nước của chị Nhiễm cũng nằm trong cái vùng sáng bồn chồn đó.
Chị Nhiễm bồng thằng Dương về bên ấy cũng lâu rồi, chắc không còn mong gì nối lại mối duyên đã đứt. Hồi trước, anh Hai thường qua nhà chị, nhưng càng ngày, càng thấy lợt lạt thêm chút ít. Hồi trước, chị Nhiễm giận dỗi, nín thinh, anh Hai mừng vì nghĩ, người ta còn giận là còn thương mình, bây giờ chị gặp anh thơn thớt nói cười, anh trả tiền ly trà đá đường thừa nhiều hay ít, chị cũng đưa lại. Chị hỏi chừng nào lấy vợ khác nhớ mời chị, chị đi bưng mâm cho, thản nhiên, tạnh ráo như chưa từng chiếu gối mặn nồng. Những đ
êm anh ngồi ở quán hơi khuya, chị nhắc, "Chú Xái cho đò sân nghỉ rồi, anh về đi". Anh nhấc thằng Dương ngồi lên đ
ùi mình (giống như sợ bị giật lại), bảo "Con nó còn thức mà". Chị Nhiễm im lặng, vẻ mặt không bằng lòng, lại bồng thằng Dương vô buồng, dỗ nó ngủ. Thằng bé bị cấu ngang hông, tay chân quơ lia lịa như đang học bơi, miệng nó kêu ba ba. Anh Hai ngó theo, buồn thiu. Sau này chị mở lời, "Chuyện hai đứa mình coi như xong rồi, anh cứ nắm nuối hoài, ai mà dám bước tới với tôi ". Anh Hai nghe như có một cơn gió nào thổi tơi bời vào lòng.
Từ bữa đó, anh Hai ít qua sông, anh Hai nhờ anh Năm thường xuyên qua bên đó, để chơi với bé Tho, để coi có chuyện gì nặng nhọc, khó khăn giúp cho chị Nhiễm. Vậy là chạng vạng, anh Năm chải cái đầu mướt trợt, ăn mặc tinh tươm, chống xuống tà tà qua sông. Rồi anh Năm để lòng yêu chị Nhiên, em gái chị Nhiễm hồi nào không biết. Má hay được, rầy quá trời, cả chiếc xuồng be mười kèm anh Năm lấy làm phương tiện để tối tối bơi qua quán chị Nhiễm má cũng cấm tiệt. Anh Năm đành lội sông. Nên anh biết sông Dài chỉ rộng bằng bốn mươi sáu cái sải tay, tại không có cây cầu nên người ta thấy nó xa đó thôi. Má biết không cản được anh nên hay thở dài với những bà má khác, than phải thằng Hiệp tôi không thích con gái Đội Đỏ thì tui qua Đội Vàng, Đội Tím kiếm vợ cho, mê làm chi chị em nhà
đó?
Chị Nhiên lớn hơn anh Năm bốn tuổi, mới học may ở chợ Vàm về, chưa chồng, đôi mắt, khóe miệng, làn da... toát ra một vẻ ngọt ngào, hồn nhiên, xinh xẻo, cả cái mũi chun lại lúc cười. Tâm tính của chị Nhiên cũng lạ lùng, tưởng như nắm được trong lòng tay, lại xa xôi lắm, nên lúc thì thấy như có tình, lúc lại không. Có lần chị Nhiễm dò hỏi ý em, nhưng chị Nhiên không nói. Rồi ngó anh Năm lội sông về, chị Nhiên cười khúc khích, bảo "Người đâu mà hấp tấp, chế coi, Hiệp không thèm dò chân trước coi nước có lạnh không mà nhảy ào xuống luôn". Những bữa anh Năm bắc ghế thay bóng đèn hay lui cui dọn quán, chị Nhiên thường lấy tay áp vào má anh, bảo, "Trời ơi, Hiệp mà làm chồng thì dễ thương phải biết". Nói xong chị cười giòn. Anh Năm đứng sững, thẹn thò với vành tai ửng đỏ. Đêm đó lội sông về, không nghe lạnh gì hết, vì trong lòng cồn lên một niềm thương nhớ nồng nàn, dường như mỏng lắm, nhẹ lắm mà say hoài, say hoài. Đến sân nhà thấy má còn thức, anh Năm không dám vô, đứng đập muỗi lép bép ngoài hè, mới biết thổi quanh mình là những cơn gió hiu hút. Má hay hết, má đằng hắng biểu anh Năm vô lấy khăn lau đầu tóc, xót ruột hỏi "Lạnh teo dái chưa con?" rồi má chuyển giọng buồn hết biết, "Sao mà anh em bây lại giống hệt nhau, thương là thương lấy được lúc bỏ thì bỏ không đ
ành. Gió máy như vầy mà ra sông ngồi làm chi không biết?". Câu sau thì má d
ành cho anh Hai đang lững thững ngoài bến. Anh thường nói với má anh quên chị Nhiễm rồi, nhưng anh ra sông vì nhớ thằng Dương. Nhớ quá chừng, ước gì có thể chạy vù qua thăm. Hôm qua anh Hai đón con ở trường, mua kem, hai cha con ngồi mút nhau nhảo. Thằng bé sún răng nói chừng nào má có chồng con về ở với ba, mà ba có vợ thêm không? Anh cười, vỗ đầu nó, nói với cái giọng dứt khoát "Không! Dễ gì!". Chắc nghen ba. Ừ chắc. Thề đi. Thề thì thề, ba mà phản lời thề cho bà bắn ba đi. Thấy vẻ mặt tin tưởng tràn đầy của con, anh Hai nhớ, hồi xưa, mình cũng hay thề cái câu kỳ cục, mơ hồ như vầy với Nhiễm. Nên ngồi gần thằng bé Dương mà nghe nhớ nó, nhớ thêm muôn vàn chuyện nữa, nhớ tái tê trong lòng. Thấy thằng con đi dép ngược, anh Hai chợt thèm được làm con nít, để khỏi buồn nhớ chuyện qua rồi. Hai cha con ngồi dựa mé rào trường học nói chuyện trên trời dưới đất, rồi chia tay. Như thể mai mốt không còn gặp nhau, như thể một người sắp đi đâu xa lắm chớ không phải chỉ cách một con sông. Thấy anh Hai bước xuống chiếc đò đầy của chú Xái, Dương đứng trên bờ bệu bạo khóc, coi cái tướng bé bỏng, trơ trọi làm sao đâu. Có bữa nó còn gào lên, "Ba ơi, quay lại ôm con lần nữa đi, ba", làm ai nghe cũng rơi nước mắt. Có lần anh đi được nửa sông, Dương sực nhớ chưa méc ba là chú Quỳ công an xã hay nắm tay má hoài, nó chạy theo, ngã nhào xuống nước, may người ta vớt kịp. Hơn lúc nào hết, anh Hai nghĩ tới cây cầu. Mười tám tuổi, anh Hai đã nổi tiếng dám nghĩ dám làm. Quen chị Nhiễm, biết chị thích tân cổ, anh đi đào đất mướn, sắm cái loa sắt mắc lên ngọn tràm bông vàng (bây giờ nó vẫn còn ở đó), chiều chiều mở catset cho Minh Vương, Lệ Thủy ca bài "Duyên kiếp" lồng lộng trời Đội Đỏ. Cưới nhau rồi, anh đổi hai chục giạ lúa lấy cây đờn để gảy tửng từng tưng cho chị nghe chơi. Rồi anh đổi năm công ruộng để lấy chiếc máy suốt, đổi những ngày êm đềm (mà nghèo) bên người vợ trẻ để lang thang giữa đồng khơi, những mong cuộc sống sẽ khá lên (tưởng lúc có tiền, sắm cho chị nhiều thật nhiều quần áo đẹp, chị sẽ vui), cuối cùng, anh đổi cả hạnh phúc của mình sau những ngày thưa vắng. Lần này làm cầu anh Hai biết mình sẽ phải hy sinh, sẽ phải đánh đổi nhiều thứ lắm. Anh về nhà thưa với má đừng buồn, anh sẽ đứng ra bắc cây cầu qua Đội Đỏ, má kinh ngạc, bàng hoàng quá nhưng gượng cười.
Cái cười ấy góp phần làm nên sự kiện nổi tiếng đất Đội Đỏ một người dân bỏ tiền ra để xây cầu. Một người học hành không tới đâu, cũng không có tài năng nào đặc biệt. Lãnh đạo xã bị bất ngờ, phải triệu tập gấp một cuộc bàn coi có nên cho phép Hai Nhớ làm cầu không, cây cầu có phá vỡ cảnh quan của Đội Đỏ, có ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển của xã không, cha, cũng nhiều chuyện rối tinh rối mù. Chủ tịch xã than, "Thằng Hai Nhớ này lu bu thiệt, làm chuyện bự vậy mà không bàn bạc xin phép gì hết". Đám thợ được rước về từ miệt Châu Phú tới đây cũng té ngửa ra, tính đâu cái người tên Nhớ này giàu lắm, ai dè anh ta cũng nghèo, nhà vách lá, nền đất, xài nước ao, làm cây cầu này anh phải cầm cố hết đất, vườn, chỉ còn trọi lỏi chỗ ở, vuông sân. Ngỡ cái tánh bộc trực, nồng hậu, chân chất anh sẽ hạnh phúc lắm, đâu biết duyên nợ cũng trắc trở, dở dang. Bàn bạc mãi, anh em thợ nói sẽ không tính công, anh Hai cãi, "Vậy đâu được, anh em còn phải lo cho vợ con, cho ông bà già ở nhà ".
Khảo sát thiết kế xong, thợ cầu Châu Phú bắt tay vào làm. Anh Hai, anh Năm cùng một số thanh niên trong xóm cũng ra phụ giúp một số công đoạn đơn giản. Nhiều bữa phải dầm mình dưới nước nhưng vui, trời ơi, tự tay mình bắc cầu để đi đến người mình thương nhớ không vui sao được. Nửa tháng sau, cầu đã hình thành dàn khung, ai đi qua cũng muốn đứng lại nhìn cho đã con mắt, muốn rờ rờ một chút, nghe lạ lẫm, bàng hoàng như chạm được một giấc mơ. Anh Hai còn dẫn thằng Dương bò ra giữa cầu, thằng con vạch quần đái xuống sông. Ai cũng cười nhưng không hiểu sao anh Hai lại ôm con mình, đôi mắt buồn như sắp khóc.
Bây giờ tối nào anh Hai cũng cùng dẫn tốp thợ qua sông uống cà-phê, nghe nhạc xập xình ở quán chị Nhiễm. Hỏi mấy băng cải lương đâu, chị Nhiễm cười hực hở, "Để đâu mất tiêu rồi, lâu quá...". Anh Hai nghe thấy buồn, về leo lên ngọn tràm đem chiếc loa đã gỉ sét xuống, lật ngửa lên đổ đất vô, trồng mấy bụi hành (tưởng làm vậy sẽ hết buồn). Hôm sau định không ghé chị Nhiễm uống cà-phê, nhưng thằng Dương chạy ra rủ ba đẽo súng cây, nắn máy cày cho nó. Nó hay ngồi nhìn anh, nhìn mê say, nhìn tới chảy nước miếng, anh hỏi con nhìn gì, nó cười, "Sao kỳ quá hà, ba ở đây sao con mắc nhớ ba hoài. Mai mốt cầu xong rồi, bữa nào con cũng chạy qua chơi với ba nghen ba". Anh không trả lời, chỉ vò đầu nó, đôi mắt buồn rười rượi.
Đầu tháng Bảy, cầu đã làm xong, người ta khen tấm tắc "đẹp y như cầu Mỹ Thuận". Bữa liên hoan tiễn những người thợ Châu Phú, ông Ba trưởng ấp còn đào cả chum rượu đã âm thổ mười năm lên, làm thịt luôn con heo cỏ. Đến lúc về, thợ làm cầu không nhớ đã thu dọn hết thiết bị máy móc thưa, có sót gì không, ai cũng say quá trời đất. Sà lan rời bến lúc mặt trời lên, lúc mọi người trong xóm đang rủ nhau đóng góp chút ít tiền để phụ với thằng Hai Nhớ, lúc lãnh đạo xã đang bàn coi đặt tên cầu là Quyết Tiến hay là Thiên Trường, chớ để bà con kêu bằng cây cầu Hai Nhớ nghe kỳ quá, lúc chị Nhiễm tranh thủ thêu gối cưới khi quán vừa bớt khách, lúc thằng Dương đang mếu máo khóc, kêu, ba ơi ba, nhìn cây thước nhịp nhịp trên tay cô giáo, cô biểu phát âm cho đúng, chứ lớp Một rồi mà
đớt đát "cục đắt, cây căn, đầu lăn, ông phặt" thì không được.
Nhưng anh Hai đã đi rồi, gia nhập theo đám thợ rày đây mai đó. Anh Hai thưa với má, anh đi kiếm tiền về chuộc lại ruộng vườn, để lúc má xuôi tay nhắm mắt được nằm trên đất của mình, để em anh có tiền sang hỏi cưới Nhiên làm vợ và phụ với Nhiễm nuôi thằng Dương lớn... Anh Hai dặn má giữ gìn sức khoẻ. Má cố cười tươi nhưng miệng không hiểu sao lại méo xệch, nước mắt chảy giàn giụa:
- Đừng lo cho má, có theo ông theo bà, má cũng đợi bây về.
Rồi anh đi. Đi xa mà cũng như đang ở lại (bởi cũng có người đang ở trước mặt đó mà cứ tưởng đã đi xa). Ai qua cầu cũng nhớ anh, không muốn nhớ cũng mắc nhớ, như chị Nhiễm. Nhiều người ngộ ra (nhất là mấy ông lâu rày đeo đuổi chị Nhiễm) "Thằng cha Hai Nhớ này khôn tổ cha chớ đâu có dại". Rồi chị Nhiễm lấy chồng, chị Nhiên cũng lấy chồng, mà không lấy anh Năm. Anh Năm chạy qua hỏi sao kỳ vậy, chị Nhiên cười ấn anh ngồi xuống ghế, xoa đầu anh, "Hiệp cũng giống hệt anh Hai, làm gì cũng không tính thiệt hơn, ở với Hiệp, chị không cảm thấy chắc chắn, lâu bền".
Anh Năm về, thất vọng, nghẹn ngào hỏi má, chân tình mà không chắc chắn, không lâu bền sao má, không đáng để được đền đáp sao má.
Má vuốt tóc con trai, không nói gì hết, má suy nghĩ. Có nên nói hay không lời xưa rày má thường dạy thằng con trai lớn, rằng sống trên đời, thấy phải thì làm, mà làm cũng đừng nghĩ sẽ được đáp đền xứng đáng, vì có những thứ quý giá lắm, chẳng gì bù đắp được đâu.
Tác Giả: Nguyễn Ngọc Tư
Tiếng còi tan việc nổi lên vang động trong không khí. Lập tức các công việc trong xưởng đều ngừng lại. Bọn thợ đàn ông với lấy cái áo mũ trên mắc rồi hấp tấp dồn nhau đi ra phía cửa như một lớp sóng người.
Liên cùng mấy chị em bạn gái thong thả hơn, vì công việc họ làm xong đã lâu rồi. Nhìn lại một lần nữa cái thùng giặt đầy quần áo sạch sẽ họ làm trong một xưởng xe tay bọn thợ con gái ra đến cửa sau hết mọi người. Họ vui vẻ nói chuyện luôn miệng như những con chim sẻ ngày mùa. Nhưng Liên không thể giữ được cái rùng mình sẽ rung chuyển thân thể nàng mỗi lần đến trước một chú tây đen cao lớn ngồi canh cổng và khám các người làm công. Toàn thân Liên cứng lại dưới hai bàn tay mập mạp đen thủi nắn bóp khắp cả trong ngươi. Nàng nhắm mắt như không muốn trông thấy cái cười khả ố của người gác và hai con mắt sâu hoắm của hắn ta long lanh ham muốn.
Ra đến ngoài, Liên nhẹ hẳn người. Cảnh tấp nập ở ngoài phố làm nàng vui vẻ. Mấy chị em bạn cùng rảo bước trên vỉa hè, vừa đi vừa nói những câu chuyện trong sở, thỉnh thoảng làm cho một cô bật lên mấy tiếng cười trong trẻo, ròn rã như tiếng cười con trẻ. Liên và mấy cô bạn gái của nàng, tuy đã có đến hàng nghìn lần, mà lần nào ở trong xưởng ra về, cũng thấy vui vẻ trong lòng như một người vừa làm xong công việc của mình. Cái vui vẻ giản dị ấy làm cho nàng quên trong chốc lát những khó nhọc và các ý nghĩ lo buồn.
Đến chỗ rẽ sắp phải chia tay, tất cả bọn đứng dừng lại dưới gốc cây bàng, Liên sẽ bảo các bạn:
Các chị bây giờ về nhà, chắc chồng con vui vẻ lắm. Chỉ có em là khổ thôi.
Mọi người nhìn Liên không nói gì. Vì họ biết Liên lấy phải người chồng vũ phu ác nghiệt, hay đánh đập nàng. Lại thên mẹ chồng cũng ác nghiệt chẳng vừa, hơi một tí là đay nghiến nàng thậm tệ, đến nỗi cấm cả không cho các bạn lai vãng đến nhà nàng nữa.
Khi Liên quay đi, mấy người bạn nhìn theo thương hại:
- Chị Liên thật là khổ. Đi làm cầm cập suốt ngày để nuôi cả nhà chồng, về nhà lại bị chồng nó hành hạ.
Cô Sinh, người nhiều tuổi nhất trong bọn, giọng nói đầy vẻ tức giận:
- Tôi mà như chị ấy thì tôi bỏ quách đi lấy người khác. Mình đi làm kiếm được nuôi thân, có phải nhờ vả gì nhà chồng đâu mà sợ.
Một người khác chép miệng thở dài:
- Chẳng qua cũng là tại cái số chị ấy vất vả nên mới gặp người như thế.
Liên một mình thong thả bước đi. Nàng không còn vui vẻ nữa vì sắp về tới nhà. Nàng buồn rầu nghĩ đến cái cảnh êm thấm trong gia đình của các bạn, khi đi làm về được chồng con săn sóc đến. Về phần nàng, không phải một cái gia đình mà nàng lui tơi nữa, chính là một cái địa ngục. Liên không hiểu vì sao chồng nàng và mẹ chồng đối với nàng lại ác nghiệt, ghét nàng như thế. Có lẽ vì xưa kia cha mẹ nàng đã bắt người ta phải dẫn cưới nhiều chăng? Nàng đoán có lẽ thế vì mỗi lần chửi mắng bà mẹ chồng lại nhắc đến chuyện ấy mà đay nghiến nàng.
Liên thở dài nhớ lại quãng đời nàng từ lúc đi lấy chồng. Bảy tám năm qua, mà Liên tưởng hình như lâu lắm, hình chư đã hết nửa đời người. Nàng về nhà chồng từ năm mười bảy tuổi. Tại sao nàng lại lấy người chồng này mà không lấy Tâm, người nàng quý mến từ thuở nhỏ và bây giờ cùng làm một sở với nàng, Liên cũng không rõ tại sao nữa. Khi cha mẹ nàng ngỏ ý gả cho Tích, lấy cớ rằng hai nhà vẫn quen biết nhau, Liên tuy không bằng lòng nhưng nàng vẫn không từ chối. Mà nàng cũng không dám từ chối cái gì. Nàng tưởng rằng mình sinh ra chỉ để chịu sai khiến mà thôi, không dám phản kháng bao giờ cả.
Trong bảy năm ở nhà chồng, nàng chịu bao nhiêu nỗi khổ sở, hành hạ mà không dám kêu ca. Liên chỉ âm thầm đau đớn. Nàng thương hại cho Tâm đã khổ vì nàng. Khi được tin nàng đi lấy chồng, Tâm bỏ nhà trốn đi. Cách đây một năm sự tình cờ lại khiến cho nàng với người cũ gặp nhau làm cùng một sở. Tâm vẫn yêu nàng, và sau khi biết nàng bị khổ, chàng yêu cầu nàng bỏ chồng cũ để lấy chàng.
Liên nhiều khi sung sướng tưởng tượng đến cái đời dễ chịu của nàng nếu lấy Tâm. Nhưng Liên vẫn từ chối. Chính nàng cũng không hiểu tại sao mà từ chối. Hình như có những cái lẽ tối tăm làm cho nàng sợ hãi, không dám nhận lời. Liên lờ mờ thấy rằng nàng không đủ can đảm làm một việc như thế, không đủ quả quyết với mình để chống lại những cái cay nghiệt gây nên chung quanh nàng. Không phải vì nàng quyến luyến đứa con lên sáu: nàng không yêu nó vì nó cũng xấc láo như bố. Nhưng bỏ chồng bỏ con để lấy Tâm, để được sung sướng riêng lấy mình nàng, Liên cho như là một việc không bao giờ có thể làm được.
Sáng nay, vào đến sở, nàng thấy Tâm khác mọi ngày thường. Chàng gọi nàng ra một chỗ và ứa nước mắt nói:
- Liên ạ, mai tôi phải đổi đi Sài Gòn, mà đi chưa biết bao giờ mới được về, Liên nghĩ thế nào? Nếu Liên còn yêu tôi, xin Liên đi hẳn với tôi, chúng ta sẽ xa hẳn chỗ này. Tôi xin cam đoan làm cho đời Liên được sung sướng. Liên bằng lòng đi, Liên!
Nàng chỉ cúi mặt khóc. Khi thấy Tâm thất vọng quay đi, nàng đau đớn, uất ức, như đứt từng khúc ruột. Hình như từ đây có cái gì gẫy nát không phương vớt lại được trong cả đời nàng.
Bước chân vào nhà, tự nhiên Liên thấy lo sợ. Không khí trong nhà nặng nề như sắp có tai nạn gì xảy ra. Tích và bà mẹ đương ngồi bàn tán, thấy nàng về ngưng lại, mỗi người ngồi một chỗ, nhưng thỉnh thoảng đưa mắt nhìn nàng. Liên lặng lẽ vào buồng xem con ngủ, rồi ngồi bên mâm cơm nguội để phần. Nàng và vội vàng mấy miếng cơm, cố nuốt cho xong bữa.
Bỗng nhiên bà mẹ chồng lại gần, giọng dịu dàng làm nàng ghê sợ:
- Này cô Liên, thế cô định đi theo cậu Tâm vào Sài Gòn thật đấy chứ?
Liên giật mình, hoảng hốt đáp:
- Thưa mẹ, ai bảo mẹ thế?
- Lại còn ai bảo nữa. Mà cần gì phải có ai bảo tôi mới biết. Thôi, cô có đi thì cứ thu xếp mà đi đi, đừng ở đây nữa. Phải, cô thiết gì cái nhà này...
Liên thưa:
- Mẹ nói oan cho con, chứ con đâu dám thế.
Bà mẹ chồng lồng lộn lên, xỉa xói:
- Đừng già mồm nữa, con kia. Có người rõ ràng trông thấy mày đứng nói chuyện với nó buổi sáng nay, còn chối gì nữa, đồ khốn nạn! Này tao bảo thật: mày tưởng mày đi thoát được cái nhà này à?
Bà cụ đay nghiến và riếc móc nàng bằng những lời chua cay. Tích vẫn ngồi trên ghế, yên lặng không nói gì. Liên ứa nước mắt, đặt bát cơm ăn dở xuống chiếu, phàn nàn:
- Mẹ cứ đặt điều cho con mãi. Thật là ác, không cho người ta nuốt trôi miếng cơm nữa.
Nàng nghẹn ngào, buông đũa đứng dậy toan bước xuống dưới nhà. Nhưng có tiếng xô ghế, rồi một bàn tay nắm chặt lấy cổ nàng:
- Mày bảo mẹ tao ác à? Không ác để cho mày tự tiện đi theo trai phải không?
Bàn tay như sắt bóp chặt xoay nàng lại. Liên thấy giáp mặt mình, cái mặt ghê sợ của Tích, hai mắt đỏ ngầu. Cái giận dữ làm tiếng hắn run lên:
- Con đĩ!
Liên thoáng nghĩ nét mặt thanh tao của Tâm ban sáng. Nàng khing bỉ nhìn chồng:
- Buông tôi ra.
Rồi nàng gục xuống dưới những cái đấm đá nặng nề. Lòng ghen ghét làm Tích khỏe thêm lên. Hắn nghiến răng lại đánh túi bụi. Hắn thấy ghét nàng đến cực điểm. Không phải vì nàng không yêu mà hắn căm tức. Nhưng nàng lại đi yêu một người khác, như đâm vào lòng tự ái của hắn. Sự ấy không bao giờ hắn tha thứ được.
Khi Liên thấy tiếng nói, tỉnh lại, thì đã chiều. Mở mắt, nàng thấy đứa con đứng bên sợ hãi nhìn nàng. Liên vùng ngồi dậy, lo sợ, vì sực nhớ đã mất buổi làm. Nhưng khi cử động, nàng thấy khắp người đau đớn, và cái quang cảnh buổi trưa lại hiện ra trong trí.
Một sự căm hờn nỗi dậy trong lòng nàng, Liên nhớ ra ngày mai Tâm phải đổi vào Sài Gòn. Sao nàng không đi với Tâm được? Ai cấm? Mà tội gì nàng ở đây để chịu những nỗi khổ sở như thế này? Phải đi, đi để thoát nơi địa ngục, đi để hưởng chút hạnh phúc mà nàng có quyền được hưởng ở đời.
Nhưng đến ngày mai, những điều dự định của Liên tiêu tán cả. Nàng ẵm con ra tiễn Tâm ngoài ga, rồi để Tâm một mình bước lên xe hỏa mang theo đi cái hy vọng cuối cùng của đời nàng. Khi đoàn xe đã khuất, Liên thấy bao nhiêu nỗi đau khổ trỗi dậy ngập lòng. Nàng gục đầu vào chiếc cột sắt, rồi oà lên khóc.
Ngày nọ nối tiếp ngày kia, Liên lại vẫn chịu cái đời khổ sở, đau đớn mọi ngày. Cái mộng một cuộc đời sung sướng với Tâm, Liên buồn rầu cho như là những vật tốt đẹp mà nàng thấy bày trong tủ kính các cửa hàng, những vật quý giá mà nàng tưởng không bao giờ có thể thuộc về nàng được.
Một anh học trò có tính hay ghen, muốn thử lòng vợ. Tối đến anh ta ngồi nấp một xó, đợi vợ đi qua, thì chạy ra ôm chầm lấy. Vợ giật mình kêu lên. Anh ta mừng lắm, nói:
- Rõ thật phúc nhà mình! Ðược người vợ trinh tiết!
Một hôm, xem sách đến chỗ Tần Cối giết Nhạc Phi, anh ta giận lắm, đang cầm cái chén trong tay, quăng xuống đất vỡ tan. Vợ thấy vậy, nói:
- Cả nhà có mười cái chén, đập vỡ chín cái rồi, còn cái này, lại đập vỡ nối, lấy gì mà uống?
Anh ta trợn mắt, quát:
- À, ra mình bênh thằng Tần Cối à? Hay là mình đã tư thông với nó rồi?
752Nghệ Thuật Khỏa Thân
“Tắt đèn làm đếch gì!” - Thổ Khôi lầu bầu, lại bật đèn lên, rồi hai tay hắn quờ quạng ôm lấy vợ.
“Cái lão quỷ này, không biết xấu hổ à... Bị ma ám hay sao thế hả?”.
Thổ Khôi chẳng nói chẳng rằng, loáng một cái đã lột hết quần áo lót của vợ. Cưới nhau đã ba năm, làm cái chuyện kia bao nhiêu lần rồi, thế mà hôm nay lần đầu tiên hắn mới nhìn thấy thân thể người đàn bà. Mắt hắn đờ ra, đầu óc như mụ đi. Cặp vú có hai núm nhỏ màu sẫm trông như hai cái sừng dê mới nhú, trông đẹp bằng mấy thứ vú làm bằng cao su bày trong cửa hàng trên phố và mê ly hơn nhiều. Cái lưng thon thon, đôi chân dài dài, làn da trắng trẻo mịn màng như cây cải bắp mới lớn. Mình phải “làm” thôi, Thổ Khôi mút mút đầu lưỡi. Thúy Hoa của mình còn “nghệ thuật” hơn nhiều so với những bức tranh vẽ các cô gái trần truồng hắn vừa nhìn thấy trên thành phố sáng nay.
... “Ai mua vé không, ai mua vé không? Phim Giọt máu trinh nữ, phim Mỹ loại độc đây. Cơ hội hiếm có!”. Lũ phe vé mất dạy, vé giá 5 hào mà chúng bán đắt gấp 10 lần. Thổ Khôi đắn đo mãi mới dám mua một chiếc. Khi vào rạp chiếu bóng, nhân viên soát vé bảo: “Đây là vé xem triển lãm hội họa ở gian bên chứ không phải vé xem phim, bác mắc lừa chúng nó rồi”. Thổ Khôi giận điên người định xé béng chiếc vé ấy, nhưng nghĩ lại, vé đã trót mua rồi, triển lãm lại ở ngay bên cạnh, tội gì chẳng đảo qua một tí, xem thiên hạ vẽ thế nào cũng hay chán.
Vào triển lãm rồi, Thổ Khôi mới cảm thấy kỳ lạ làm sao. Ôi mẹ ơi, trên tường treo bao nhiêu là tranh vẽ đàn bà không mặc tí tẹo quần áo nào mới kinh chứ! Hắn len lét liếc nhìn xung quanh, sau khi không thấy có người quen nào mới thở một hơi dài khoan khoái. Người trong xóm mà biết mình vào đây thì “dư luận” gay lắm!
“Này cậu gì ơi, tranh vẽ người trần truồng thế này mà sao bên công an người ta lại không có ý kiến gì nhỉ? Thằng cha Vương Tiểu Nhị xóm tớ chỉ bán có mấy bộ tú lơ khơ vẽ đàn bà ở truồng thôi mà đã bị công an tóm cổ đưa lên đồn đấy!”.
“Đồng chí ơi, đấy là những thứ văn hóa phẩm khiêu dâm. Còn đây người ta gọi là nghệ thuật. Khác nhau đấy!”.
Đầu óc Thổ Khôi bỗng sáng ra như căn phòng tối được thắp đèn. Trên đường về nhà trọ, hắn mê mẩn người, trong óc hiện lên toàn là hình đàn bà trần truồng các kiểu. Nghĩ mãi, rồi hắn cũng nghĩ tới cô vợ Thúy Hoa của hắn. Vợ mình xinh nhất xóm đấy chứ, mặt xinh này, thân hình cũng gọn gàng này, chỉ có điều suốt ngày mặc bộ quần áo rộng thùng thình, mọi đêm mình có làm cái chuyện kia thì cũng tắt đèn tối như hũ nút, chẳng được ngắm nghía gì, thật phí của. Lần này về nhà quyết phải bắt cô ấy “nghệ thuật nghệ thuật” một tí chứ. Thế là Thổ Khôi tạt vào chợ đêm mua cho vợ một bộ váy loại lụa mỏng tang nhìn thấy cả da thịt.
... Dưới ánh đèn sáng, Thúy Hoa trần như nhộng ra sức giãy giụa. Mọi khi cô ấy vẫn ngoan ngoãn theo hắn kia mà! Lần chống trả này chỉ khiến cho Thổ Khôi càng thêm xúc động hăng tiết. Hắn thở phì phò ráng sức đè vợ xuống... Xong việc, Thổ Khôi cảm thấy hôm nay mình mới được làm người đàn ông thật sự. Hắn ngồi dậy, tợp một ngụm trà rồi định làm tiếp lần nữa. Ai ngờ cô vợ bỗng bật khóc hu hu. Mới đầu Thổ Khôi còn có chút khoái chí vì đắc ý, nhưng rồi hắn lập tức cảm thấy tình hình có chiều hướng nguy hiểm. Người đàn bà càng khóc càng to, càng thương tâm. Cuối cùng, tiếng gào khóc ấy khiến ông bố Thổ Khôi chạy đến đập cửa vào phòng.
Mẹ Thổ Khôi mất từ khi hắn còn ẵm ngửa. Ông bố một mình gà trống nuôi con nên người, cho nên Thổ Khôi rất kính nể, sợ bố một phép. Cái nhà ba người này, Thổ Khôi vâng lời bố, bố hắn nghe lời con dâu, Thúy Hoa là cao nhất, cái trật tự ấy chẳng ai dám đảo lộn.
“Nói cho tao xem nào, có việc gì thế hả? Đang yên ổn không đâu lại bắt nạt con Thúy Hoa, mày có muốn để tao xé xác ra không hả, thằng kia?”.
“Thưa bố, không có chuyện gì đâu ạ”.
“Không có chuyện, lại còn không có chuyện gì hả, đồ vô lương tâm, hu hu!” - thấy được bố chồng bênh, Thúy Hoa khóc càng to. Đang khóc, bỗng nghĩ đến cái túi xách chồng mang về chiều nay, cô bèn chạy đến lục túi. Quả nhiên Thúy Hoa lấy ngay ra được cái váy kia. Bây giờ thì càng rắc rối to rồi! “Bố xem, cái thứ váy này chẳng hiểu anh ấy mua cho con đĩ nào đây... Đổ đốn ra thành phố chơi bời với lũ đàn bà ngoài ấy, về nhà lại định học đòi bắt nạt con... Trời ơi! Hu hu! Con không muốn sống nữa!”.
Thổ Khôi chớp chớp mắt, tròng mắt trắng dã, mồ hôi toát ra như tắm. Bị ông bố truy hỏi mãi, cuối cùng hắn đành ấp úng kể lại đầu đuôi mọi chuyện. Ông bố giận tái mặt, những đường gân xanh trên trán ông run bần bật. Ông cầm chiếc ống điếu phang một cái vào đầu Thổ Khôi: “Đồ con mất dạy, mất dạy! Tám đời nhà ta thế là bị mày làm tan tành sụp đổ cả rồi, Lại còn nghĩ ra chuyện đi xem đàn bà ở truồng nữa cơ, mày không thấy thằng Nhị Tiểu vừa bị người bên công an tóm cổ lôi đi hả?”.
“Thưa bố, chuyện này khác ạ. Người ta làm chuyện khiêu... khiêu gì gì ấy cơ ạ. Còn con chỉ xem nghệ thuật thôi ạ”.
“Đồ súc sinh, lại còn già mồm hả!”. Cái ống điếu lại phang một cái nữa vào đầu Thổ Khôi, lần này phang mạnh hơn. “Lần sau mà mày còn vào thành phố thì ông chặt chân, nghe chưa!”.
Cũng chẳng hiểu tại sao, hôm sau người trong xóm trông thấy Thổ Khôi ai nấy đều chỉ chỉ trỏ trỏ, ghé tai nhau thì thầm cứ như chỉ sau một đêm mà trên đầu hắn bỗng mọc sừng hay sao ấy. Biết là chuyện lan ra ngoài xóm rồi, cho nên trông thấy ai là Thổ Khôi lẩn ngay. Thế nhưng cũng có lúc chẳng trốn đi đâu được. Mụ Hai, cái mụ gái góa trong xóm ngày thường vẫn bám riết tán tỉnh Thổ Khôi ấy, hôm nay mặt mày hớn hở tươi roi rói hẳn lên. Mụ õng ẹo chặn đường Thổ Khôi: “Thế nào, muốn xem mụ già này cởi truồng hả? Nhà tớ không có ai đâu, vào đây tớ cho xem này”. Thổ Khôi ngượng chín người chỉ muốn độn thổ.
Tối hôm ấy trước khi lên giường, hắn chủ động tắt đèn chứ không để vợ tắt như mọi khi.
Truyện ngắn của Mi Guo-xian (Trung Quốc)
Vào một chiều xuân, trên bến Thị Dạ xuất hiện một chiếc ghe lạ. Từ khi ghe chưa ló dạng, tiếng trống đã dập dồn vang dội triền sông. Đầu ghe cắm một lá cờ hội vuông vức ba màu xanh đỏ vàng, những tua viền ngũ sắc và đôi giải buông hình lưỡi rắn uốn lượn trong gió thật đẹp mắt. |
Làng Thị Dạ ít có dịp giải trí nên mỗi khi ghe hát cập bến, dân chúng rất vui mừng. Từ già chí trẻ nhấp nhổm trên bờ sông, chỉ trỏ xuống ghe bình luận, có khi còn kêu vói ơi ới như đón người thân quen đi xa trở về. Bầu Bang buộc ghe vào gốc bồ đề sát mép nước, đi sắm chút lễ mọn xin phép làng xã, thế rồi gánh hát dọn lên đình, che rạp ngoài trời. Trước đêm diễn người nhà bầu Bang kê bàn bán vé. Thôi thì lớp trong lớp ngoài chen chật như nêm, dân chúng hiếu kỳ thì nhiều, người mua thì ít. Dân nghèo, đồng bạc vô túi khó khăn, nên chi dùng cân nhắc lắm. Chỉ những dịp kỳ yên, hương chức kêu tờ, gọi gánh về hát án cúng thần, thì dân làng được coi thí, không phải mất tiền. Bên kêu tờ có quyền đòi diễn tuồng nào, vai chính do kép nào đóng. Theo đúng yêu cầu, bầu gánh rà xem kịch mục trong tờ kêu là tuồng gì, rồi đi mời kép vá ra vai. Kép vá là kép chỉ chuyên một vai “tủ”, kẻ chuyên vai Đổng Kim Lân, người chuyên vai Tạ Ôn Đình. Kép vá diễn siêu đến đâu cũng không ăn nhịp hoàn toàn với các vai khác, tựa như miếng vải mới chằm trên tấm áo cũ, do vậy mới gọi là vá. Gánh Bầu Bang là gánh đầu tiên nuôi hẳn một kép nhứt, đến đâu là neo lại cả tháng ròng, mà sự nhộn nhịp, thổn thức không lúc nào vơi. Kép nhứt của gánh Bầu Bang là Bảy Phượng, từng theo chánh ca Mùi học hát. Đồn rằng phường hát bội có bao kiểu mặt, Bảy Phượng đều dồi trát thành thạo, mặt nào cũng hớp hồn khán giả. Bảy Phượng sắm bi, cái buồn lan đến từng cọng cỏ. Bảy Phượng sắm hùng, thì chết điếng đàn bà con gái. Buổi chợ nào đồn tối ấy có Bảy Phượng diễn, thì cá thịt rau quả nới giá, các bà các cô hối hả về lo bữa chiều để kịp đi coi. Bảy Phượng nhập gánh này từ tháng giêng năm ngoái, ban đầu cũng định hát mướn mươi hôm, không dè mặn duyên với bầu đoàn, thế là theo luôn. Cứ mỗi lần ra đèn, Bảy Phượng vô tình làm rụng biết bao trái tim dân nữ. Trong khi đó trái tim anh không ngừng nhảy nhót bởi đào Nga, con gái Bầu Bang. Đào Nga mập trắng, vú căng bưởi tháng tám, eo thắt lưng ong, mông to tày thúng, bước đi đổ quán xiêu đình, ngó sướng con mắt, chớ không như bọn kép giả gái người thẳng đuỗn, cứng ngắt. Bảy Phượng chưa gặp ai giống vậy bao giờ: lúm đồng tiền bên má phải như xoáy nước mờ ảo khiến gương mặt hơi chênh khi cười nhưng toát ra sức quyến rũ mê hồn, lại thêm mày dài đen nhức, mắt có đuôi. Đêm diễn Nguyệt cô hoá cáo, đừng nói là trong tích tuồng viết sẵn Tiết Giao phải thua Nguyệt Cô trong lúc giao tranh, Bảy Phượng ngàn lần thua khi cái lúm xoáy đồng tiền lạ lùng kia nghiêng qua anh với mấy ngón tay vuốt má ghẹo trai của nữ hồ ly. Đôi mắt dài của Nguyệt Cô đào Nga lẳng lơ vừa quét qua một lượt, Tiết Giao Bảy Phượng mê mẩn tâm thần, tuy miệng sang sảng quát mắng nhưng cú ngã ngựa của anh tướng trẻ bỗng đầy cảm hứng. Đào Nga xán lại cạ chiếc má mịn mát vào má anh, nói nhỏ: “Khuya ra bờ sông nghe”. Tan buổi diễn, Bảy Phượng vội vàng tẩy trang, cắm đầu chạy. Gió sông thổi lên mát rượi. Lâu lắm, chừng như trăng đã mỏi mới thấy đào Nga bợ ngực lúp thúp chạy tới. Nàng nhìn quanh rồi chui ngay vào vườn nhãn, và mau chóng nhìn thấy Bảy Phượng đang chờ. Đào Nga nhoài xuống ôm lấy cổ Bảy Phượng, lấy tay bẻ cằm anh lại sát mặt mình. Con mắt dài như thuyền. Lúm đồng tiền sâu hút. Hai bầu vú không nịt tròn thây lẩy dưới làn áo mỏng. Và trăng tan ra, tan ra... Đào Nga rên nhớ mùi thị chín, nhưng bấy giờ trái mùa không tìm đâu ra quả, Bảy Phượng bèn lội khắp các vườn tìm cây thị, hái đại một nhánh lá thị về tặng đào Nga. Nàng cầm nhánh lá đưa lên mũi, hít hít rồi khen thơm. Bảy Phượng cũng hít nhưng không nghe mùi gì, vò thử một lá ngửi thấy ngai ngái. Đào Nga hỏi thơm không, Bảy Phượng đáp rằng thơm lắm. Chuyện Bảy Phượng với đào Nga mê nhau ai mà không biết. Có điều, Bảy Phượng không phải là người đàn ông đầu tiên của đào Nga. Người đầu tiên đào Nga kết là Hoàn, một học sinh trường thuốc. Anh đẹp một cách thư sinh, cái đẹp sáng láng của người có chữ nghĩa và am hiểu nghệ thuật. Mấy năm trước gánh Bầu Bang dừng lâu ở phố huyện, thường trùng với kỳ nghỉ hè của Hoàn. Đêm đêm Hoàn ngồi hàng đầu xem hát và nán lại bàn luận với Bầu Bang chuyện làng hia mão, rồi lịch thiệp mời cả gánh đi ăn khuya. Trước mọi người, Hoàn tịnh không săn đón riêng cô đào non mười sáu tuổi. Mặc dù Bầu Bang và ông Tư trống chầu đoán anh cảm đào Nga, nhưng sự tế nhị của anh khiến họ vừa nể lại vừa hài lòng. Mỗi lần Hoàn đến nói chuyện với Bầu Bang, ông Tư trống chầu luôn ngồi ở góc chiếu hầu rượu, còn đào Nga thường kiếm một cớ nào đó để ngồi gần ánh đèn, khi thì đính thêm kim tuyến lên cổ một chiếc áo hoàng hậu, khi thì tết dải hoa đỏ trước bộ giáp ngực tướng soái, một là được nghe anh nói, hai là kín đáo khoe vẻ đẹp đặc biệt ăn đèn của mình như lời một ông thợ chụp hình đã khen. Hoàn bàn: “Hát bội toàn diễn tích cũ mà xem hoài không chán”. Bầu Bang bảo: “Người ta coi hát bội là để đo lường mình và đo lường thiên hạ, cái xảo trá gian hùng, cái trung tín nhân nghĩa ở đời có bao giờ cũ?”. Xem vở Cổ thành, anh hỏi: “Thưa bác, vì sao Châu Thương đi bộ hạ?” Bầu Bang đáp: “Cậu không để ý đấy thôi, Châu Thương là cướp núi, vẫy vùng một cõi, nói năng trịch thượng, đi đứng ngang tàng. Đến khi gặp Quan Công, biết trước mặt mình là bậc cái thế anh hùng nức tiếng bấy lâu. Uy dũng vằng vặc của ngài đã khiến Châu Thương bị chinh phục, một hai tự nguyện theo hầu. Đấy là sức hấp dẫn của chính khí. Châu Thương đi bộ hạ, là để tỏ sự tôn kính đối với Ngài. Ngài là tùng bách, mình chỉ là lau cỏ. Ngài là mặt trời, mình chỉ Một bữa, thấy đào Nga lảng vảng, ông Tư trống chầu hỏi: “Sao cậu không nói không rằng gì tới các vai đào?”. Hoàn đỏ mặt, đào Nga cũng đỏ mặt. Bầu Bang lặng lẽ uống rượu. Biết Hoàn sắp về, đào Nga lẻn ra đường, tìm một chỗ khuất đứng chờ. Nhận ra nàng, Hoàn gọi nhỏ: “Cô Nga”. Nàng run bắn, chân khuỵu xuống, Hoàn hốt hoảng đưa tay đỡ. Vừa chạm vào nàng, trong Hoàn bỗng xuất hiện một sức mạnh ma mị, anh vác nàng chạy phăm phăm vào một khoảng vườn um tùm. Có mùi thị chín. Dường như một quả thị vàng vừa rụng xuống. Đến lúc nàng về, hai ông già vẫn còn ngồi uống rượu. Đào Nga len lén đi nằm, chợt nghe cha nói với ông Tư trống chầu: “Người ta con nhà gia thế ... Đời nào!” Rồi không thấy anh học sinh trường thuốc ấy ngồi ở hàng ghế đầu coi hát bội nữa. Rồi có tin Hoàn lấy vợ, ở rể tận Nam kỳ. Sau đó, gánh Bầu Bang rời phố huyện. Qua năm ba lần tan gánh, lập gánh, đào Nga diễn mỗi lúc mỗi lên nước, tha hồ đi ngang về dọc. Bầu Bang biết mà không nỡ la rầy. Trong khi chờ kéo màn diễn vở Sơn hậu, dân nghiện hát bội làng Thị Dạ kể vanh vách bảng phân vai đào kép. Đêm đầu Bảy Phượng sắm vai Đổng Kim Lân, đêm thứ hai Bảy Phượng sắm vai Phàn Diệm. Tướng gộc Tạ Ôn Đình cả hai đêm đều do kép Liêu sắm. Tạ Ôn Đình xuất tượng, lập tức sàn diễn nổi cuồng phong. Vóc vạc ngang ngửa, cờ giáp uy nghi đã đành, mà đến sắc diện cũng chứa đầy bão tố. Cứ nhìn đôi tròng loã ham hố giữa cái mặt màu da cua râu mọc rậm ri, ai nấy hồi hộp như chính mình đụng phải thứ dữ. Của đáng tội, cặp mày vẽ vụng quá! Mày tướng gộc đúng lý là mày xước, muốn vẽ mày xước trán phải cao, đằng nầy trán Liêu thấp chẹt, không đủ chỗ cho ngọn bút hất lên, thành thử gã tô lông mày chè bè, dòm tức rực. Lạ chưa! Bà con ồ lên ngạc nhiên. Cái mặt Tạ Ôn Đình bữa nay oai hơn hôm qua. “Nó kiếm đâu ra cái trán cao mới tài vậy cà?”- ông Tư lẩm bẩm. Ông không biết, nhưng Bảy Phượng biết. Hồi nãy ở sau màn, Đào Nga liệng cho kép Liêu một mảnh vải rộng non gang tay, bảo gã bịt tóc trán, dồi phấn luôn trên nền vải cho liền mặt để trán rộng ra, tha hồ vẽ lông mày. Đào Nga vẽ mặt xong thấy gã vẫn còn lóng cóng thắt mở, bèn giật phắt miếng vải: “Đưa đây bày cho, để ý lần khác còn làm”. Rồi đào Nga ngồi trước mặt Liêu, vuốt ngược tóc gã. Trong khi nàng choàng hai tay ra sau ót Liêu để buộc nút vải, cái cổ áo hớ hênh bày trọn dưới mắt gã vầng ngực căng đầy. Không biết gã làm gì, chỉ nghe đào Nga rủa một tiếng, rồi lại tiếp tục xoa phấn lên trán cho gã, Bảy Phượng muốn lộn gan lên đầu, vùng vằng bỏ đi. Kép Liêu chỉ đợi có vậy, gã đặt hai bàn tay gọng kìm lên cái hông thon thả của đào Nga, mó máy thăm dò. Đào Nga vờ thản nhiên làm mặt cho gã, nhưng người rừng rực như một đống lửa. Nàng dán râu liên tu bó hàm tới mép tai cho gã, rồi lườm gã một cái đầy ý nghĩa. Diễn xong, mọi người chưa kịp tẩy trang, bầu Bang kêu họp gánh. Ông dặng hắng một cái rồi hỏi: “Cái xóc giáp của Ôn Đình tối nay bị lỗi gì, các con có biết không?”. Kép Liêu vòng tay lí nhí: “Nhờ thầy giảng cho”. Bầu Bang bảo: “Ôn Đình là tướng gộc, bị thua một tướng trẻ như Phàn Diệm thì hổ ngươi, nên phải dùng chân hất giáp lên vai để che vết thương. Vì vậy miếng này kêu là Ôn Đình đá giáp. Lấy giáo xóc giáp lộ liễu như kép Liêu tối nay là sai kích thước nhân vật, là trật miếng. Cái trán rộng với đôi mày xước coi bộ uổng công quá!” Đào Nga bụm miệng cười. Bảy Phượng, kép Liêu mỗi người đuổi theo một ý nghĩ. oOo Đợi người khách cuối cùng vào hội trường, ông già bảo vệ đóng cổng. Bà già bán thuốc dòm ông, hỏi: - Ông hổng coi na? Ông nhát gừng: - Ba cái mửng cũ, hay ho gì coi. - Sao nghe nói diễn trích đoạn mà ông? Trích đoạn là hàng lựa, phải ngon mới được lựa chớ ông. Mà tui nghe có mấy ông to to dìa đây. Hổng lẽ diễn mửng cũ ai coi! - Nhiều thứ cũ người mới ta, thì cũng có thứ cũ ta mới người chớ bà. Tiếng trống mở màn đổ dồn. Bà già giật giọng: - Ông nghe coi! Cái trống bữa nay kêu khác mọi bữa phải hông? Ông già bảo vệ nhận ra điều đó còn sớm hơn bà già, nhưng ông không nói chi cho mệt. Bà già cuống quýt bưng tủ thuốc, xin: - Ông cho tui vô trỏng coi mới được. Tui đoán người cầm chầu này phải sắp tụi mình, ông à. Chỉ sắp tụi mình mới biết trống như vậy. Ngạc nhiên, nhưng ông già bảo vệ cũng cho bà già vào. Nhìn theo cái dáng lật đật của bà, ông thấy tội tội. Té ra bà này cũng dân ghiền hát bội, lâu nay mấy khi bả háo hức vậy đâu. Ông bấm ổ khoá, vô ngồi chồm hổm trên hè, lôi gói thuốc rê từ túi ra, thong thả vấn một điếu lớn, rít vài hơi rồi dựng chỏ tay trên đầu gối, suy tư. Khói thuốc bay chìm chìm trong bóng đêm... oOo Đào Nga có mang. Bảy Phượng bảo cái thai là của tôi. Kép Liêu cũng bảo cái thai là của tôi. Bầu Bang quát to như sấm hai kép mới thôi cãi nhau. Hai kép kéo nhau ra bờ sông, lao vào nhau như hai con trâu điên, xéo nát mấy khoảng vườn mà đào Nga từng cho họ nếm mùi thiên đường địa ngục. Đến khi cả hai đều nhừ tử, thì họ cùng cay đắng nhận ra sự giành giật thật vô nghĩa. Chỉ cần đào Nga chọn một trong hai thì dù đau đớn, kép Liêu lẫn Bảy Phượng sẽ hành động một cách thượng mã. Nhưng đào Nga đã không chọn họ. Nàng thẫn thờ ngồi nhìn nhánh lá thị giắt trên vách liếp. Nhánh lá đã héo nhưng chẳng hiểu sao không chịu ngả vàng. Trong buổi trưa hai kép đi đánh nhau, Bầu Bang bắt đào Nga quỳ giữa chiếu, còn ông cột võng giữa hai cây sầu đâu nằm ngó mông xuống bến Thị Dạ. Ông Tư trống chầu rón rén ra ngồi bên cạnh. Từ khi giao hiệu tạp hoá cho bà vợ cai quản, còn mình mang một bọc tiền lớn theo giúp Bầu Bang, ông Tư trống chầu tự nhủ sẽ không bao giờ lấy vai trò mạnh thường quân xen vào việc riêng của chủ gánh để Bầu Bang khỏi khó xử. Ban đầu, tưởng theo Bầu Bang mươi bữa nửa tháng cho vui vậy thôi, ai dè từ chỗ mê coi hát, mê cầm chầu, ông mê luôn ông chủ gánh bụng phệ này. Ông thấy ở Bầu Bang một khí độ hơn người. Ngày qua tháng lại, hai ông già thành một đôi tri âm tri kỷ. Giờ biết Bầu Bang buồn mà không giúp gì được, miệng ông Tư trống chầu đắng ngắt. Bầu Bang đưa võng kẽo kẹt, kẽo kẹt từ trưa tới xế. Ông Tư vịn đầu võng xin: - Cô Nga quỳ dậy là đủ rồi ông chủ à. Bầu Bang thõng chân xuống kìm cái võng lại: - Tôi nhục lắm anh Tư ôi. Nó ưng ai tôi cũng gả, nhưng nó không chịu ưng ai hết! Ông Tư trống chầu nói nhỏ nhỏ: - Cổ nặng lòng với cậu Hoàn. - Nặng cái nỗi gì chớ? Nặng lòng mà đem đời mình đi phá sao? Ông Tư nín bặt. Bầu Bang tiếp tục đưa võng kẽo kẹt tới chiều, rồi thở hắt: - Anh Tư, anh biểu con Nga với sắp nhỏ dọn gánh xuống ghe đi. Ghe Bầu Bang lênh đênh dọc miền Trung, mỗi nơi lưu lại vài ba đêm, đêm nào cũng đông khách. Không biết vô tình hay hữu ý, các nơi kêu tờ cứ đòi diễn Hộ sanh đàn. Người thì bảo đào Nga diễn hay nhất là lớp Kỷ Lan Anh bụng mang dạ chửa, lưng đeo song kiếm, cùng cô hầu người thượng băng ngàn tìm chồng. Người thì bảo, hay nhất là màn Lan Anh đẻ rơi, đẻ xong tay ẵm cháu thơ, tay bế con dại chạy giặc, vừa chạy vừa hát: “Bởi vương mang gánh nghĩa gánh tình, nên lịu địu tay bồng tay ẵm”. Người thì bảo, Bảy Phượng cầm cây độc phủ diễn lớp Tiết Cương chống búa mới đã, nhưng độc chiêu hơn có lẽ là giọng hát buồn đến móc hết ruột gan mình ra để người khác đoạn trường: “Thế sự đoản ư xuân mộng. Nhân tình bạc tợ thu vân. Nghiến răng cười, cười cũng khó khăn. Ôm lòng chịu, chịu càng vui sướng. A ha ha...hả hả...hả hả hả... ứ... hự...mà... hả hả hả...” Bảy Phượng hát cái cách gì, mà kép Liêu thấy mình có lỗi quá. Kép Liêu biết cả mình lẫn Bảy Phượng đều sẵn sàng chết vì đào Nga, nhưng không phân định nổi đào Nga sẽ chết vì ai. Đào Nga nào chịu nói, ánh mắt nàng dành cho cả hai người như van. Các anh thôi đi, thôi đi, mỗi lời bây giờ là muối xát kim châm lòng tôi đó. Thiên hạ đang làm rầm trời kia kìa. Tôi chỉ muốn chết phứt cho rảnh. Mà ai nỡ để nàng chết? Bảy Phượng - không. Kép Liêu - không. Ông Tư trống chầu - không. Bầu Bang lại càng không. Ông không trách cứ Bảy Phượng hay kép Liêu một lời nặng nhẹ. Chính vì vậy mà trừ buổi diễn là có cái rộn ràng, còn cả ngày gánh hát lặng ắng như tờ. Nghe rất rõ tiếng chân đào Nga đi đi lại lại, nghe rất rõ tiếng ruồi vo ve, và nghe rất rõ tiếng thở dài nếu ai đó thở dài. oOo Nhất nhạn hoành phi vân tế lộ Cô đăng trường chiếu nguyệt biên thành Tiếng hát từ hội trường vẳng ra như từ một cõi xa xôi nào. Cái anh Trương Phi nhà Hán vũ dũng bộc tuệch, mà vào hát bội Việt Nam mình sao đa cảm đa sầu làm vậy. Một lần Bảy Phượng giảng cho kép Liêu rằng lời hát khách ấy của Trương Phi muốn hát cho hay phải lấy tâm trạng vô cố nhân mà hát. Lúc bấy giờ Đào Nga đã bỏ gánh trốn đi. Cả gánh nhao nhác tìm nàng mấy ngày trời, Bầu Bang gọi mọi người về : “Thôi để nó đi cho nhẹ lòng nó, sau rồi hẵng hay. Kiếm về nó cũng không yên.” Không còn đào Nga, các vở không nặng về đào như Cổ thành, Sơn hậu liên tục lên sàn. Bảy Phượng nói vô cố nhân, là ám chỉ việc thiếu vắng nàng chăng? Kép Liêu lờ mờ hiểu, nhưng phải sau khi Bảy Phượng bỏ đi biền biệt, kép Liêu mới thấm thế nào là vô cố nhân, thế nào là chiếc nhạn lẻ loi bay ngang những đám mây đuổi nhau mải miết, thế nào là ngọn đèn côi đêm dài thao thức dõi bóng trăng tà bên thành biên ải. Lớp Trương Phi xướng rượu trở thành lớp diễn kép Liêu lấy nước mắt người ta bằng nước mắt của mình. Từ độ rã gánh, bao phen kép Liêu cố ghìm, cố ép luồng hơi trở về tim một cách nghẹn ngào. Đã nghiến răng dứt bỏ nghề hát, đã cam phận làm một người bình thường, ông vẫn không sao dứt nổi mấy câu khách nọ khỏi hồn. Mỗi khi ông ngồi một mình, là nó chạy rùng rùng trong máu, guộn lên trong ngực, dựng thành luồng hơi nóng rực vùng vẫy đòi thoát ra. Không hát thì bứt rứt, mà hát thì hồn vía ngửa nghiêng, sôi réo... Ông già bảo vệ giật mình, rảy vội đóm thuốc sém kẽ tay nóng bỏng. Ai đó vậy? Ai hát câu nhất nhạn cô đăng mà nỗi nhớ nhung run rẩy từng lời, từng nhịp? Ai vừa đem tâm trạng vô cố nhân phân tỏ trước đèn? Còn tiếng trống thướng kia nữa, là của ai? Chẳng lẽ bác Tư trống chầu hiện về sao? Như một mẩu sắt bị hút về cực nam châm, ông thập thững đi vào hội trường, trôi qua các dãy ghế thưa người, chỉ dừng lại khi đã tới sát phía sau người cầm chầu. Hình như có ai đó giật áo ông, bảo ngồi xuống hàng ghế khán giả. Hình như người đó còn đưa cho ông một chai nước lọc và ông có uống thứ nước lạt phèo ấy thì phải, vì cơn sôi réo trong ông dần lắng xuống. Ông giám đốc nhà hát tỉnh vói qua nói với ông chủ tịch hội bảo trợ nghệ thuật truyền thống ngồi cách một ghế, rằng người đóng Trương Phi tối nay là nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Thành Phượng. Trời, ông bảo vệ già kêu thầm, té ra cha Trương Phi này chính là Bảy Phượng, mình không lầm mà! Và ông bỗng mờ mịt về cảm giác đang diễn ra trong lòng mình, buồn hay mừng đây? Bởi từ lâu ông đã xếp cái tên kép Liêu vào dĩ vãng. Ngay cả khi số phận dẫn dắt ông về lãnh chân bảo vệ của trung tâm văn hoá huyện này, nơi có cái hội trường trung bình mỗi tháng mươi đêm hát bội của các gánh nghiệp dư, mỗi năm vài ba đêm của đoàn hát bội nhà hát tỉnh, thì tiếng trống thì thùng của chừng ấy cuộc xướng ca vẫn không đánh thức nổi anh chàng kép Liêu trong ông tỉnh giấc ngủ vùi. Bây giờ, coi bộ anh chàng kép Liêu đang dụi mắt lồm cồm ngồi dậy vì câu hát nhất nhạn cô đăng của Bảy Phượng và tiếng trống chầu giống hệt tiếng trống bác Tư xưa, nhưng coi bộ anh chàng trong cái vỏ hom hem này không đủ can đảm giáp mặt nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Thành Phượng để thốt lên hai tiếng “cố nhân”. Sau trích đoạn Trương Phi xướng rượu là lớp Nguyệt Cô hoá cáo do đôi nghệ sĩ trẻ tài năng Tuân Phi - Bạch Dương biểu diễn. Ông già bảo vệ nhìn chéo lên hàng ghế đầu, nơi nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Thành Phượng đã trút vai tuồng, bệ vệ ngồi giữa ông giám đốc nhà hát tỉnh và ông chủ tịch hội bảo trợ nghệ thuật truyền thống. Khắp người ông Phượng toả ra ánh sáng của những miền văn minh mà cả đời ông bảo vệ già chưa biết đến. Nhưng kìa, tiếng trống đã nổi lên. Tiếng cắc rụp cắc rụp dồn dập gõ lên cái hồi hộp của Tiết Giao xen với tiếng tùng tùng rộn rã nỗi bồn chồn mê đắm của Nguyệt Cô nhẹ dạ. Khi Tiết Giao phỉnh được Nguyệt Cô dâng ngọc, chiếc dùi của người cầm chầu giáng lên mặt trống một tiếng sấm giận dữ rồi cất qua tang trống, lướt trong điệu thán tức tưởi xót đau. “Kỳ tài!” - ông già bảo vệ buột miệng. Ông Phượng và người cầm chầu cùng lúc ngoái đầu, nhưng ông già bảo vệ đã vội vã đứng lên và lẩn đi rất nhanh trong bóng tối của hội trường. oOo - Tôi vô phép... - Ông Phượng ngập ngừng bắt tay người cầm chầu - Ông anh đây là...? Giám đốc nhà hát tỉnh lịch thiệp giới thiệu: - Dạ, đây là giáo sư tiến sĩ y khoa Phạm Hoàn, một người rất có mắt xanh với tuồng. Người cầm chầu nhã nhặn mỉm cười: - Đúng ra phải nói tôi là người mê hát bội Bình Định. Ông chủ tịch hội bảo trợ nghệ thuật truyền thống nói: - Giáo sư Hoàn từ hồi học trường thuốc năm nào cũng về quê ngoại ở phố huyện hàng mấy tháng trường để coi hát. Ông Phượng hồ hởi: - Lúc nghe trống, tôi đã ngờ rằng đây là người học sinh trường thuốc tài hoa mà bác Tư Trống chầu và thầy Bầu Bang hay nhắc. Hữu duyên thiên lý, hân hạnh gặp ông. Ông chủ tịch hội bảo trợ nửa đùa nửa thật: - Tài lắm! Tài lắm! Chẳng những ẵm ngón chầu thiện nghệ của ông Tư Trống mà còn ẵm luôn đào nhứt gánh Bầu Bang nữa đó nghe! Ánh mắt những nữ nghệ sĩ trẻ sóng sánh ngạc nhiên. Ông Hoàn cười nhẹ, còn ông Phượng quay đi giấu một cái chau mày. Ông Hoàn khen nghệ sĩ Bạch Dương: - Cháu diễn giỏi lắm! Cháu học hát ở lò nào? - Dạ không. Cháu biết hát là nhờ mẹ dạy. - Quê cháu ở đâu? - Thưa, ở bến Thị Dạ. Ba chữ bến Thị Dạ làm ông Phượng giật mình. Ông kín đáo nhìn cô gái. Gương mặt trông nghiêng của Bạch Dương tưởng chừng phảng phất những nét đẹp lạ lùng ám ảnh cả đời ông. Mắt dài như thuyền, mày xanh như liễu, và lúm đồng tiền xoáy nước mơ hồ... Ông Hoàn lại hỏi: - Bác trông cháu hao hao một người. Có phải mẹ cháu là ... đào Nga không? Bạch Dương lắc đầu: - Cháu có nghe mẹ nhắc tới, nhưng chưa từng gặp. Giáo sư biết bà ấy à? - Vâng, có biết... Ông Hoàn trả lời, những lời không hẳn là dửng dưng, nhưng ông Phượng chợt thấy lòng đau nhói. Phạm Hoàn mới chính là người đàn ông đã đốt lên trong đào Nga ngọn lửa đam mê. Niềm mong mỏi một ngày kia người đàn ông ấy trở về ngồi ngây trên hàng ghế đầu xem nàng hát luôn ghì siết nàng bằng muôn sợi nhớ thương ràng rịt. Còn ông, Bảy Phượng, mặc dù đã rời gánh hát Bầu Bang như rời một giấc mơ, song con đường nghệ thuật mà ông theo đuổi suốt đời vẫn không thôi chập chờn bóng dáng người ca nữ ấy. Đào Nga vẫy gọi, thách thức ông khi thì bằng cái nhìn hớp hồn và những đường roi tuyệt kỹ, khi thì bằng giọng cười vừa trong vắt vừa đục ngầu của một Nguyệt Cô giữa khát vọng và dục vọng dội về trong tiềm thức. Cả nỗi xúc động kỳ lạ của nàng khi nghe mùi thị chín thoảng đưa trong gió cũng chiếm lĩnh ông, được ông ủ tận đáy lòng như một niềm riêng tư sâu kín. “Thưa ông”, nghe tiếng gọi rè rè, ông Phượng sực tỉnh. Trước mặt ông là một bà già cốc đế. “Có một ông nhờ tui gửi ông cái này”- bà nói và đưa cho ông một miếng giấy gấp tư. Ông mở ra đọc, dưới ánh đèn hiện lên mấy dòng nguệch ngoạc: “Kính gửi nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Thành Phượng, tức Bảy Phượng, Lâu lắm mới lại nghe hát bằng nỗi lòng vô cố nhân. Tiếc là đào Nga không được gặp lại ông. Từ đình Thị Dạ ra hướng bắc chừng trăm thước là mả cô ấy, mả không dựng bia, tui có trồng cây thị làm dấu. Nếu ông ghé về thì thắp cho cô ấy cây nhang”. Ông Phượng chạy theo bà già: - Kép Liêu! Bà làm ơn chỉ... |
Một người sắp đi chơi xa, dặn con:
- Hễ có ai tới thì đưa cái giấy này cho họ.
Ðứa bé bỏ tờ giấy vào túi áo. Cả ngày không thấy ai đến. Tối, sẵn có ngọn đèn, nó lấy ra xem, chẳng may vô ý để tờ giấy cháy mất.
Hôm sau, có người đến hỏi:
- Thầy cháu có nhà không?
Sực nhớ đến tờ giấy, nó buồn rầu đáp:
- Mất rồi!
Ông khách giật mình, hỏi:
- Mấy bao giờ?
- Tối hôm qua.
- Sao mà mấy?
- Cháy!
2586
Có một người diễn viên già đã về hưu và sống độc thân . Mùa hạ năm ấy, ông tìm về một làng vắng vẻ ở rừng núi , sống với gia đình người em của ông là giáo viên cấp một trường làng. Mỗi buổi chiều , ông thường ra ngồi chơi nơi bãi cỏ vắng lặng ngoài thung lũng . Ở đây chiều nào ông cũng thấy một chú bé ra ngồi đợi đoàn tàu hỏa chạy ngang qua . Có một đường tàu hỏa đi qua thung lũng rộng này , trước khi rẽ vào những núi đá um tùm phía ga trên . Chú bé hồi hộp đợi . Ðoàn tàu phủ đầy bụi đường với những toa đông đúc hành khách như một thế giới khác lạ ầm ầm lướt qua thung lũng . Chú bế đứng vụt dậy , háo hức đưa tay vẫy . Chú mong có một hành khách nào đó vẫy lại chú . Nhưng hành khách - mệt mỏi vì suốt một ngày trên đường - chẳng ai đi vẫy lại chú nhỏ không quen biết . Hôm sau , hôm sau , rồi hôm sau nữa , hôm nào ông già cũng thấy chú bé ra vẫy và vẫn không hành khách nào vẫy lại . Nhìn nét mặt thất vọng của chú bé , ngực người diễn viên già như thắt lại . Ông nghĩ : "Không có gì đau lòng bằng thấy một em bé thất vọng , đừng để cho trẻ con mất lòng tin ở đời sống , ở con người .
Hôm sau , người em thấy ông anh mình giở chiếc vali chứa đồ hóa trang diễn viên của ông ra . Ông dán lên mũi một bộ râu giả , đeo kính , mượn ở đâu một chiếc áo vét cũ mặc vào , rồi chống gậy đi .
Ông đi nhờ chuyến xe ngựa của trạm bưu điện xuống ga dưới , cách đó 20 km . Ông mua vé lên tàu đi ngược lên ga trên . Ngồi sát cửa sổ toa tàu , ông thầm nghĩ : đây là vai kịch cuối cùng của mình , cũng như nhiều lần nhà hát phân cho mình - một vai phụ , một vai rất bình thường : một hành khách giữa bao hành khách đi tàu .
Qua cái thung lũng có chú bé đang đứng vẫy , người diễn viên nhoài người ra , cười và đưa tay vẫy lại chú bé . Ông thấy chú bé mừng cuống quít , nhảy cững lên , đưa cả hai tay vẫy mãi .
Con tàu đi xa . Ông diễn viên già cảm động hơn bất cứ một đêm diễn huy hoàng nào ở nhà hát . Ðây là vai kịch cuối cùng , của ông , một vai phụ , một vai không có lời , một vai không đáng kể nhưng đã làm cho chú bé kia vui sướng , đã đáp lại tâm hồn chú và chú sẽ không mất lòng tin vào cuộc đời .....
October, 1995 - Vancouver
Tô thêm một lớp son bóng lên môi, Phương Cát nhìn lại mình trong gương, vội vã nói với chồng:
- Xong rồi nè anh, thấy em giỏi chưa?
Đang nằm trên giường xem TV, Hoàng vùng dậy, bước đến bên vợ, vòng tay qua cái eo nhỏ xíu của nàng, kéo nhẹ vào lòng, thì thầm:
- Lúc nào mà vợ anh không giỏi, cho mi một miếng được không?
Xô nhẹ chồng ra, Phương Cát nói nhanh:
- Trể rồi anh ơi, đừng có làm hư tóc em.
Hoàng cù nhầy:
- Hổng cho mi, tui hổng đi.
Phương Cát la làng:
- Còn có năm phút nữa hà, đi không thôi trể, tối về rồi mi.
Đưa mắt nhìn đồng hồ, Hoàng mè nheo:
- Còn những mười phút nữa lận mà cưng, cho mi miếng đi mà.
Chìa má ra cho chồng, Phương Cát cười lớn:
- Bố ỷ không có trẻ con rồi làm tới hả?
Hôn vợ xong, Hoàng cười chiến thắng:
- Lâu lâu không có trẻ con, cũng vui chứ hả em. Mình xuống dưới Lobby được rồi, cũng gần 6 giờ.
Đứng sát vào chồng hơn trong thang máy, Phương Cát hỏi:
- Anh nói đúng 6 giờ người ta đón mình hả. Ủa sao mình không lái xe đến tiệm ăn, mà nhờ người ta đón đưa chi cho phiền họ hả anh?
- Không phiền đâu em, Anh Danny là chủ của công ty này mà.
- Chủ thì chủ chớ, phiền người ta cũng kỳ.
Hoàng nắm tay vợ, phân bua:
- Tại anh ngại ăn xong trời tối, mình không quen đường, lái về nguy hiểm. Ổng volunteer mà.
Phương Cát thắc mắc:
- Có ai đem vợ đi ăn tối nay không anh? Em ngại quá!
- Hình như có 2 người nữa cũng đem vợ theo, chứ không phải mình anh đâu.
- Nếu vậy thì đỡ quá, chứ một mình em thì “wê” lắm đó à nha.
Hoàng trấn an vợ:
- Không sao đâu mà, cả hơn ba mươi người cùng đi ăn tối nay chứ có ít đâu.
Phương Cát lắc lắc cái đầu:
- OK anh, cùng lắm thì em chịu quê vậy, đằng nào cũng đã nhận lời mời rồi, không đổi ý được nữa.
Bước ra khỏi thang máy, Phương Cát thấy một nhóm người đang đứng ngồi nói chuyện ồn ào trong phòng tiếp tân của khách sạn Hyatt. Hoàng nắm tay vợ, đi về phía đám đông, lên tiếng:
- Chúng tôi có trể giờ không các bạn?
- Không đâu, còn nhiều người chưa xuống tới.
Hoàng quay sang bắt tay người vừa nói, rồi giới thiệu:
- Đây là vợ tôi, Laura, và đây là anh Danny Lee.
Đáp lại cái bắt tay của Danny, Phương Cát nhìn vào gương mặt người vừa được chồng giới thiệu. Gương mặt trông thật quen, bộ râu quai nón làm Danny nhuốm nét phong trần. Cặp mắt sâu với hàng mi dài, chớp nhẹ, anh nói:
- Thật là hân hạnh được gặp chị, thưa chị Hoàng.
- Dạ tôi cũng vậy, rất hân hạnh được gặp anh.
- Anh Hoàng nói hôm nay chị đi chơi một mình trong lúc chúng tôi làm việc?
- Vâng, tôi mua một vé xe Bus đi nguyên ngày, nên đã thăm khắp hết thành phố của anh rồi.
Danny lắc đầu, cười:
- Ô, không phải thành phố của tôi đâu, tôi cũng chỉ mới dọn đến đây vài năm thôi. Mà chị có thích thành phố này không?
- Dạ, thích lắm ạ.
- Đây là lần đầu tiên chị đến Vancouver hả?
- Dạ không, tôi đã đến đây vài lần rồi, và vì rất thích thành phố này, nên lại theo anh Hoàng đi chơi nữa.
- Chị thích cái gì nhất ở đây?
- Dạ thích nhiều thứ quá, chưa biết cái nào nhất cả. Anh thì thích cái gì ở đây nhất ạ?
Danny cười lớn:
- Tôi thích khu chợ Tàu ở đây nhất.
Phương Cát nhíu mắt một chút, rồi đáp:
- Vâng, khu chợ Tàu của Vancouver thật là lớn, có rất nhiều loại trái cây Việt Nam mà bên Houston chúng tôi không có anh ạ.
Mỉm cười tinh nghịch, Phương Cát tiếp:
- Chẳng lẽ anh cũng thích trái cây sao?
- Không chị ạ, tôi sống qua ngày nhờ chợ Tàu.
- Anh nói gì, tôi không hiểu.
Xoa hai bàn tay vào nhau, Danny giải thích:
- Tôi ra chợ Tàu ăn cơm rất thường chị ạ.
Phương Cát ngạc nhiên hỏi:
- Anh không ăn cơm nhà?
- Tôi lười nấu lắm chị, một mình nên cũng ngại.
Hoàng chen vào:
- Ủa anh không có gia đình?
- Dạ chưa, anh.
Hoàng đùa:
- Anh Danny kén dữ ha.
Giọng Danny buồn buồn:
- Kén chọn gì đâu anh, tại mình yêu người ta, mà người ta không yêu mình, đi yêu người khác.
Phương Cát tránh tia nhìn của Danny khi nghe chàng nói câu này. Chẳng lẽ lại có sự trùng hợp lạ lùng như vậy sao.
Một toán người khác từ thang máy bước ra đã cứu Phương Cát khỏi đôi mắt dò hỏi của Danny. Nàng thầm cám ơn họ và lẫn vào đám đông để không phải đối diện với Danny.
*
Mới đầu tháng Mười mà Vancouver đã chớm lạnh. Tiệm ăn nằm trong khuôn viên của công viên Stanley thật dễ thương và thơ mộng. Cơn gió cuối Thu se sắt lạnh làm Phương Cát rùng mình, khi vừa bước ra khỏi xe. Hoàng lo lắng hỏi vợ:
- Em lạnh lắm không, lúc nãy đi vội, quên cầm theo cái áo cho em rồi.
Phương Cát tự trách mình:
- Em thiệt là vô ý, đã để ra sẵn mà lại quên mang theo.
Danny khóa xe xong, thấy Phương Cát hơi co ro vì lạnh, đề nghị:
- Để tôi cho chị mượn cái áo khoác của tôi.
Vừa nói, Danny vừa nhanh nhẹn cởi chiếc áo khoát của mình, Phương Cát ngập ngừng:
- Dạ thôi, không sao đâu, tôi chịu được mà.
Hoàng cười lớn:
- Em cứ mượn đỡ áo của ảnh đi, ảnh là dân ở đây, chắc quen với cái lạnh rồi.
Danny khoác chiếc áo của mình lên vai Phương Cát, ân cần hỏi:
- Có đỡ lạnh tí nào không?
- Dạ ấm rồi.
Kéo ghế mời Phương Cát xong, Danny ngồi xuống chiếc ghế đối diện với nàng, Hoàng ngồi bên cạnh vợ. Phương Cát lúng túng tránh nhìn thẳng vào Danny.
Sau khi kêu thức ăn cho mình, Danny nhìn Phương Cát, hỏi:
- Sao chị không order thức ăn vậy?
Phương Cát cúi đầu ngượng ngùng không nói, Hoàng chen vào:
- Cô ấy ghé chợ Tàu mua trái cây và ăn một bụng no nê rồi.
Danny lại hỏi:
- Sáng nay chị đi đâu?
- Dạ thì đi vòng vòng thôi.
Hoàng lại chen vào:
- Laura kể là sáng nay chạy bộ một vòng ngoài công viên này rồi đó. À hồi nãy em hỏi anh cái gì về những người dân ở đây vậy, anh quên rồi.
- Không có gì quan trọng đâu ạ.
Danny không bỏ qua cơ hội:
- Laura có gì thắc mắc thì cứ hỏi, nếu biết, tôi sẽ trả lời, mà không biết, cũng sẽ trả lời luôn.
Phương Cát phì cười dù trong lòng đang bối rối. Danny vẫn còn tính đùa vui như xưa. Với cái tên Mỹ và cách trang điểm mới, nàng không biết Danny có nhận ra mình không. Nhưng với nàng, dù đã hai mươi năm qua, Danny hay Đằng thì nàng cũng nhận ra thôi.
Tháng Năm, 1970 - Huế
Đằng cúi thấp hơn trên cái ghi đông của chiếc xe đạp, hai chân cố đạp thật chậm mà mắt vẫn liếc nhìn bên kia đường coi có bóng “nàng” thấp thoáng không. Con số 17 in đậm trên bức tường, bên cạnh cái cổng sắt đóng kín, làm chàng thất vọng. Lúc nãy, khi đạp xe từ dưới ga lên, chàng đã làm như không để ý đến căn nhà màu vàng đồ sộ ngay dưới chân cầu Bạch Hổ, nhưng thật ra chàng đã để hết tâm trí mỗi lần đạp xe ngang đây.
Đường Huyền Trân Công Chúa dường như ngày mỗi ngắn lại, có bữa Đằng đạp xe tới quá “nhà Ông Tây” thì đạp lui, cũng có bữa, chàng đạp quá trường tiểu học Dương Xuân Thượng mới quay trở lại. Lòng nôn nao được nhìn thấy “nàng” làm Đằng không biết mệt.
Từ dưới Đập Đá, mỗi ngày Đằng đạp xe lên đây ít nhất một lần để hy vọng thấy được “nàng.” Có lẽ “nàng” không biết, vì nhiều khi Đằng bắt gặp “nàng” hồn nhiên leo lên cây Trứng Cá trước nhà, thong thả hái từng trái chín, cho vào miệng nhai ngon lành, mái tóc dài màu nâu đậm bay bay trong gió làm Đằng ngây ngất. Lại có lúc nàng ngồi trước hiên nhà với cuốn sách đọc dở và con chó Berger to lớn nằm bên cạnh.
Hôm nào thấy được nàng, Đằng hớn hở, đạp xe về lại với lòng rộn ràng, hân hoan. Hôm nào không thấy được, Đằng buồn rầu vô cớ, lòng mang một nỗi thất vọng, ê chề ...
Trời đầu tháng Sáu, Huế nóng khô, cơn gió nóng từ Lào thổi về cháy rang da mặt, dân Huế gọi những ngọn gió này là “gió Lào.” Mùa Hè chỉ mới bắt đầu mà Đằng tưởng như ngày khai trường sắp đến. Sau khi có kết quả của kỳ thi Tú Tài I, bạn bè rủ nhau đi chơi nhưng Đằng không đi, mỗi ngày đạp xe qua Cầu Lòn vài lần với hy vọng được thấy “nàng” nhưng cả tuần nay, cánh cổng sắt vẫn đóng kín.
- Ơ! Ơ! Cái anh ni, răng đi xe mà dòm chổ mô, đụng tui nì.
Giật mình khi nghe có tiếng la bên tai, Đằng thắng xe nhanh lại, luống cuống nhảy xuống:
- Xin lỗi O, cháu không thấy.
- Răng ngày mô tui cũng thấy anh đạp xe đi ngang đây, mà đi như người mất hồn rứa?
- Dạ, dạ ...
Người đàn bà đứng tuổi nhìn thẳng vào mặt Đằng, rồi hỏi:
- Anh ở mô, chơ đi tới đây làm chi?
Đằng bối rối, chưa tìm ra câu trả lời, người đàn bà lại lên tiếng:
- Anh quen với nhà ông Đại Úy Ân hay răng?
- Dạ không ...
- Rứa răng cứ đạp xe mà dòm miết vô nhà người ta rứa, mà nì ...
Người đàn bà ngừng một lát, nhìn Đằng đang lúng túng, rồi lại tiếp:
- Mà cả nhà ổng dọn đi gần 2 tuần ni rồi, anh không biết răng?
- Ủa, dọn đi mô rứa O?
- Tui nghe như là họ dọn đi Đà Nẵng
- Cả nhà đi hết hả O?
- Chơ chi nữa, nhà đang bỏ trống trơn ...
Đằng quay người, nhìn thẳng vào căn nhà, cửa vẫn đóng, cây trứng cá như héo hơn mọi ngày. Vậy mà mấy hôm nay chàng vẫn ngại bị bắt gặp nhìn lén nên cứ cúi mặt mỗi khi đạp xe ngang đây.
Cám ơn người đàn bà xong, chàng leo lên xe, nặng nhọc đạp về.
Tháng Năm, 1974 – Đà Nẵng
Phương Cát chầm chậm kéo những gàu nước dưới giếng lên, đổ vào thau, mắt nhìn ra đường, trước khi ngồi xuống rửa tiếp rổ rau mới hái trong vườn. Thấy vài người quen đi làm về, nàng gật đầu chào. Buổi chiều, con đường Thanh Long nhiều xe hơn trong ngày. Những đám bụi bay mờ cả lối, khi một chiếc xe jeep chạy ngang, đường đất còn mới nên nhiều bụi. Hôm nào mưa thì lại càng khổ hơn vì những ổ gà chứa nước lại văng tung tóe khi những chiếc xe này cán lên.
Hôm qua, bị đòn vì bức thư tình của anh Đằng. Cái anh này đến lạ, không dưng theo người ta, viết thư tán tỉnh. Vậy mà anh Hai quất ba roi đau điếng. “Em không có gì với nó, sao nó lại viết thư tình cho em.” Oan ơi là oan mà không giải thích được...
Ba tuần trước, tình cờ gặp anh Đằng ở nhà Thanh, trong dịp tập văn nghệ cho buổi phát thưởng cuối năm của lớp. Thanh giới thiệu Đằng là anh họ từ Huế vào chơi. Nghe anh Đằng nói chuyện với nhỏ Thanh thật vui. Anh hay nói đùa và nhìn Phương Cát, rồi mỉm cười. Khi bắt gặp anh nhìn, cô vụng về lúng túng quay đi nơi khác, lòng xôn xao. Tập xong màn vũ, anh Đằng bao cả bọn đi uống chanh muối, rồi kéo về lại nhà Thanh hát hò. Nhìn Đằng ôm guitar hát, lòng Phương Cát như reo vui.
Sau hôm đó, chiều nào Phương Cát cũng thấy Đằng đạp xe ngang nhà. Anh chỉ nhìn Phương Cát, mỉm cười, rồi đi. Có những đêm thao thức mất ngủ khi nhớ lại ánh mắt của anh nhưng cô không ngờ hôm qua anh Hai nhận được thư Đằng gởi. Không hỏi một câu, anh Hai bắt nằm xuống, quất ba roi. Mẹ chỉ nói: “Sao không hỏi cho ra ngọn ngành, đã nhè em mà đánh ...” Ba thì nói vào: “Đánh là phải rồi, mới có mười bốn, mười lăm tuổi đã có thư tình ...”
Phải chi mình có tình ý gì cũng đỡ tức, Phương Cát vừa rửa rau, vừa suy nghĩ. Nhất định phải tìm cho được lá thư để biết thư nói gì.
Bức thư có vài câu đọc nghe chẳng ra làm sao cả: “Đứng trên Đèo Hải Vân nhìn Biển Thanh Bình qua những chiếc tàu Mỹ ...” nhưng càng đọc Phương Cát càng ngạc nhiên vì không ngờ anh Đằng đã “theo” mình từ lúc còn ở Huế. Từ lúc mình mới mười một, mười hai tuổi. Thư kể đến nỗi thất vọng khi biết gia đình Phương Cát đã dọn vào Đà Nẵng. Rồi phải dọ dẫm tìm kiếm để cuối cùng biết được Phương Cát học cùng lớp với cô em họ của Đằng.
Thư còn nói đến nỗi mừng vui khi gặp lại nàng và những xúc động khi được cùng nàng đi uống chanh muối, dù có rất đông người cùng đi. Rồi lúc ôm đàn hát, anh nói, mặc dù rất đông người, anh vần chỉ nghĩ là anh hát cho riêng cô mà thôi.
Nếu mình chỉ bị ba roi mà đau như vậy thì có lẽ trong 4 năm trời anh Đằng tìm kiếm còn đau hơn biết chừng nào. Phương Cát mỉm cười, đưa tay xoa nhẹ lên chỗ bị đòn hôm qua, rồi đọc tiếp bức thư... Nỗi tức giận vì ba roi hôm qua tan hết.
Trả bức thư lại chỗ cũ, Phương Cát lui ra khỏi phòng học, cô vào phòng Ba Mẹ. Nhìn tới nhìn lui mình trong gương đứng của chiếc tủ đựng áo quần, cô chợt thấy một niềm vui khôn xiết. Chà, mình cũng xinh đó chớ giỡn sao, không xinh mà anh Đằng đã để ý từ lâu nay à.
*
Vancouver ...
Tiếng Danny bên tai, mang Phương Cát trở về hiện tại.
- Anh chị qua Mỹ lâu chưa?
- Từ năm 75 đó anh.
- Ngày xưa anh chị ở Sàigòn?
- Dạ, tôi ở Sàigòn. Còn anh thì sao?
- Tôi đang dạy học ở Quảng Trị lúc đó, bị kẹt luôn lại. Đến năm 1980 mới vượt biển và được Canada nhận vào ...
Phương Cát ngồi nghe chồng và Danny nói chuyện, chen vào hỏi:
- Anh là Danny Lee?
- Dạ, Lê Khắc đó chị,
Phương Cát mở lớn mắt nhìn Danny. Không biết anh đã nhận ra mình chưa. Hai mươi năm rồi, chắc chắn nàng đã thay đổi nhiều.
Nàng hồi tưởng lại những ngày giữa tháng tư năm 75, đã cùng gia đình chạy vào Nha Trang, rồi tin Sàigòn mất, cả nhà theo chú nàng xuống tàu ra khơi ...
Những ngày trong trại tỵ nạn, nàng đã bỏ công tìm kiếm tên Lê Khắc Đằng trong những danh sách thật dài của Red Cross. Những lúc sắp hàng chờ cơm, nàng đã ngẩn người khi thấy một dáng dấp quen thuộc. Những buổi tối tụ tập hát hò trong trại làm nàng nhớ đến ánh mắt năm nào, đã ôm đàn hát những bản tình ca Trịnh Công Sơn... thật tình tứ ...
Xe đến trước cửa khách sạn đúng lúc bản nhạc Tình Nhớ trong chiếc CD cũng vừa chấm dứt.
“Tình ngỡ đã phôi pha, nhưng tình vẫn còn đầy.
Người ngỡ đã đi xa, nhưng người vẫn quanh đây.
Những bước chân mềm mại, đã đi vào đời người.
Như từng viên đá cội, rớt vào lòng biển khơi ...
Xuống xe, đưa trả lại chiếc áo cho Danny, Phương Cát nhìn anh, nói nhẹ:
- Cám ơn anh Đằng nhiều, nhờ có áo của anh chứ không thì Phương Cát chết rét.
Danny sững sờ nhìn nàng, rồi ngỡ ngàng nói nhỏ:
- Anh cũng ngờ ngợ là Cát, không dè lại là Cát thật.
Lau nhanh hai hàng nước mắt ấm đang rơi trên má, Phương Cát đưa tay ra, nói chậm:
- Anh ở lại bình an.
Cầm tay Phương Cát, Đằng nghẹn ngào:
- Chúc Phương Cát ngày mai về lại Houston yên bình ./.