Trang

Jun 26, 2008

Không xứng chiều cao



Cô vợ trèo lên bàn cân, anh chồng nhăn mặt:
- Em có biết, em phải cao chừng nào để tương xứng với trọng lượng không?
- Chừng nào?
- Năm mét rưỡi!

1773

Jun 25, 2008

Nó đếm xong trước con



Cậu bé tơi tả về nhà với một vết tím bầm dưới mắt, mẹ mắng:
- Mẹ bảo con bao lần là phải đếm đến 100 đã, nếu vẫn thấy tức, mới được đánh nhau cơ mà.
- Vâng, nhưng trong lúc con đang đếm thì đã bị thằng Vitca đấm một quả vào mặt rồi, vì bố thằng ấy chỉ dặn nó đếm đến 50 thôi ạ!
2423

Bệnh nhân và bác sĩ



Trong buổi dạ hội, người đàn ông lịch sự nói với một cô gái đang cười toe toét:
- Thấy cô cười, tôi muốn làm những việc tốt đẹp cho cô.
- Ôi, ông thật đáng yêu, bất cứ việc gì ư?
- Cô gái reo lên.
- Ồ không, chỉ trong lĩnh vực răng miệng thôi, vì tôi là nha sĩ.
1810

Nhất sếp, nhì trời



- Hôm qua, cô thư ký đã mời tôi đến nhà cô ấy để ăn mừng sinh nhật của tôi...

- Chuyện lãng mạn đây!


- Cô ấy đã mời tôi uống Martini, nghe nhạc nhẹ, rồi nói: "Em sẽ dành cho anh một chuyện bất ngờ. Em vào phòng ngủ và 5 phút sau anh hãy vào theo. Cấm vào sớm đấy nhé!".

- Rồi sao nữa?

- Khi tôi bước vào... phòng tối om. Bật điện lên thì...

- Cực kỳ bất ngờ chứ?

- Tất nhiên, tôi đang như Adam, không một mảnh vài trên người.

- Thật tuyệt, còn cô ta

- Cô ta đang đứng ... cùng toàn thể nhân viên trong phòng cùng hoa và quà tặng sinh nhật cho tôi !!!
1355

Jun 24, 2008

Cây Me Hàng Xóm



Không biết từ bao giờ cây me sau vườn nhà ông hàng xóm đã thu hút tôi. Cây me này cũng như những cây me khác, không có gì đặc biệt. Ấy thế mà, không biết vì sao, mỗi lần đi ngang qua là tôi có một cảm giác lâng lâng khó tả. Cái cảm giác mà nó cứ âm ĩ trong tim, trong tâm trí tôi.

Tôi cũng không rõ cây me có từ bao giờ, nhưng khi tôi bắt đầu biết chuyện thì nó đã ở đấy, đồ sộ, và cao lớn. Dường như sự hiện diện của cây me nhà ông hàng xóm là món quà dành riêng cho tôi? Hầu hết, thời niên thiếu của tôi đều nằm quanh gốc me này.

Năm tôi mười hai tuổi, cây me đã sừng sững vươn mình dưới vòm lá xanh, lòa xòa, mát rượi, bên cạnh ngôi nhà rêu phủ, lúc nào cũng khóa kín. Căn nhà có cánh cửa sổ với hai hàng chữ và một hình vẽ. Hình vẽ là bàn tay phải đang chỉ ngón trỏ vào phía trong nhà. Trong hai hàng chữ, tôi chỉ đọc được có hàng trên: "Vô Phận Sự Cấm Vào". Còn hàng kia là những chữ thật khó hiểu. Sau này, tôi nghe mẹ tôi nói đó là tiếng Tây.

Cây me mà tôi kể, nó có lớp vỏ mầu xám đen, nứt nẻ. Trên thân cây, nhiều vết bằm chồng chéo lên nhau và còn có cả gốc đinh bù-lon lớn mắc theo sợi giây phơi đồ. Căn cứ trên những vết dao, vết nứt, và cây đinh bù-lon đã bị cây me nuốt chửng cũng đủ cho người ta biết cây me đã trải qua không bao nhiêu là trận mưa gió.

Hồi ấy, tôi là đứa trẻ phá nhất xóm. Phải nói tôi là một thằng quỷ nhỏ. Thằng ôn dịch, chuyên môn phá làng phá xóm. Tuy phá, nhưng tôi vẫn không bao giờ dám bén mảng tới gần gốc me này. Tôi sợ! Tôi sợ những lời đồn của mấy đứa bạn trong xóm về huyền thoại của cây me. Những lời đồn đó đã làm tôi chùn chân trước sự hiện diện của khu vườn vắng người trông nom. Theo như lời của những người trong xóm kể cứ mỗi đêm ba mươi hay trăng rằm, trên gốc me, người ta thấy bóng của một người thiếu nữ với mái tóc dài thả lơ lửng, đầu gục xuống. Cô gái đang treo trên sợi giây thòng lọng, treo tòn teng trên cành cây.

Họ thêu dệt ra rằng gia chủ là phù thủy chuyên đi tìm những người con gái còn trong trắng để giao hợp rồi giết và treo lên cây. Lý do họ nói như thế là vì gia chủ của ngôi nhà đóng cửa và cây me ấy là một người khác so với dân trong xóm. Ông ta là Tây lai với đôi mắt sâu thăm thẳm như cố tình thu hút hết hồn của những kẻ chuyên môn soi mói chuyện người khác. Họ còn thêu dệt thêm rằng trong nhà ông có rất nhiều thây ma và xác chết.

Cũng có nhiều người kể chuyện huyền thoại về cây me và ngôi nhà suốt ngày cứ đóng cửa im ỉm kia. Bởi vậy, không một người nào dám bén mảng lại gần ngôi nhà ấy.
Chủ nhân của ngôi nhà có cây me huyền thoại kia là ông Tường, một người đàn ông khoảng ngoài năm mươi. Ông có mái tóc bồng, mũi cao, cằm bạnh, mắt to và sâu, dáng người dềnh dàng, lực lưỡng. Ông Tường không vợ, không con. Ông sống một thân một mình bên căn nhà đóng kín bên cạnh mảnh đất rộng và vườn trái cây. Trước kia, ông Tường sống bằng nghề đào và đúc bi giếng cho những người trong xóm, trong làng.

Nghe mẹ tôi kể lại, lúc ông Tường còn trai trẻ, ông rất đào hoa và có nhiều tài. Tiếng Tây ông rất giỏi và có khiếu về hội họa. Những giếng do ông đào, xem mạch, nước uống rất ngọt, không phèn, và ít khi nào thiếu nước vào mùa khô. Nhưng, mấy năm gần đây do sự già yếu và phát triển của đô thành, những người thuê ông thưa dần và mất hẳn. Nên ông đâm ra chán nản. Ông thường bỏ nhà đi rong, uống rượu. Ông vốn không bạn, nên ít người viếng thăm. Từ đó ngôi nhà và cây me kia mặc sức người trong xóm, trong làng thêu dệt thêm nhiều huyền thoại.

Có lẽ ông Tường có máu Tây, nên ông thích trẻ con? Một lần, khi tôi đi học về, ngang qua khu vườn, ông kêu tôi vào và cho tôi trái cây ông hái từ trong vườn. Lúc ông gọi, tôi cứ đứng chùn chân mãi chẳng muốn vào. Nhưng thấy nét mặt dễ mến và tươi cười của ông, tôi cũng bước chân theo ông. Đó là lần đầu tiên tôi đặt chân vào nhà ông.

Khi tôi bước chân vào nhà ông Tường, tôi thật sự ngạc nhiên và thích thú với cách trang trí của ông. Không như những lời mà mấy đứa bạn tôi nói; “nhà ông có nhiều thây ma.” Mà, ngược lại, nó rất đẹp. Phòng khách có bộ trường kỷ được đóng bằng gỗ hương đang lên nước, bóng loáng. Một cái bàn hình chữ nhật và bốn cái ghế cũng bằng gỗ hương hay gụ gì đó cũng đang lên nước. Nhìn vào, tôi có thể thấy được bóng của mình loáng thoáng trên mặt bàn, trên mặt trường kỷ.
Trên bàn là bình hoa hồng trắng và hồng đỏ, một đĩa trái cây tươi. Đưa mắt nhìn lên tường, tôi thấy có tất cả bốn bức tranh rất đẹp. Khi nhìn vào những bức tranh ấy, chúng như thu hút sự tò mò của tôi. Chúng thu hồn tôi. Tôi không còn nhớ rõ bốn tấm tranh vẽ những gì. Trừ bức thứ tư, đối diện với tôi. Bức tranh ấy vẽ hình bàn tay thô, nứt nẻ, chai cứng, bàn tay đang nâng niu một nụ hồng chớm nở. Nhìn bức tranh tôi cảm thấy nó có cái gì đó tương phản với nhau, trong cái khô cằn có nét dịu dàng sắc sảo. Bức tranh đó cứ ám ảnh tôi mãi cho tới ngày nay. Bên dưới bức tranh ấy có ghi những hàng chữ Tây như "rồng bay phượng múa".

Thấy tôi nhìn vào bức tranh, ông nói với tôi bằng một tràng tiếng Tây. Tôi chẳng hiểu gì cả. Nhưng, sau đó, ông nhận ra, nên chợt ngưng ngang và dùng tiếng Việt để nói với tôi:

-- Tình yêu là thứ rượu ngon, là hoa hồng đẹp, nó đốt cháy tim tôi! Hình đó moa vẽ đó, có đẹp không ?

-- Dạ đẹp, con thích lắm.

Ông nhìn tôi cười và nói thêm một tràng tiếng Tây khác. Nói xong, ông lấy tất cả các thứ trái cây trong đĩa đưa cho tôi và tiễn tôi ra tận cửa.

Kể từ hôm ấy, tôi thường ghé lại nhà ông chơi mỗi lần có ông ở nhà và không say xỉn. Cũng từ đó, tôi làm quen với khu vườn nhà ông, làm quen với cây me. Thấy tôi ghé lại nhà ông thường xuyên, đám bạn tôi, đứa nào đứa nấy cũng le lưỡi lắc đầu có vẻ thán phục tôi lắm.

Những lần đi học về, dù có ông ở nhà hay không, tôi đều vào nhà ông hái trái cây đem về ăn. Nếu có ông, tôi xin phép được hái và đích thân ông đem ra cái lồng hái thật dài để hái những trái mà tôi thích và chỉ ông. Rồi những lần không có ông ở nhà, tôi trèo lên hái thật thỏa thích. Có một lần đang lúc trèo lên cây me hái trái, trong lúc ông vắng nhà, khi nghe tiếng động, biết ông về. Tôi vội trèo xuống, chui rào và ba chân bốn cẳng chạy về nhà. Đến nhà tôi vừa thở vừa lo ông mách mẹ. Tôi đã chuẩn bị tinh thần cho trận đòn sẽ đến như những lần hái trộm của nhà người khác. Nhưng không, ngày đó tôi không có gì xảy ra. Và, mẹ tôi vẫn không biết được chuyện tôi hái me trộm bị ông bắt gặp.

Từ đó, những lần đi học về, tôi không dùng lối đi ngang nhà ông. Mà, tôi dùng ngã sau, xa hơn cố tình tránh mặt ông. Một tuần lễ liên tục, tôi cứ dùng lối sau như vậy mà về nhà.
Hơn tuần lễ trôi qua…

Một buổi sáng nọ, nhà tôi có người hàng xóm đến chơi và đem biếu mẹ tôi ít mắm ruốc. Có gói ruốc ngon, anh tôi nhìn tôi rồi nói vớ vẩn:

-- Trời, mắm ruốc ngon và thơm thật. Mắm ruốc này mà có me ăn thiệt hết xẩy.

Rồi anh hỏi tôi:

-- Sao bữa giờ tao không thấy mày đi hái me bên nhà ông Tường nữa Thiện? Bộ ăn me nhiều quá rồi bây giờ ê răng rồi hả? Hôm nay có mắm ruốc ngon, mày đi hái về cho tao vài trái me non, tao cho mày hai trăm sáng mai mua ổ bánh mì ăn đi học.

Nghe anh cho tiền mua ổ bánh mì, tôi lưỡng lự. Nhưng rồi chứng nào tật nấy, tôi qua nhà ông Tường định vạch rào hái trộm me. Khi đến nhà ông, cánh cửa xanh vẫn đóng kín, tôi mừng lắm. Đến khi tới gần, tôi mới nhận ra là cổng lối vào vườn không khóa như mọi khi, nó chỉ khép hờ. Tôi nhẹ đẩy cánh cửa qua một bên rồi vào trong vườn hái me giống như mình là chủ vườn vậy. Chắc có lẽ hôm trước thấy tôi vạch rào tìm chỗ để chui, nên ông để cửa chờ đón tôi trở lại chăng?

Thấy vậy, tôi có cảm giác vừa hổ thẹn, vừa kính nể ông. Nhưng, tôi vẫn không bỏ tật hái me trộn.

Vào một mùa hè, khi tôi mười ba tuổi. Cây me vẫy tay gọi mời. Những trái me dài ngoằn trông thật đẹp mắt. Tôi hỏi mẹ và xin một ít mắm ruốc để ăn me. Ở nhà tôi, ngoài anh tôi và tôi ra, cả nhà không ai ăn ruốc. Tôi chạy vào bếp lấy cái chén nhỏ, múc ít mắm ruốc rồi dầm hai trái ớt hiểm, vắt thêm tí chanh, bỏ tí đường vào, hòa đều. Tôi dùng tay quẹt thử miếng ruốc, cho vào miệng.

“Ngon tuyệt!”

Tôi gật đầu rồi bỏ chén mắm ruốc vào cái túi nhựa và đi đến nhà ông Tường. Miệng ngậm quai sách của cái túi, tôi trèo lên cây me và hái trái. Những trái me dài thòng, dẹp dẹp, mới vừa tượng hột được tôi hái và quẹt mắm ăn ngon ăn lành. Cái mùi vị mằn mặn, cay cay, thơm thơm của mắm hòa lẫn với me ăn vừa giòn vừa chua làm lưỡi tôi ríu lại. Tôi vừa ăn, vừa hít hà, vừa gãi đầu. Cảm giác thật khoái. Tôi ăn gần hết chén ruốc rồi mới chịu trèo xuống đất và vứt cái chén vào đám lá gai gần đấy rồi phủi tay ra về.

Đến nhà, tôi nốc cạn cả ly nước lã ở cái lu kê dưới gốc dừa. Nước mát rượi làm lưỡi tôi tê như ríu lại. Cảm giác thật thích, tôi uống thêm ly nữa, rồi ly nữa...

Tôi hít hà, khoái trá. Hôm đó, chắc có lẽ ăn quá nhiều me, rồi uống nước lã, nên tôi bị Tào Tháo rượt.

Cứ thế, hè này đến hè khác, cây me sau vườn nhà ông Tường thu hút tôi như thỏi nam châm hút đi những mảnh sắt vụn. Cây me nhà ông Tường cũng đôi lần giúp tôi ít tiền tiêu vào dịp gần Tết. Ba tháng trước khi Tết, mợ tôi thường làm mứt me. Mợ nhờ tôi kiếm mua dùm ít me già, nhưng chưa dốt. Trong đầu tôi lúc ấy, lại loé lên những trái me nhà ông hàng xóm. Tôi đi hái về cho mợ. Mợ cho tôi tiền dành sắm đồ Tết. Thế là tôi có những bộ đồ mới thật đẹp.

Hết mùa me non, lại đến mùa me dốt. Những trái me già vỏ vàng là những trái me ngon. Hái riết rồi tôi biết cả phân loại me. Me nào dốt, me nào chín, me nào còn xanh, tôi biết cả. Tôi chỉ đưa tay cào nhẹ vào vỏ me là có thể biết được liền. Khi thấy dấu trày do móng tay cào, nếu vỏ me có màu xanh thì me còn non, chưa dốt. Ngược lại, nếu mà màu đen thì me chín, còn hơi đà thì me dốt. Những trái me dốt vừa chua, vừa ngọt, vừa bùi, ngon tuyệt. Còn me chín thì khỏi phải nói, cơm mầu vàng đỏ nâu, bỏ vào miệng ăn thì khỏi chê.
Ngoài việc cây me giúp tôi giải trí, giúp tôi khỏi buồn, giúp tôi kiếm tiền, cây me còn giúp tôi với nhỏ Thúy, con nhỏ bạn thân ở cùng xóm, gần nhau hơn. Tôi nhớ, những lần hái me chín là tôi dành cho Thúy một chùm có nhiều quả nhất. Lúc hái, tôi ngắt luôn cả cành và lá đem tặng nhỏ. Còn những lần khác, tôi ăn me rồi để dành hột me để đem cho nhỏ bán hàng xén. Cây me cứ như vậy gắn bó theo tôi như hình với bóng trong suốt bao năm trời.

Khi tôi rời khỏi Việt Nam, hình như cây me cũng buồn cho sự rời xa quê hương của tôi? Lá me úa vàng và rơi lã chã trông giống như những giọt nước mắt tiễn đưa người bạn thân rời xa xứ.

Qua bao năm xa quê, bây giờ, có dịp rảnh rỗi, nghĩ về quê hương, về cây me. Tôi không biết cây me kia có còn nằm im bên cạnh ngôi nhà có cánh cửa mầu xanh hay không? Hay ai đã vô tình chặt bỏ bao kỷ niệm êm đềm của tôi ấy? Tôi không biết ông Tường, người hàng xóm tốt bụng, có còn sống hay không? Còn cô bạn hàng xóm cùng thời con nít của tôi nữa, giờ đã ra sao rồi? Có chồng chưa?

Chắc tất cả chỉ là quá khứ, một kỷ niệm đẹp. Tuyệt đẹp, mà tôi nghĩ mình sẽ không bao giờ quên.

0217011645

Jun 23, 2008

Đỡ hẳn



Chăm sóc chồng ốm nặng, cô vợ sụt sùi hỏi:

- Anh thấy trong người thế nào?

- Mấy hôm nay em bớt nói, thần kinh anh đã ổn định dần, đỡ co giật.



o O o


Phương pháp

John đưa cô con gái 16 tuổi đến bệnh viện để cắt amidan.

Hai cha con trò chuyện với nhau:

- Bố - cô gái nhỏ nói - họ sẽ làm thế nào để giữ cho mồm con mở ra trong qúa trình phẫu thuật?

- Bố không biết nữa - ông bố nói - Có lẽ họ sẽ đưa cho con một cái điện thoại.



o O o


Cân bằng

Hai người đàn ông nói chuyện với nhau:

- Sao lúc nghe vợ nói, cậu cứ há hốc cái miệng ra thế?

- À, cô ấy thường nói nhiều, lại nói to nên tớ phải há mồm ra để áp suất bên trong và bên ngoài màng nhĩ cân bằng nhau.
2604

Đỡ hẳn



Chăm sóc chồng ốm nặng, cô vợ sụt sùi hỏi:

- Anh thấy trong người thế nào?

- Mấy hôm nay em bớt nói, thần kinh anh đã ổn định dần, đỡ co giật.



o O o


Phương pháp

John đưa cô con gái 16 tuổi đến bệnh viện để cắt amidan.

Hai cha con trò chuyện với nhau:

- Bố - cô gái nhỏ nói - họ sẽ làm thế nào để giữ cho mồm con mở ra trong qúa trình phẫu thuật?

- Bố không biết nữa - ông bố nói - Có lẽ họ sẽ đưa cho con một cái điện thoại.



o O o


Cân bằng

Hai người đàn ông nói chuyện với nhau:

- Sao lúc nghe vợ nói, cậu cứ há hốc cái miệng ra thế?

- À, cô ấy thường nói nhiều, lại nói to nên tớ phải há mồm ra để áp suất bên trong và bên ngoài màng nhĩ cân bằng nhau.
2604

Jun 22, 2008

Chi nhánh



Bé trai hỏi:

- Bố ơi, chi nhánh nghĩa là gì ạ?

- À... để làm một việc gì đó, người ta có thể dùng một chỗ chính và một vài chỗ nhỏ hơn cùng chức năng, nhưng đặt ở nơi khác...

- Như cái bô của con là chi nhánh của... xí bệt, phải không hả bố?1884

Jun 21, 2008

Bài giảng về tội nói dối



Một ông mục sư nói với các giáo dân:
- Tuần tới tôi sẽ thuyết giảng về tội nói dối. Để giúp các bạn nhanh chóng nắm được vấn đề, tôi muốn tất cả đọc trước chương 17 quyển Mark. Chủ nhật sau đó, để mở đầu bài giảng, mục sư liền yêu cầu những người đã đọc chương 17 quyển Mark giơ tay. Tất cả đều giơ tay. Ông mục sư cười và nói:
- Tốt! Bây giờ tôi sẽ tiến hành bài giảng về tội nói dối. Quyển Mark chỉ có 16 chương...
2304

VỐN LIẾNG





“Nó tưởng mình ngu nên mỗi lần kẹt tiền là cứ hỏi mượn mà chẳng bao giờ thấy trả,” Xê thầm nghĩ. Nhét lá thư của Tân vào túi áo, chàng nói lớn dù trong phòng chẳng có ai ngoài chàng:
“Thực ra, ta chỉ dại thôi. Hề hề...”
Mỗi lần cười hề hề như thế Xê lại thấy sảng khoái y như vừa lau được một vết bẩn trên mặt vậy. Sau tiếng cười là sự chấp nhận, nghĩa là cứ gửi tiền cho thằng bạn dù nó xạo nhiều lần rồi. Xê mở ví ra xem, thấy còn ba trăm ba chục đô-la. “Gửi cho nó một trăm mình vẫn còn dư để mời Lệ đi nhà hàng tối nay. Tuần tới mình lãnh lương rồi. Không sao. Kệ mẹ nó, đừng tính toán kỹ quá làm bẩn cái tâm hồn dễ thương của mình đi.”
Xê đề máy xe, chạy đến bưu điện. Chàng tính chỉ gửi money order thôi, khỏi thư từ gì vì Tân chỉ cần tiền chứ đâu có cần thứ chi chi khác, nhưng ngẫm lại, chàng thấy cũng nên viết vài dòng. Nhận tiền mà không thấy chữ nào thì xài cũng không thoải mái. Xê mua bì thư rồi trở ra xe lấy giấy hí hoáy viết cho Tân mấy hàng:
"Thằng quỷ,
Tao mới nhận thư mày hồi nãy, gửi liền đây. Mày hiểu tính tao mà, đừng bận tâm. Tao còn tiền. Vui nhé. Chúc mau có việc làm.
Bạn thân,
Trần Xê "
Đọc lại, vẫn còn sợ thằng bạn ái ngại, Xê ghi thêm:
T.B: Cho mày xài đó chứ không cho mượn đâu. Đừng tính chuyện trả lại tao đục mày đó.
Dán bì lại, Xê trở vào bưu điện, vừa đi vừa ngẫm nghĩ: “Thà cho luôn chứ không cho mượn vì cho thì chỉ mất tiền còn cho mượn thì mất cả tiền lẫn bạn. Thằng cha nào nói câu này cũng chí lý lắm!”
Trở ra xe, Xê lái thẳng về hướng quận Springfield. Nhà Lệ ở đó, trên một con đường vắng vẻ, yên tĩnh.
Hôm qua, tuyết bắt đầu rơi, nay vẫn chưa tan, ngập trắng trên những cồn đất, xa xa trông như những ụ muối mà Xê từng thấy ở quê nhà. Trời mù mù như muốn mưa, lạnh buốt xương thịt.
Lệ đang học đại học, còn một năm nữa mới ra trường. Kể ra thì ở tuổi Lệ không thể gọi là bé được nữa, nhưng đôi lúc Xê thấy nàng thật là con nít. Cái lối nhõng nhẽo của nàng có khi làm cho Xê phải rợn da gà, vậy mà Xê vẫn không bỏ nàng được. Chàng chạy theo Lệ mê mệt, yêu đến điên cuồng, như một kẻ ghiền thuốc lá: biết là bỏ thì tốt mà không bỏ được. Nhưng Lệ đẹp chỗ nào nhỉ? Xê tự hỏi. Đôi mắt ư? Không. Mắt bình thường thôi, chẳng có gì đặc biệt. Cái mũi ư? Ừm, coi nào. Xét cho đúng thì mũi nàng cũng tẹt lét chánh hiệu Việt Nam chứ có dọc dừa, cao ráo gì đâu! Cái miệng? Ừ, đúng rồi. Chỉ có cái miệng nhỏ với đôi môi tươi hồng khỏi cần tô son, điểm một nốt ruồi đen bên khóe trái đó thôi. Hình như Xê thích ngồi đối diện Lệ chỉ để được ngắm đôi môi nàng mấy máy, mím lại, trề ra hay nhoẻn cười vậy mà. Thương thay, đất trời nghiêng lệch cũng chỉ vì đôi môi quyến rũ đó. Có khi bực mình, giận Lệ đến run người, nhưng chỉ cần đôi môi đó nũng nịu một chút là chàng đã có thể bỏ qua tất cả.
Gần đây, Lệ có vẻ thay đổi nhiều lắm, chẳng rõ vì lý do gì. Đêm qua thứ sáu, Xê điện thoại cho Lệ, nói rằng sáng nay sẽ đến đưa nàng đi Washington D.C. chơi. Lệ nói:
“Để coi nào.”
“Để coi? Không phải thứ Bảy nào mình cũng đi với nhau sao? Em bận gì vậy?”
“Đâu biết trước được. Thôi, anh cứ đến, có gì trục trặc em báo trước.”
Xê nhíu mày. Có gì trục trặc. Sao lại có gì trục trặc chứ? Suốt tuần Lệ vào trường, Xê vào sở, cuối tuần đi với nhau, thời khóa biểu đã rõ ràng như vậy rồi, có tuần nào thay đổi đâu!
Xê bấm chuông. Thủy, đứa em gái mười hai tuổi của Lệ ra mở cửa.
“Anh Xê! Sao đến trễ vậy?”
“Trễ? Sớm hơn mọi khi đó chứ! Bộ chị Lệ đi đâu rồi à?”
“Dạ, chỉ đi rồi. Vô đi anh, kẻo lạnh.”
Xê thẫn thờ thả phịch cái thân lùn thước rưỡi của mình xuống xa-lông. Trời bên ngoài xám xịt mà trong nhà này, ngay lúc này, chàng thấy còn xám ngoắc hơn. Xê thấy các ánh đèn phòng như đang nhảy múa cái điệu vũ của những con đom đóm ngoài trời đêm. Thủy tỉnh bơ không hiểu được nỗi choáng váng của chàng, cô bé chạy vào phòng mang ra mảnh giấy nhỏ:
“Chị Lệ viết cho anh đó.”
Xê chụp tờ giấy đọc ngay:
"Anh à,
Em có chút việc phải đi với mấy người bạn. Khoaœng 6 giờ chiều em sẽ đến nhà anh rồi mình đi ăn. Đừng giận nghe. Gấp quá em không báo cho anh được. Bye. "
Vò tấm giấy trong tay, Xê quay qua Thủy tính hỏi nhưng thấy cô bé đang mê coi truyền hình, chàng đành thôi. Một chặp, không dằn nổi, Xê mở miệng:
“Hồi nãy mấy chị đến chơi đông lắm hả?”
Thủy vừa xem truyền hình vừa trả lời:
“Đâu có, có một người thôi.”
“Chị Loan phải không?”
“Không.”
“Chị Thuyên chứ gì?”
“Không.”
“Chị Bích?”
Thủy quay lại, hơi khó chịu vì bị quấy rầy trong lúc xem phim:
“Có chị nào đâu. Anh Huy mà!”
“Anh Huy? Ảnh là ai vậy? ... Bà con hả?”
“Không. Bạn chị Lệ đó.”
Xê ngả người ra sau, cố trấn tỉnh, lấy thuốc ra hút. Thủy vẫn chăm chú xem phim, miệng nhai kẹo chewing gum. Bộ phim kung-fu gì đó, đánh đấm lung tung chẳng dính dấp gì đến ruột gan eo xèo của Xê cả. Xê mở mảnh giấy đã vò nát ra xem lại. Đọc đến chỗ mấy người bạn, chàng tức điên lên. “Đúng là có trục trặc rồi. Cô ta biết trước điều đó. Hừm, mà thằng Huy nào vậy cà? Chắc là mới quen. Huy, hừ, tên hay nhỉ! Huy hoàng, huy quang, tà huy, Huy Lệ. Huy là sáng, Lệ là đẹp. Cũng hạp đó chớ. Xê. Trời ơi, ba má hết chữ rồi sao đặt tên mình dở tệ vậy! Xê ra, xê vô, xê dịch, xê xích, xu xê, xàng xê... chẳng có nghĩa gì hay ho cả!” Xê nhẩm đọc tên mình như mới được nghe lần đầu.
“Thủy à, sao bé không đi chơi với chị Lệ, anh Huy?”
“Anh Huy đâu có kêu em đi mà đi.”
Xê thầm rủa: “Đúng là sợ vướng víu, bắt con nhỏ ở nhà. Mình đi lúc nào cũng kéo bé Thủy đi chơi chung.” Vò nghiến mảnh giấy trong tay lần nữa mà vẫn chưa thấy hả giận, Xê ném nó vào sọt rác ở góc phòng. Thấy phim đang chiếu tới phần giới thiệu tài tử và phim mới, Thủy đang rảnh rỗi được vài phút, Xê chụp hỏi ngay:
“Phải anh Huy thấp thấp người như anh đó không?”
“Đâu phải, anh Huy này to cao như Mỹ vậy.”
“Thế à!”
Xê rầu rầu than trong lòng: “Lại hơn mình một điểm nữa”, rồi hỏi tiếp:
“Cao mà cái mặt thấy ghê như anh Tân bạn anh phải không?”
Thuœy ngoẻo đầu sang một bên, nhìn Xê như để so sánh với Huy:
“Đâu có, anh Huy đẹp trai như tài tử xi-nê vậy.”
Xê thất vọng. Kể về điển trai thì chàng cũng chẳng hơn Tân là bao. Chàng có cái mũi huếch độc đáo, lúc nào cũng nghếch lên trời khiến cho mấy thằng bạn cứ chọc là chàng có ý kênh xì-po với mọi người. Chưa hết, mũi nghếch lên thì miệng cũng hô ra, nếu không giống cái nạo dừa thì cũng giống cái mũi của chiếc giầy hư cũ: há tòe loe ra một cách không ngại ngùng. Còn nữa, đôi mắt lươn! Thiệt khổ, đôi mắt này thực ra không thể là của một người hiền lành tốt bụng như chàng, vậy mà nó thiệt là của chàng. Nó đã cho người ta cái cảm tưởng đầu tiên khi gặp chàng là kẻ bất lương. Họ nói những người mắt lươn không khi nào thực thà mà luôn luôn là kẻ gian xảo, man trá, lợi dụng, lường gạt, nịnh bợ, đãi bôi, láu cá, hiểm độc, nhỏ mọn, ích kỷ, thù vặt v.v... ôi thôi là đủ mọi cái gian cái xấu trên đời! Nghĩ về thân phận mình, Xê thấy ủ ê, chán chường, nhưng chàng cứ tiếp tục tìm hiểu cho đến tận cùng:
“À, vậy anh biết rồi, phải anh Huy mà ăn bận lôi thôi, quê mùa, xập xệ như thằng Phô ở nhà kế bên không?”
Thủy lắc đầu nguầy nguậy, mắt nhìn truyền hình, miệng trả lời:
“Anh Huy điệu hết chỗ nói. Chị Lệ nói ảnh giống như người mẫu đó.”
Xê vò đầu bức tai, cảm thấy mình như bị dìm vào một vũng lầy, ngọ nguậy như con trùn đứt đôi: một nửa vùng vẫy ngoi tìm lối thoát, một nửa còn lại thì quằn quại với nỗi đau mất mát, ê chề với thất bại không ngờ của mình. “Sao mình chẳng hơn người ta cái gì hết vậy kìa? À, còn bằng cấp, tiền bạc? Những thứ ấy ở Mỹ này chán khối gì người có”. Xê thở dài, không tin vốn liếng cấp bằng cũng như nghề nghiệp với lương bổng khiêm tốn của mình. Nỗi lòng đôi lúc cũng xìu đi như cái lốp xe bị lủng. “Không còn gì để nói nữa,” Xê nghĩ vậy, đứng lên, xoa đầu Thủy một cái, nói bằng giọng hụt hơi:
“Thôi anh về nghe.”
“Anh nhắn gì không?” Thủy hỏi mà không ngước nhìn chàng.
“Ư... nói chị Lệ anh gởi lời thăm anh Huy.”
“Vậy thôi hả?”
“Ừ, chỉ vậy thôi.”
Ra tới cửa, Xê đứng lại, ngập ngừng một lúc rồi trở vào:
“Không, đừng nói vậy.”
“Chứ nói sao?”
“Nói anh mời chị Lệ và anh Huy đến nhà anh chơi chiều nay, 6 giờ, nhé.”
“Dạ.”
“Nhớ là anh mời luôn cả anh Huy nữa chứ không phải mình chị Lệ, nghe.”
“Dạ.”
Xê đi nhanh ra ngoài, nhưng nghĩ sao lại trở vào lần nữa. Thủy ngạc nhiên nhìn chàng:
“Anh quên cái gì hả?”
“Không. À, Thủy đừng nói gì hết nghe. Chỉ nói có anh đến là được rồi. Nãy giờ mình nói chuyện gì Thủy cũng đừng kể lại, hứa đi.”
“Dạ, em không nói gì đâu. Chỉ nói là anh có đến, đọc thư, rồi anh giận, vò cái thư. Vậy thôi, phải không?”
“Ừ, giỏi. Ơ... không được. Đừng nói giận hay vò thư gì hết.”
“Được rồi. Có đến, có đọc thư, hết?”
“Hết. Giỏi. Cho cưng cái này nè.”
Xê dúi cho Thủy mấy đồng để cô bé ăn kem như mỗi cuối tuần chàng vẫn làm. Rồi đi.
Trên xe, Xê mở máy sưởi mà vẫn thấy lạnh cóng. Chàng moi hết vốn liếng bao dung của mình ra để tha thứ cho Lệ mà vẫn không sao xóa lấp được nỗi đau cắt trong lòng. “Quên đi Xê ơi, đừng hèn yếu như thế. Cứu cánh đời sống mày, vào thời buổi điêu linh của đất nước, đâu phải chỉ quẩn quanh nơi khóe miệng của một thiếu nữ. Cái chí dời non lấp biển của mày để ở đâu rồi? Mắc chi phải buồn khổ những chuyện lẻ tẻ, nhỏ nhen này! Dũng cảm lên! Hừ. Hề hề.. Gượng gạo quá! Ôi trời, nàng bỏ ta. Dù sao... dù sao nếu có một ngày... Không. Dù sao, ta đã không phụ người”.
Xe chạy vun vút. Đường về nhà mà Xê thấy như mình đang tìm một lối thoát nào đó. Chàng đang trốn chạy, không phải đi về.
Đến một quãng đường vắng, Xê nhác thấy xa xa một người bộ hành đưa tay xin quá giang. Thường khi gặp người lỡ đường như thế, Xê đều tấp xe vào lề cho họ lên. Bây giờ thì, Xê nghĩ: “Mệt. Hơi đâu! Không phải chính ta cũng là kẻ lỡ đường lỡ bước đó sao! Ai thương ta đây!” Nghĩ vậy nên Xê cứ giữ nguyên tốc độ. Nhưng xe vừa lướt qua khỏi người bộ hành là Xê lập tức thấy xốn xang. Trời lạnh đến cứa thịt, đứng ngoài trời năm phút là sổ mũi, thở không nổi. Người khách lạ sẽ đứng ngoài trời đến bao lâu? Hắn ta đang run cầm cập và có thể đang nguyền rủa nhân loại này không có trái tim, y như Xê đã từng nguyền rủa những chiếc tàu vô lương tâm làm ngơ khi chiếc ghe vượt biên của chàng bị nạn trên biển đông trước đây.
Xe bật đèn báo, tấp nhanh vào lề phải rồi de lại. Người khách lạ mừng rỡ chạy đến. Xê mở cửa cho anh ta leo lên. Đó là một thanh niên Mỹ đen.
“Cám ơn. Tôi đón xe một giờ rồi mà không ai cho quá giang.”
“Anh muốn đi đâu đây?”
“Tôi đi xa lắm. Anh có thể cho tôi xuống nơi nào gần nhà tôi nhưng thuận đường anh đi.”
“Tôi về đường Braddock, vùng Centreville.”
“A, vậy cũng tiện lắm. Nhà tôi ở đường Stone. Anh cho tôi xuống chỗ ngã tư Braddock và Stone là tốt rồi.”
“Không lo. Hôm nay rảnh, tôi đưa anh về tận nhà cũng được mà.”
“Cám ơn anh nhiều.”
Vừa nói khách vừa xoa hai bàn tay tê cóng của mình. Xê thấy tội nghiệp, móc thuốc mời. Sau vài lời trao đổi, chàng trở lại với thực tế là đôi môi tươi hồng thuở nào đã trở thành đôi bờ vực thẳm nuốt chửng chàng vào bề trong gian dối phụ bạc của nó. “Thực tế là vậy sao? Nàng phụ ta? Có lẽ nào!” Càng nghĩ Xê càng nghẹn đắng trong lòng. Xê không võ đoán. Xê không hiểu lầm. Xê tin như vậy và thấy không cần phải tìm hiểu cặn kẽ hơn. Biết như vậy là đủ rồi và như vậy cũng rõ ràng lắm rồi. Cắt một lần cho xong vì lâu nay không phải có lúc chàng đã muốn cắt bỏ đi mà không cắt nổi đó sao! Đây là lúc chàng có thể dứt khoát cuộc tình nhì nhằng mê muội của mình. Tuy vậy, đó là bởi người phụ mình chứ không phải mình phụ người. Đau khổ lắm, nhưng chàng cũng đã cười hề hề.

* * *
Khi tỉnh dậy, Xê thấy mình nằm trong một lùm cây. Trời lạnh buốt. Tuyết vẫn chưa tan hết trên vùng lá mục ẩm. Lồm cồm đứng dậy, Xê thấy đầu nhức như búa bổ. Chàng cố nhớ lại việc đã xảy ra.
“A, té ra cái thằng Mỹ đen chó chết kia nó nện mình một báng súng trên đầu khi mình ngừng xe cho nó xuống. Nó cướp xe mình rồi. Mà sao nó không giết mình để phi tang luôn nhỉ? Nó không sợ mình báo cảnh sát sao chớ? Hay nó tin rằng mình vẫn có lòng? Có lòng cho nó quá giang thì cũng có lòng cho nó mượn đỡ chiếc xe, không thưa cảnh sát! Hề hề. Nó tưởng ta ngu. Thực ra, ta chỉ dại thôi!”
Xê đứng phủi áo quần, thọc tay vào túi măng-tô thấy tiền bạc mất hết nhưng may là còn đầy đủ giấy tờ và tấm hình Xê chụp chung với Lệ. Cái may thứ hai là trong túi quần Xê còn sót lại một đồng cắc 25 xu mà gã bất lương đã chê không lấy hoặc cố tình bỏ lại để Xê có thể điện thoại về nhà. Chàng mò mẫm tìm ra đường nhựa, chẳng biết mình đang ở đâu.
Trời đã về chiều. Xê loạng choạng đi dọc theo con đường vắng ngắt. Nhà cửa thưa thớt xa xa, lẩn sau những hàng thông xanh tốt còn điểm phất phơ những mảng tuyết. Thỉnh thoảng có xe chạy xuôi theo hướng Xê đi nhưng chàng không xin quá giang. “Người ta bận bịu, sẽ không ai chịu ngừng cho ta quá giang đâu. Nếu ta xin quá giang, chẳng khác gì ta buộc họ phải phụ ta.”
Đi bộ khoảng nửa giờ, Xê gặp một điện thoại công cộng. “Tốt quá. Mình còn hai mươi lăm xu để điện thoại đây mà. Chừ mình gọi ai đây? Lệ chăng? Chắc chắn nghe tiếng ta nàng sẽ đến ngay. Ta thê thảm như vầy nàng sẽ... thương tình, sẽ động lòng. Không, không được! Tại sao phải van xin sự thương hại đó! Không bao giờ ta gọi nàng nữa!”
Ngoài Lệ ra, Xê chẳng biết nhờ ai. May ra có thể nhờ cảnh sát đưa về nhà. Nhưng chàng không muốn họ tìm hiểu lôi thôi rồi lòi ra cái chuyện chàng bị cướp xe...
Xê tiếp tục đi mãi. Đèn đường đã thắp. Chàng run lập cập. Hai tay thọc vào túi áo măng-tô, thỉnh thoảng chàng xóc xóc đồng bạc cắc lên cho nó múa nhảy chơi một chút.

1838

Jun 20, 2008

Càng già càng yêu!



Một thiếu nữ kết hôn với triệu phú xấp xỉ 80 tuổi. Tại buổi lễ thành hôn, nhà triệu phú hỏi nàng:

- Em yêu! Tuổi tác của chúng ta chênh nhau quá nhiều, em có thật lòng yêu anh không?

Thiếu nữ cười hồn nhiên:

- Đương nhiêu là em yêu anh rồi. Nếu anh 98 tuổi thì em lại càng yêu anh hơn đấy.
1327

Jun 18, 2008

Dùng Chó Bắt Chuột



Cái Cười Của Thánh Nhân
Tác giả: Nguyễn Duy Cần

Dùng Chó Bắt Chuột


Tề có người xem tướng chó rất giỏi.

Nhà láng giềng nhờ mua một con chó hay để bắt chuột.

Một năm trời mới mua được, bảo nhà láng giềng:

- Con chó này tốt lắm.

Người láng giềng nuôi con chó ấy mấy năm mà không thấy nó bắt chuột, bèn hỏi anh xem tướng chó. Anh này bảo:

- Con chó này tốt lắm đấy! Nhưng cái chí của nó là bắt hươu nai, cầy, cáo, chứ không muốn bắt chuột. Vậy, phải cùm chân nó lại!

Nhà láng giềng làm y theo lời. Quả về sau, con chó hay bắt chuột.

Lời bàn:

Bài văn này ở xã hội tự do, thì có thể cười được. Ở những xã hội độc tài, chắc chắn sẽ không thể cười, mà phải khóc to lên... mới được

Là một con chó có tài bắt hươu, nai, cầy, cáo... mà bị "cùm chân" nên cam phận đi làm công việc bắt chuột, quả đáng thương hại lắm rồi! Nhưng, không ai "cùm chân" mình cả, mà lại tự ý "cùm chân", chịu nhận lãnh vai trò bị "cùm chân" để được vinh hoa phú quý, thì thật không biết nên cười hay nên khóc?
555

Jun 17, 2008

Bông Hồng Cài Áo



Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời với tình thương . Mà tình thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon lành . Con trẻ thiếu tình thương thì không thể lớn lên được . Người lớn thiếu tình thương thì cũng không "lớn" lên được . Cằn cỗi, héo mòn .

Ngày mẹ tôi mất, tôi viết trong nhật ký: "Tai nạn lớn nhất đã xảy ra cho tôi rồi !" Lớn cách mấy mà mất mẹ, thì cũng như không lớn, cũng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cũng không hơn gì kẻ mồ côi .

Những bài hát, những bài thơ ca tụng tình mẹ, bài nào cũng dễ thấy hay . Người viết dù không có tài ba, cũng có rung cảm chân thành; người hát ca, trừ là kẻ không có mẹ ngay từ thuở chưa có ý niệm, ai cũng cảm động khi nghe nói đến tình mẹ . Những bài hát ca ngợi tình mẹ đâu cũng có, thời nào cũng có . Bài thơ mất mẹ mà tôi thích nhất từ hồi nhỏ là một bài thơ giản dị . Mẹ đang còn sống, nhưng mỗi khi đọc bài thơ ấy thì sợ sệt, âu lo . . . sợ sệt lo âu cho một cái gì còn xa, chưa đến nhưng chắc chắn phải đến:

Năm xưa tôi còn nhỏ
Mẹ tôi đã qua đời!
Lần đầu tiên tôi hiểu
Thân phận kẻ mồ côị

Quanh tôi ai cũng khóc
Im lặng tôi sầu thôi
Để dòng nước mắt chảy
Là bớt khổ đi rồi . . .

Hoàng hôn phủ trên mộ
Chuông chùa nhẹ rơi rơi
Tôi thấy tôi mất mẹ
Mất cả một bầu trời

Một bầu trời thương yêu dịu ngọt, lâu quá mình đã bơi lội trong đó, sung sướng mà không hay, để hôm nay bừng tỉnh thì đã mất rồi . Người nhà quê Việt Nam không ưa nói cách cao kỳ . Nói rằng bà mẹ già là một kho tàng của yêu thương, của hạnh phúc thì cũng đã là cao kỳ rồi . Nói mẹ già là một thứ chuối, một thứ xôi, một thứ đường ngọt dịu, người dân quê đã diễn tả được tình mẹ vừa giản dị, vừa đúng mức:

Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau

Ngon biết bao nhiêu! Những lúc miệng vừa đắng vừa nhạt sau một cơn sốt, những lúc như thế thì không có món ăn gì có thể gợi được khẩu vị của ta . Chỉ khi nào mẹ đến, kéo chăn đắp lại ngực cho ta, đặt bàn tay trên trán nóng ta và than thở "Khổ chưa, con tôi", ta mới cảm thấy đầy đủ, ấm áp, thấm nhuần chất ngọt của tình mẹ, ngọt thơm như chuối ba hương, dịu như xôi nếp một và đậm đà lịm cả cổ họng như đường mía lau .

Tình mẹ thì trường cửu, bất tuyệt; những chuối ba hương, đường mía lau, xôi nếp một ấy không bao giờ cùng tận . "Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra" . Nước trong nguồn chảy ra thì bất tuyệt . Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm thương yêu . Mẹ là giáo sư dạy về thuơng yêu, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời . Không có mẹ, tôi sẽ không biết thương yêu . Nhờ mẹ mà tôi biết được thế nào là tình nhân loại, tình chúng sinh; nhờ mẹ mà tôi có được chút ý niệm về đức từ bi . Vì mẹ là gốc của tình thương, nên ý niệm mẹ lấn trùm ý niệm thương yêu của tôn giáo vốn cũng dạy về tình thương . Đạo Phật có đức Quan Thế Âm, tôn sùng dưới hình thức mẹ . Em bé vừa mở miệng khóc thì mẹ đã chạy tới bên nôi . Mẹ hiện ra như một thiên thần dịu hiền làm tiêu tan khổ đau lo âu . Đạo Chúa có Đức Mẹ, thánh nữ đồng trinh Maria . Trong tín ngưỡng bình dân Việt có thánh mẫu Liễu Hạnh, cũng dưới hình thức mẹ . Bởi vì chỉ cần nghe đến danh từ "mẹ" là ta đã thấy lòng tràn ngập yêu thương rồi . Mà từ yêu thương đi tới tín ngưỡng và hành động thì không xa mấy .

Tây phương không có ngày Vu Lan nhưng cũng có Mother's Day, mồng 10 tháng 5 . Tôi nhà quê không biết cái tục ấy . Có một ngày, tôi đi với thầy Thiên Ân tới nhà sách ở khu Ginza, Đông Kinh, nửa đường gặp mấy người sinh viên Nhật, bạn của thầy Thiên Ân . Có một cô sinh viên hỏi nhỏ thầy Thiên Ân một câu, rồi lấy trong xắc ra một bông hoa cẩm chướng màu trắng cài vào khuy áo áo tràng của tôi . Tôi lạ lùng, bỡ ngỡ, không biết cô làm gì, nhưng không dám hỏi, cố giữ vẻ tự nhiên nghĩ rằng có một tục lệ chi đó .

Sau khi họ nói chuyện xong, chúng tôi vào nhà sách, thầy Thiên Ân mới giảng cho tôi biết đó là ngày Mother's Day, theo tục Tây Phương . Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài hoa hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ . Nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa màu trắng . Tôi nhìn lại bông hoa trắng trên áo mà cảm thấy tủi thân . Tôi cũng mồ côi như bất cứ đứa trẻ vô phúc khốn nạn nào, chúng tôi không có được cái tự hào cài trên áo một bông hoa màu hồng .

Người được hoa trắng sẽ thấy xót xa, nhớ thương không quên mẹ dù Người đã khuất . Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ kẻo một mai người khuất núi có khóc than cũng không còn kịp nữa . Tôi thấy cái tục cài hoa đó đẹp và nghĩ rằng mình có thể bắt chước áp dụng trong ngày báo hiếu Vu Lan!

Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy mà lắm lúc ta không biết, để lãng phí một cách oan uổng . Mẹ là một món quà lớn nhất mà cuộc đời tặng cho ta . Những kẻ đã và đang có mẹ, đừng có đợi đến khi mẹ chết rồi mới nói : "Trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào nhìn kỹ được mặt mẹ" . Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua . Trao đổi vài câu ngắn ngủi . Xin tiền ăn quà . Đòi hỏi mọi chuyện . Ôm mẹ mà ngủ cho ấm . Giận dỗi . Hờn lẫy . Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya, dậy sớm vì con . Chết sớm cũng vì con . Để mẹ phải suốt đời bếp núc vá may, giặt rửa, dọn dẹp . . . Và để mình suốt đời bận rộn lên xuống ra vào lợi danh . Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con . Và con không có thì giờ nhìn kỹ mẹ . Để khi mẹ mất, mình có cảm nghĩ "như là mình chưa bao giờ có ý thức rằng mình có mẹ"

Chiều nay khi đi học về hoặc khi đi làm việc ở sở về, em hãy vào trong phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền . Em hãy ngồi xuống bên mẹ . Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi . Rồi em sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên em . Cầm tay mẹ, em sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý . Em hỏi: "Mẹ ơị mẹ có biết không ?" Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ hỏi em, vừa hỏi vừa cười: "Biết gì?" Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, em sẽ nói: "Mẹ có biết là con thương mẹ không ?" . Câu hỏi sẽ không cần được trả lời . Cho dù người lớn ba bốn mươi tuổi cũng có thể hỏi một câu như thế vì người là con của mẹ . Mẹ và em sẽ sung sướng, sẽ sống trong ý thức tình thương bất diệt và ngày maị mẹ mất, em sẽ không hối hận đau lòng .

Ngày Vu Lan ta nghe giảng và đọc sách nói nhiều về ngài Mục Kiền Liên và về sự hiếu đễ . Công cha, nghĩa mẹ . Bổn phận làm con . Ta lạy Phật cầu cho mẹ sống lâu . Hoặc lạy mười phương tăng chú nguyện cho mẹ được tiêu diêu nơi cực lạc, nếu mẹ đã mất . Con mà không có hiếu là con bỏ đi . Nhưng hiếu cũng do tình thương mà có; không có tình thương, hiếu chỉ là giả tạo, khô khan, vụng về, cố gắng, mệt nhọc - mà có tình thương là có đủ hết rồi . Cần chi nói đến bổn phận . Thương mẹ như vậy là đủ .

Mà thương mẹ không chỉ là một bổn phận, thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên, như khát thì uống nước, con thì phải có mẹ, phải thương mẹ . Chữ "phải" đây không phải là luân lý, là bổn phận . "Phải" đây là lẽ đương nhiên . Con thì đương nhiên thương mẹ, mẹ thì đương nhiên thương con . Nếu mẹ không cần con và con không cần mẹ thì đó không phải là mẹ con . Đó là lạm dụng danh từ mẹ con .

Ngày xưa, thầy giáo hỏi rằng, con mà thương mẹ thì cần phải làm như thế nào ? Tôi trả lời: vâng lời cố gắng, giúp đỡ, phụng dưỡng lúc mẹ về già và thờ phụng khi mẹ khuất núi . Bây giờ thì tôi biết rằng con thương mẹ thì không phải "làm thế nào" gì hết . Cứ thương mẹ, thế là đủ lắm rồi, cần chi phải hỏi "làm như thế nào" .

Thương mẹ không phải là một vấn đề luân lý, đạo đức . Anh mà nghĩ rằng tôi viết bài này để khuyên anh về luân lý đạo đức là anh lầm . Thương mẹ là một vấn đề hưởng thụ . Mẹ như chuối ngọt, như đường mía lau, như xôi nếp một . Anh không hưởng thụ thì uổng cho anh . Chị không hưởng thụ thì uổng cho chị . Tôi chỉ cảnh cáo cho anh chị biết mà thôi . Để mai này, anh chị đừng có than thở rằng đời ta không còn gì cả . Một món quà như mẹ mà còn không vừa ý thì họa chăng có làm Ngọc Hoàng Thượng Đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng . Nhưng tôi biết được Ngọc Hoàng không sung sướng đâu, bởi Ngọc Hoàng là đấng tự sinh không bao giờ có diễm phúc có được một bà mẹ .

Tôi kể chuyện này, anh đừng nói tôi khờ dại . Đáng lẽ chị tôi không nên đi lấy chồng và tôi không nên đi tu mới phải . Chúng tôi bỏ mẹ mà đi, người thì theo cuộc đời mới bên cạnh người con trai thương yêu, người thì đi theo lý tưởng đạo đức mình say mê và tôn thờ .

Ngày chị tôi đi lấy chồng, mẹ tôi lo lắng, lăng xăng, không tỏ vẻ buồn bã chi . Nhưng đến khi chúng tôi ăn qua loa để đợi rước dâu thì mẹ tôi không nuốt được miếng nào . Mẹ nói: "Mười tám năm trời nó ngồi ăn cơm với mình, bây giờ nó ăn bữa cuối cùng rồi nó đi ăn ở một nhà khác" . Chị tôi gục đầu xuống mâm cơm, khóc . Chị nói "Thôi con không đi lấy chồng nữa" . Nhưng rốt cuộc rồi chị cũng đi lấy chồng, còn tôi thì bỏ mẹ đi tu .

"Cát ái từ sở thân" là lời khen ngợi người có chí xuất gia . Tôi không tự hào chi về lời khen đó cả . Tôi thương mẹ nhưng tôi có lý tưởng, vì vậy phải xa mẹ . Thiệt thòi cho tôi, có thế thôi . Ở trên đời, có nhiều khi ta phải chọn lựa mà không có sự lựa chọn nào là không khổ đau . Anh không thể bắt cá hai tay . Chỉ khổ là vì muốn làm người nên anh phải khổ đau . Tôi không hối hận vì bỏ mẹ đi tu nhưng tôi tiếc thương cho tôi vô phúc thiệt thòi nên không được hưởng thụ tất cả kho tàng quý báu đó . Mỗi buổi chiều lạy Phật, tôi cầu nguyện cho mẹ . Nhưng tôi không được ăn chuối ba hương, xôi nếp một và đường mía lau .

Anh cũng đừng tưởng tôi khuyên anh không nên đuổi theo sự nghiệp mà chỉ nên ở nhà với mẹ . Tôi đã nói là tôi không khuyên răn ai hết - tôi không giảng luân lý đạo đức . Tôi chỉ nhắc nhở anh "mẹ là chuối, là xôi, là đường, là mật ngọt ngào, là tình thương" . Để anh đừng quên . Để chị đừng quên . Để em đừng quên . Quên là một lỗi lớn . Cũng không phải là lỗi nữa mà là một sự thiệt thòi . Mà tôi không muốn anh chị thiệt thòi, vô tình mà thiệt thòi . Tôi xin cài vào túi áo anh một hoa hồng để anh sung sướng, thế thôi .

Nếu có khuyên, thì tôi sẽ khuyên như thế này . Chiều nay khi đi học về, hoặc khi đi làm việc về, anh hãy vào trong phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền . Anh sẽ ngồi xuống bên mẹ . Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi . Rồi anh sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên anh . Cầm tay mẹ, anh sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý . Anh hỏi: "Mẹ ơị mẹ có biết không ?" . Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ hỏi anh, vừa hỏi vừa cười: "Biết gì?" Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, anh sẽ nói: "Mẹ có biết là con thương mẹ không ?" . Câu hỏi sẽ không cần được trả lời . Cho dù người lớn ba bốn mươi tuổi cũng có thể hỏi một câu như thế vì ngươi là con của mẹ . Mẹ và anh sẽ sung sướng, sẽ sống trong ý thức tình thương bất diệt và ngày maị mẹ mất anh, anh sẽ không hối hận đau lòng tiếc rằng anh không có mẹ .

Đó là điệp khúc mà tôi muốn ca hát cho anh nghe hôm nay . Và anh hãy ca, chị hãy ca, em hãy ca cho cuộc đời đừng chìm trong vô tâm, quên lãng . Đóa hoa màu hồng tôi cài trên áo anh rồi đó . Anh hãy sung sướng đi!
218

Jun 16, 2008

Mùa xuân hạnh phúc






Tường Vân
Ăn hết tiền thất nghiệp, sắp phải rút tiền tiết kiệm trong nhà băng ra thì má tôi lại kêu về. Bà đã kêu về lúc nghe tôi vừa mất việc. Khi ấy tôi cứ nghĩ đằng nào thì tôi cũng kiếm ra được việc khác nên làm lơ lời kêu gọi của bà. Ra trường với bằng danh dự, tôi lanh lẹ, thành tích làm việc rất xuất sắc, lại chịu khó, nên có một cái giốp khác là lẽ tự nhiên thôi. Tám tháng trôi qua tôi vẫn chưa kiếm được việc làm nào hợp với khả năng và sở thích của mình. Thời buổi khó khăn, công ăn việc làm khó kiếm, ngày nào báo chí cũng đăng như vậy. Nhưng tôi vẫn nghĩ cũng phải có người về hưu, hãng sở vẫn phải mướn người làm thế chứ. Má tôi lại kêu về. 
Bà đã kêu về lúc tôi còn cái giốp ngon lành. Con ơi, ba má nhớ con. Về đây được giốp ít tiền mà gần ba má thì vẫn hơn, đó con. Cái lúc mà bỏ đơn chỗ nào cũng được kêu đi phỏng vấn và cho giốp ngay! Cái lúc mà ngày nào thị trường chứng khoán cũng lên, mua cổ phần của hãng high-tech nào cũng có lời, mà không cần một chút kiến thức nào cả! Mấy bà nội trợ ngồi nhà cũng biết lên net mua bán!
Mấy năm đi làm, tôi kiếm được một chút vốn cũng khá lớn, đủ để sống thoải mái vài năm. Bỏ tiền chơi stocks, vừa bán ra để lấy tiền đặt xuống mua một căn nhà nho nhỏ, nhưng chưa tìm được một căn nhà vừa ý vì mặt Đông nhà cửa mắc mỏ mà với một lợi tức của tôi thì hơi khó, nên tôi phải tính toán kỹ lưỡng hơn, thì thị trường chứng khoán lại bắt đầu xuống dốc. Tiền của tôi, cả vốn lẫn lời gấp mấy lần vẫn còn nằm an toàn trong nhà băng. Bạn bè tôi ai cũng ít nhiều bị liểng xiểng vì stocks. Có đứa có lúc đã là triệu phú, dù chỉ là triệu phú trên giấy tờ, tính theo trị giá những cổ phần của các công ty lớn. Bây giờ có đứa trắng tay. Có đứa mất nhà, mang nợ vào người. Chúng kêu tôi hên. Mà tôi hên thật, vì đã bán cổ phần đi trong lúc còn cao điểm. Trong lúc mất giốp, tôi vẫn còn hên vì chưa mua nhà. Nếu mà ôm cái nhà vào lúc này thì cũng khó tính toán quá. Cho dù má tôi có năn nỉ đến cỡ nào thì tôi cũng không thể bỏ cái ào mà bay về với bà. Cho dù...ba tôi có bị vô nhà thương. Ồ không, nếu ba bị nặng thì tôi cũng phải bỏ tất cả mà bay về thôi. Mọi thứ trên đời đâu có gì quan trọng bằng người thân của mình đang cần mình.
Xây xẩm mày mặt, toát mồ hôi, bùng tai, kêu 911...tưởng bị bệnh tim, té ra sau bác sĩ mới khám phá ra chỉ là cái tai bị nhiễm trùng thôi. Một phen làm mọi người hết hồn, hết vía.
Má lại có cớ để khuyên:
-Dù là nhẹ, nhưng con cũng nên về ở gần ba má, vì ba má cũng già rồi, đâu biết đau ốm thế nào. Anh Hai với chị Ba con thì ở xa, gia đình, nhà cửa nặng nề, giốp chồng, giốp vợ, con cái học hành, không thể kêu bỏ là bỏ mà về đây được. Chỉ có con là dễ thôi. Con đang lúc không có việc, lại không có nhà cửa bận bịu bên ấy, con chỉ trả lại cái apartment là về đây ở với ba má. Nếu ba hay má có chuyện gì thì có con bên cạnh, ba má cũng đỡ lo nhiều. Cuối cùng thì tôi cũng nghe xuôi tai mà về. Đúng rồi! Cha mẹ nhỡ đau ốm có mệnh hệ nào trong lúc tôi lại ở xa thì tôi sẽ ân hận suốt đời.
Nhiều lần thoáng qua đầu tôi hình bóng chàng. Vâng, cái lý do tôi đã kiếm việc ở mặt Đông, cái lý do tôi đã rời bỏ xứ mưa mà đi. Cái con người đã làm tôi đau khổ. Không phải là tôi đã tự nhủ sẽ không bao giờ gặp lại mặt? Không phải là tôi đã cố quên đi rồi sao?
Căn phòng ngày nào của tôi đồ đạc vẫn còn nguyên như cũ. Cái bàn viết đặt bên cửa sổ nhìn qua khu rừng thông cao vút. Cái giường nhỏ vẫn xếp những con gấu nhồi bông lớn, nhỏ xinh xinh. Cái tủ sách với những cuốn sách chuyên môn cho nghề nghiệp, những cuốn sách học làm người, những cuốn sách Tự Lực Văn Đoàn. Cái dàn máy nhạc xưa cũ. Tất cả vẫn thế. Để những kỳ lễ lộc tôi về chơi, vẫn thấy mọi thứ quen thuộc.
Bây giờ thì về ở hẳn. Thôi không còn nghĩ chuyện mua nhà. Má nói nhà cửa rộng thênh thang, ở không hết, mua nhà làm chi con. Ở với ba má đi, rồi khi ba má mất thì sẽ cho con cái căn nhà này. Tôi la, Má! Má nói gì kỳ quá! Ba cười kêu, má con dụ con đó, để con đừng ra ở riêng. Bả cứ kêu ba mày nói thường không kiêng cử, mà bữa nay bả cũng ba láp quá. Tôi thấy ba má nói qua nói lại thật vui. Ừ, con gái út trút gia tài mà!
Tôi đang nộp đơn cho một cái hãng thầu xây cất ở Redmond. Hãng nhỏ, tôi không biết nhiều về hãng đó. Lại không quen ai làm ở đó để mà hỏi. Biết nhiều về cái hãng mình đang xin việc thì dễ trả lời lúc vào phỏng vấn, như thế có cơ hội được mướn hơn. Nhưng tôi chịu. Đành vậy.

Phong
Tôi không ngờ là Tường Vân đã về đây, đang xin việc ở hãng tôi. Cái địa chỉ nơi nàng ở, vẫn là địa chỉ quen thuộc của nhà cha mẹ nàng, chỗ mà tôi đã nhiều lần lui tới. Tôi mân mê cái résumé của nàng trên tay tôi. Tôi biết ngay là nàng có khả năng cho công việc hãng tôi đang cần. Nhưng nếu nàng biết có tôi ở hãng này, và nếu nàng biết tôi đang là phó giám đốc của hãng này, liệu nàng có chịu nhận cái giốp? Ngày đó nàng giận tôi lắm, bỏ đi mà không muốn nghe thêm một lời giải thích nào của tôi nữa, cho dù tôi đã cố giải thích cho hành động nông nổi của tôi lúc ấy. Một thoáng nông nổi đáng trách. Tôi cũng biết vậy.
Nghĩ thế, tôi sắp xếp kêu bạn tôi mướn nàng. Dễ thôi, vì tôi là sếp của hắn. Tôi sẽ không ra mặt. Khi nàng quen công việc và thấy tự nhiên nơi này thì chuyện biết sự có mặt hay địa vị của tôi ở đây sẽ không còn quan trọng nữa. Điều cần nhất là buộc chân không cho nàng đi. Cầu mong mọi việc êm xuôi. Con người ấy thông minh lắm, con mắt thật sắc bén. Ra trường với bằng danh dự kia mà. Trong khi tôi chỉ mong sao cho xong cái bằng.
Chính là bức ảnh của nàng mà tôi nhìn ngắm, trong ngần ấy năm. Bốn năm nay, quen bao nhiêu người con gái mà tôi vẫn không thể nào quên được nàng. Nàng vẫn hiện diện trong đời sống hằng ngày của tôi. Hạnh phúc trong tay mà không biết, đến khi mất rồi mới đỏ mắt đi tìm. Bây giờ tôi mới nghiệm là đúng.
Liệu tôi có được cơ hội lần thứ hai nắm giữ lấy hạnh phúc của mình?



Tường Vân



Tôi được cái giốp ốp phơ dễ dàng quá. Chỉ có một người phỏng vấn tôi rồi nói ngay chị có thể đi làm ngay nếu chị muốn. Nói bằng tiếng Việt. Đơn giản như thế.
“Không có phỏng vấn ai khác nữa à?”
“Nhìn cái đơn của chị thấy chị thích hợp với cái việc quá rồi, những người kia không bằng thì phỏng vấn chi cho mất công.”
Dĩ nhiên là tôi nhận lời. Nằm nhà lâu quá, tôi còn đợi chờ gì nữa.
Đi làm được vài ngày thì tôi nghe như có tiếng nói của quá khứ hiện về:
“Vân khỏe không%3
F Lâu ngày mới gặp.”
Xoay lại nhìn, tưởng như gặp ...ma. Trái tim tôi đánh lộn nhịp. Tôi tưởng nó đã chai lì với thời gian. Tôi mất bình tĩnh, suýt làm đổ ly cà phê Starbucks, tôi ấp úng:
“Anh...anh làm...ở đây?”
Tôi không ngờ là gặp Phong ở chỗ này. Bao năm chạy trốn, bây giờ thất nghiệp lại về đây “nạp mạng”? Sau đó tìm hiểu tôi mới biết Phong không những là sếp cao của tôi mà còn là ông chủ của tôi. Hãng này do ông bố nuôi của Phong thành lập. Bây giờ ông già rồi, gần như về hưu, trên giấy tờ vẫn là ông làm chủ nhưng thật sự ông đã để cho Phong coi ngó hầu như mọi việc. Ông không có con. Trong tương lai cái sản nghiệp này sẽ về tay Phong, đó là ý nguyện của ông lúc Phong còn học đại học giai đoạn mới xin vào ngành, ông đã muốn Phong đi về ngành xây cất. Ngày đó, Phong có nhắc tới ông bố nuôi người Mỹ. Mỹ gốc Hy Lạp. Ông từng đi lính qua VN và biết ba của Phong. Khi Phong chạy qua đây một mình thì ông đứng ra bảo lãnh và nhận đỡ đầu lo lắng cho Phong từ đấy. Nhưng tôi chưa bao giờ thấy mặt ông vì ông đi nước ngoài nhiều.
Tú, cái anh chàng đã mướn tôi, đã dẫn tôi đi giới thiệu với mọi người trong hãng. Gần như...mọi người, chỉ có một người Tú đã không dẫn đi, mà tôi cũng chẳng biết còn những ai tôi chưa gặp mặt. Cho tới bây giờ...
Tôi đã nghĩ chuyện nghỉ việc, vì quả thật tôi chưa đến lúc đói. Về nhà gọi phôn cho cô bạn, cô ả nói, mi có điên không, cứ làm tỉnh, việc mình mình làm, không cần phải để ý đến hắn. Với lại thời buổi khó khăn, không dễ gì kiếm việc khác. Mi quit là mi sẽ nằm nhà một thời gian dài, mà như vậy lại không đẹp cho cái hồ sơ xin việc của mi, trong tương lai khi mi đi xin việc, mi sẽ trả lời làm sao.
“Vân cũng nghĩ như vậy. Việc gì sợ chứ! Quả là không sợ, nhưng thật không muốn nhớ chuyện cũ nữa.”
Tâm ngập ngừng đổi tông:
“Với thời gian đã thử thách hai người, Tâm thấy chuyện cũ cũng không có gì, ai mà chẳng có lúc lầm lẫn.”
“Tâm thay đổi cái nhìn từ bao giờ? Ngày trước Tâm cũng đồng ý với Vân mà.”
“Đúng vậy! Chúng mình đã trưởng thành, đã già đi thêm vài năm. Phải biết tha thứ. Miễn là mình giữ được cái hạnh phúc của mình. Cái hạnh phúc đó là có thật đó Vân! Nhiều người, cái hạnh phúc họ có thì thật mỏng manh mà họ còn phấn đấu giữ cho bằng được. Đằng này...”
“Nếu đàn bà con gái mình cũng làm sai lầm như thế, có được tha thứ không? Chắc chắn là không, thì tại sao lại coi việc bọn đàn ông họ làm là nhẹ cho được. Sao lại cứ nói chuyện nam nữ bình quyền.”
“Vân còn giận Khánh không?”
“Không, đâu phải lỗi của nó. Phải có người dụ thì cô ta mới sa ngã chứ. Ừ, cho dù mình không biết ai dụ ai, đâu có quan trọng.”
“Vậy Tâm nghĩ là Vân đã cho rằng phụ nữ cũng được tha thứ. Bây giờ cái nhìn của thiên hạ dễ dàng hơn nhiều rồi, như Vân đã tha thứ cho Khánh.”
“Thiên hạ bao giờ cũng vậy. Chỉ có mấy năm, đâu có bao lâu đâu!”
Tâm cười:
“Vậy thì chính mình là người cổ lỗ sĩ rồi!”

Phong



Tôi thấy thấp thoáng nàng trong những ngày đầu nàng đến làm việc. Dáng vẫn gầy. Cổ cao. Tóc vẫn xõa ngang vai như thế. Gặp lại nàng, tôi phải đóng vai ...mọi việc như là một sự tình cờ. Không dám vồn vã. Không dám nắm bàn tay thật lâu. Tôi có để ý thấy tay nàng không đeo nhẫn, đoán nàng chưa lập gia đình. Không dám để nàng nhìn lâu vào đôi mắt của tôi. Không phải là vì tôi sợ nàng thấy được cái giả dối đóng kịch (tôi rất thành thật), mà vì tôi sợ nàng đọc được ánh mắt đắm đuối của tôi rồi sợ hãi không trở lại nữa. Tôi nhủ thầm, mọi việc phải từ từ. Tôi cần phải gây lại niềm tin nơi nàng.
Hôm nay, có buổi họp, tôi vào trễ, may mắn là còn hai chỗ trống, tôi chọn ngồi ở cái ghế kế bên ghế nàng. Nàng ngẩng đầu cười nhẹ. Dấu hiệu tốt, tôi thấy vui. Vẫn mùi nước hoa quen thuộc. Không gắt, thoang thoảng dễ chịu.
Lại gặp nhau trong cafeteria. Tôi và nàng nói chuyện bâng quơ. Nàng không tỏ vẻ lạnh lùng, cũng đủ làm tôi vui. Nhưng tôi chưa dám ngồi lâu với nàng. Chưa dám xin nàng một cơ hội để tâm sự, dù là đã bốn năm rồi. Có bao điều muốn hỏi. Có bao điều muốn nói. Tôi muốn cho nàng biết tôi vẫn chưa lấy ai, bao năm trong tim chỉ vẫn có một hình bóng của nàng mà thôi. Nhưng sợ là quá đường đột, không muốn làm nàng sốc.
Không dám dành trả tiền cho một ly cà phê của nàng. Không dám hẹn hò!

Tường Vân
Ngày tôi về nhà thì Tây Bắc đã cuối mùa thu. Khắp nơi những chiếc lá vàng đã rơi rụng, hiếm hoi mới thấy sót lại vài cây phong lá vàng còn bám trên cành cây. Trời đã có những ngày lạnh, bầu trời xanh lục chứ không còn xanh màu xanh da trời. Tôi đi làm đã nhớ khoác thêm một cái áo khoác bên ngoài. So ra sao lạnh bằng miền Đông được. Tại có má tôi bên cạnh nhắc hoài làm tôi tưởng là trời lạnh dữ lắm.
Năm nay chuẩn bị đón Xuân, có tôi bên cạnh, má tôi vui quá, bà nhờ tôi chở bà đi chợ Á Đông tận Seattle mua gừng non về làm mứt. Bà cũng làm mứt hột sen, mứt dừa. Tôi phụ bà nạo dừa, xắt dừa. Bà ngâm nếp, ngâm đậu xanh để gói bánh chưng, bánh tét, bánh ú, bà giải thích, má làm thêm cho mấy bà bạn già sống một mình, tội lắm, sẵn làm cho mình thì làm cho họ luôn, để lấy thảo cuối năm. Tôi hứa với má đêm giao thừa tôi sẽ đưa má đi chùa dự lễ. Những năm đi làm xa, tôi chỉ về nhà vào những dịp lễ lớn như Thanksgiving hay Giáng Sinh. Nếu đi vào dịp Thanksgiving thì không đi dịp Giáng Sinh, hay ngược lại. Có khi tôi cũng về vào mùa hè. Nhưng Tết Việt thì không khi nào, vì mình ăn Tết chứ Mỹ đâu có ăn Tết.
Lâu ngày mới có dịp mẹ con ngồi bên nhau làm bánh mứt cuối năm, vừa làm vừa tâm sự.
“Công việc ở sở mới thế nào, con? Hợp với con không? Có dễ chịu không? Có người Việt nào làm ở đó không? Sếp của con có tốt với con không?”
Má hỏi nhiều quá. Tôi chỉ cười nói gọn:
“Con má thông minh học việc nhanh làm việc gì cũng được hết đó má! Dĩ nhiên là ai cũng tốt với con.”
Tôi nghĩ thầm Má không cần biết tôi đã gặp lại ai. Rồi tôi huyên thuyên nói qua chuyện bánh mứt, hỏi làm như thế nào cho ngon. Nhưng má nói:
“Má rảnh thì má làm cho vui, con biết làm chi cho cực, con, ăn uống có bao nhiêu đâu.”
Rồi...
Chiều cuối năm, tôi vẫn còn ngồi nơi sở làm, bận rộn với đống giấy tờ. Nhân viên đã về hết rồi. Cảnh vật yên tĩnh. Chợt nghe tiếng chân, ngẩng đầu lên đã thấy Phong đứng trước cửa phòng. Chàng cười dặn dò:
“Đừng làm quá sức đó!”
“Đúng vậy! Cuối năm rồi, cũng nên về sớm, còn lo đưa bà già đi chùa. Tối nay là tối giao thừa.”
“Vậy là anh lại càng bậy nữa. Lại để em làm quên giờ về.”
Tôi đứng lên bước ra cửa, định kêu Phong cứ yên tâm về đi, tôi sẽ ngồi không lâu nữa đâu. Ai dè, Phong chờ tôi đến gần, chụp lấy tay tôi, nói ngay:
“Anh xin lỗi!...”
Tôi hiểu ngay là chàng muốn nói gì, tôi giựt tay lại:
“Vân không muốn nhớ chuyện cũ!”
“Xin em hiểu mấy năm nay anh vẫn nhớ thương em.”
“Nếu anh còn nhắc, thì Vân sẽ nghỉ việc. Tiền thất nghiệp thì hết được ăn rồi, nhưng Vân sẽ không đói.”
Mặt tôi phải nghiêm trang lắm vì chàng nói:
“Thôi! Vân cứ làm ở đây. Đừng nghỉ. Anh hứa không làm phiền em nữa, nếu em muốn vậy.”
Chàng buồn bã bỏ đi. Tôi bần thần trong người, nhìn theo bóng chàng xa dần và mất đi ở khúc quanh của dãy hành lang. Chần chừ nửa muốn đuổi theo, nửa muốn buông xuôi, mặc thế nào thì mặc.
Bây giờ ở nhà, nằm trên giường của mình, mắt nhìn lên trần nhà (không thấy một con thằn lằn nào làm chứng cho tình cảnh của tôi), tôi cứ nhớ lại cảm giác hốt hoảng của tôi và của Phong lúc ấy. Bất ngờ quá, tôi không thể dịu dàng hơn, cái câu trả lời đã được chuẩn bị từ lâu, đã nhập tâm tôi rồi, nó cứ tự nhiên nhảy bổ ra thôi. Và Phong cũng không ngờ tôi lại cứng rắn như vậy. Tôi gặp ánh mắt van xin của Phong kêu tôi đừng đi đâu cả. Tôi đã muốn ngã vào lòng Phong mà nói Em đã tha thứ cho anh, chúng ta hãy bắt đầu lại từ đầu. Nhưng tôi lại làm khác ý của tôi! Lời tuôn ra khỏi miệng rồi thì không kịp nuốt lại được!
Vắt tay trên trán, nghĩ tới nghĩ lui có ích gì!
Cũng chưa muộn mà. Chúng mình vẫn yêu nhau phải không? Tôi bắc phôn gọi cho Phong. Bên kia đầu dây reng những tiếng dài. Hồi lâu, mới có người trả lời:
“Anh Phong không có ở nhà. Anh vừa bị tai nạn xe cộ, còn nằm ở nhà thương (trong thoáng giây, tim tôi tưởng như ngừng đập). Chị là chị Vân hả? Ồ tưởng ai, mới nói vòng vo làm chị lo. Không sao đâu chị. Bác sĩ cho biết anh không có nguy hiểm gì đâu. Vết thương ở bên hông nhẹ thôi. Họ giữ lại qua đêm để theo dõi, chỉ chờ chụp hình coi cho chắc chắn.”
Tôi chạy vội xuống nhà, nói với má tôi là tôi phải vào bệnh viện ngay, để thăm Phong. Vắn tắt cho Má biết lý do. Má tôi ngạc nhiên lúc đầu, sau đó vui vẻ nói, đi đi, đừng lo chuyện phải đưa má đi chùa dự lễ giao thừa. Má cũng bận cúng kiến ở nhà rồi, má sẽ không quên xin Trời Phật phù hộ cho hai đứa bay.
Hình như bao nhiêu năm nay má tôi chỉ chờ đợi cái ngày này. Cái ngày đứa con gái út của bà có đôi lứa êm ấm đẹp đẽ.

Phong
Tôi không tin con mắt của mình. Tường Vân đến thăm tôi. Mọi việc xảy ra nhanh chóng quá. Mới hồi chiều đây, tôi tưởng như tất cả con đường đưa tôi đến gần nàng đều bị bít lối. Nàng không cho tôi nhắc tới chuyện cũ. Nàng cũng chẳng muốn nghe tôi nói tới chuyện tương lai. Chỉ hiện tại là chủ nhân ông với người làm việc thôi. Tôi phải nhớ vai vế như vậy thì nàng mới chịu ở lại làm việc. Tôi đành hứa với nàng như vậy vì sợ nàng bỏ đi lần nữa, hứa mà ruột gan tôi thì co thắt lại.
Nhưng tất cả đã là quá khứ rồi. Tôi đang ôm nàng trong lòng, nghe được nhịp tim của nhau. Hạnh phúc quá. Tôi sẽ không dại dột đánh mất đi lần nữa. Câu tôi nói, nàng đã nghe hồi chiều, nhưng bây giờ nói lại thì có ý nghĩa hơn, tôi thì thầm:
“Anh vẫn thương nhớ em.”
“Em biết. Em cũng vậy. Em cũng thương nhớ anh.”
Nước mắt của nàng nhỏ giọt lên mặt tôi, nóng hổi. Qua Xuân ấm áp mình sẽ làm đám cưới, em nhỉ, để anh buộc chân em lại, để em không dễ dàng bỏ anh đi xa được. Anh hứa sẽ không bao giờ làm em buồn nữa.
Nàng cười khúc khích:
“Buộc nhè nhẹ nha, buộc em bằng sợi chỉ hả? ....Người ta sẽ nói nhân viên mà đi lấy ông chủ, để leo nhanh lên...bước thang danh vọng, đó.”
Tôi xiết chặt lấy nàng:
“Ai nói gì mặc kệ, em sẽ là cánh tay mặt đắc lực của anh. Anh còn nhớ, ngày đó em đã ra trường với bằng tối ưu mà.”
Đang cuối đông mà đã thấy một mùa xuân hạnh phúc đón chờ trước mặt

2032

Khả năng chữa lành của lòng vị tha



Khả năng chữa lành của lòng vị tha


Ngạn ngữ có câu: "Hãy tha thứ và hãy quên!". Nhưng đa số chúng ta thì thường cảm thấy "quên" dễ hơn là tha thứ cho một người nào đó đã làm ta đau lòng, thất vọng não nề. Tuy nhiên, dù khó khăn thế nào đi nữa, chúng ta vẫn nên cố học cách tha thứ. Fred Luskin - giáo sư tâm lý học Trường ÐH Stanford, kiêm tác giả cuốn sách Hãy tha thứ vì sự tốt đẹp - đã khuyên: nếu cứ gặm nhấm những nỗi đau và âm ỉ sự phục thù, bạn sẽ bị hao mòn cả về thể xác lẫn tinh thần. Tha thứ sẽ là một liều thuốc giải độc mạnh mẽ".


Trong một nghiên cứu gần đây, Charlotte van Oyen - giáo sư tâm lý học Trường CÐ Hope ở Hà Lan - đã yêu cầu 71 đối tượng tình nguyện nhớ lại một nỗi đau trong quá khứ. Qua kiểm tra đo đạc cho thấy có những đột biến đáng kể trong huyết áp, nhịp tim đập và sự căng cơ - những phản ứng tương tự xảy ra khi bạn đang nổi cơn giận dữ. Các nghiên cứu đã kết nối giữa sự tức giận và bệnh tim. Nhưng khi các đối tượng được yêu cầu tưởng tượng ra sự tha thứ và thông cảm và tha thứ luôn cho những người đã làm họ đau khổ thì test so sánh cho thấy nhịp tim và huyết áp đều bình ổn. Theo Luskin, điều quan trọng hơn nữa là ai trong chúng ta cũng có thể học được cách tha thứ: "Chúng tôi hướng dẫn cho các đối tượng viết lại câu chuyện trong đầu, biến đổi nạn nhân thành người anh hùng. Nếu họ đau lòng vì bị người phối ngẫu phản bội, chúng tôi động viên họ hãy tự nghĩ về mình không phải như là người "bị cắm sừng", mà là người đang hy sinh và nỗ lực để duy trì hạnh phúc trong hôn nhân".


Những dấu hiệu đầu tiên cho thấy sự tha thứ có thể cải thiện sức khỏe tổng trạng thật đáng khích lệ: một cuộc khảo sát trên 1.423 đối tượng do viện Nghiên cứu xã hội trực thuộc Trường ÐH Michigan tiến hành vào năm 2001 đã khám phá ra rằng, những ai đã từng tha thứ cho một người nào đó trong quá khứ đều cảm thấy khỏe khoắn, nhẹ nhàng, thư thái hơn những ai vẫn cứ chôn sâu mối hận trong tim.


Tuy nhiên, hãy còn một điều đáng suy nghĩ: Trong khi 75% người tin rằng Chúa đã tha thứ những khi lầm của họ trong quá khứ, thì chỉ có 52% người có đủ nghị lực và lòng vị tha trong tim để tha thứ cho người khác. Như vậy, tha thứ vẫn là một hành động cao cả mà chúng ta phải học hỏi suốt cả đời!

518

Jun 13, 2008

Bài Hát Về Năm Chiếc Lá



Hạnh phúc là một chiếc lá
âm thầm nảy lộc đêm đông
Buồn đau là một chiếc lá
rụng trong nhựa ứa mai hồng
Nhớ mong là một chiếc lá
run vô cớ giữa lặng không
Hờn ghen là một chiếc lá
vỡ đã tắt gió trong lòng
lay lắt mãi giữa cành đông
Tình yêu chỉ năm chiếc lá
Mà làm thành cả cơn giông
1487

Jun 12, 2008

Tình Toán Pháp




Hỡi nàng ơi , quỹ tích của âm thanh
Thuở song song trong khung cảnh bình hành
Trong không gian đồng qui âu yếm hẹn
Hai ta là một đẳng thức e thẹn
Sống chung nhau hai vế một phương trình
Đợi ngày anh sung sướng chứng minh
Anh nhớ em muôn đời làm định lý
Phần phản đề xin em đừng đãng trí
Lại gần đây dù một ép si lon
Đứng bên kia giới hạn em buồn
Đã bao lần anh tiếp tục nói luôn
Tình anh bằng lũy thừa vô cực
Tình cấp số cọng sai từng ngày một
Không tương đương anh nguyện đạo hàm
Xin nhắc em anh nguyên hàm chưa sún
Bụng tuy to nhưng mặt hiền ít mụn
Sao gần em em biến thành vô định
Đẳng thức không với dạng thức vô cực
Số em âm em ngại gì vô tỉ
Cực lòng anh là một kẻ tình si
Tim anh rung không biết mấy chu kỳ
Trong không gian đồng qui âu yếm hẹn
Đôi ta là một đẳng thức e thẹn
884

Jun 10, 2008

Đẻ Nhiều



Lộc Ninh là nơi có nhiều muỗi. Vừa sập tối thì đồng bào phải vào trong mùng ăn cơm, nói chuyện và... Ngủ sớm. Không ai có thể ngồi ngoài làm việc gì được. Một ông già ở tỉnh lỵ, gả con gái cho anh nông dân ở vùng ấy ngạc nhiên thấy năm nào cũng có một đứa cháu ngoại. Ông hỏi thằng rể thì nó trả lời:

Không phải chỉ một mình vợ con đẻ sai mà thôi, bà con lối xóm ai cũng sản xuất mạnh như vậy cả.

Ông hỏi:

Con có biết tại vì sao không?

Chú rể suy nghĩ một hồi và đáp rằng:

Con chắc tại ở đó có nhiều muỗi quá.

Ông già lấy làm lạ:

Muỗi thì mặc muỗi chớ ăn thua gì đến chuyện đẻ con!

Chú rể nói:

Có ăn thua lắm chớ! Tía coi, cứ đầu hôm thì lủi vô mùng rồi tụi con biết làm gì khác hơn đâu!

2823

Đẻ Nhiều



Lộc Ninh là nơi có nhiều muỗi. Vừa sập tối thì đồng bào phải vào trong mùng ăn cơm, nói chuyện và... Ngủ sớm. Không ai có thể ngồi ngoài làm việc gì được. Một ông già ở tỉnh lỵ, gả con gái cho anh nông dân ở vùng ấy ngạc nhiên thấy năm nào cũng có một đứa cháu ngoại. Ông hỏi thằng rể thì nó trả lời:

Không phải chỉ một mình vợ con đẻ sai mà thôi, bà con lối xóm ai cũng sản xuất mạnh như vậy cả.

Ông hỏi:

Con có biết tại vì sao không?

Chú rể suy nghĩ một hồi và đáp rằng:

Con chắc tại ở đó có nhiều muỗi quá.

Ông già lấy làm lạ:

Muỗi thì mặc muỗi chớ ăn thua gì đến chuyện đẻ con!

Chú rể nói:

Có ăn thua lắm chớ! Tía coi, cứ đầu hôm thì lủi vô mùng rồi tụi con biết làm gì khác hơn đâu!

2823

Nói láo như bò



Anh chủ nhà kia hay nói láo, có thằng đày tớ lanh nói đỡ cho ảnh hoài, Bữa kia ảnh nói với người ta rằng : "Tôi bị trận dông lớn quá chừng, đến đỗi cái giếng nó bay cho tới đàng xóm !". Họ nói không có lẽ.
Thằng đày tớ cắt nghĩa rằng : "Sự đó là thiệt, bởi cái giếng của chủ tôi có rào chặn một hàng sơ li, hôm đó trận dông nó trốc hàng sơ li quan bên này, nên coi như hình cái giếng bay qua bển".
Bữa kia anh ta uống rượu say, khoe tài với sanh em bạn rằng : "Tôi vào trai gái với con vợ thằng khác ấy, rủi nó về, cỏn sợ đem giấu tôi trong thùng ngang; thẳng dở ra, thì thùng không, tôi đã độn về mất".
Thằng đày tớ nói rằng :"Sự đó là thiệt, hôm đó tôi có đi theo, thấy thím kia biểu chủ tôi ngồi, lấy thùng úp lại, tôi ngồi ngoài, gần bên lỗ chó, tôi kêu nhỏ, chủ tôi nghe, mang thùng lại dựa vách, chum lỗ chó mà ra.
Thằng khác cầm đèn lại dở ra thì thấy thùng trống".
Anh ta ỷ có đày tớ nói đỡ cho, ăn quen cứ nói láo hoài.
Bữa kia người ta đập được một con chuột cống, lớn bằng con heo con, ai nấy làm lạ xúm lại coi, anh ta lại nói rằng : "Chuột bây lớn mà mấy người lấy làm lạ, bữa hôm tôi đập được con chuột lớn bằng con bò".
Họ nói :"Cái đó mới là láo to đa !"
Anh ta biểu hỏi thằng đày tớ coi.
Thẳng nói rằng : "Láo bực nào tôi còn đỡ đặng, trừ ra có cái láo như bò, tôi đỡ không nổi".

317

Duyên Số



An cơm xong, chúng tôi bắc ghế ngồi trong vườn. Anh Vân, chủ nhà, đang loay hoay pha mấy chén cà phê, mùi thơm phảng phất bốc trong không khí yên lặng.

      Đã hai năm nay anh Bình và tôi mới lại gặp Vân.

      Ba chúng tôi là bạn bè rất thân mật. Nhân nói tới việc anh Vân mới cưới vợ, câu chuyện cứ quanh quẩn về việc vợ con và lập gia đình.

      Bình nói:

     - Tôi chỉ ước sao được một người vợ tuyệt đẹp thế là đủ.

      Tôi tiếp:

     - Tôi cũng ước như vậy.

      Vân đáp:

     - Người đẹp thì vẫn hay lắm. Nhưng tôi thì tôi cho việc vợ chồng chẳng qua là duyên số.

      Chúng tôi phì cười:

     - Anh này bây giờ thành ông thầy tướng chắc! Duyên số là cái quái gì mới được chứ?

     - Là một sự bí mật không ai hiểu, mà chính tôi cũng không hiểu. Các anh hãy lặng yên để tôi kể câu chuyện của tôi cho mà nghe.

      Nói xong, Vân điềm nhiên, thong thả châm điếu thuốc hút, rồi thong thả kể như một ông cụ:

     - Chắc các anh cũng rõ, trước kia, tôi cũng lãng mạn như những người trẻ tuổi khác. Nghĩa là bình sinh chỉ ao ước được một người tuyệt thế giai nhân, như Tây Thi chẳng hạn để sánh vai, kề gối thì mới mãn nguyện. Mà việc ấy riêng đối với tôi thì lại có thể dễ dàng lắm, vì nhà tôi giàu, mẹ tôi lại chiều chuộng. Chỉ còn việc đi tìm người đẹp nữa là xong. Tôi bèn đi khắp thành phố Hà Nội, trong lòng tâm tâm niệm niệm sẽ tìm được con người trong lý tưởng.

      Một hôm trong hội chợ tôi vào xem một gian hàng thêu. Lúc quay ra gặp ngay một bà cụ già tóc bạc phơ, với lại, đứng đằng sau... một cô gái.

      Thoạt mới nhìn đôi mắt cô ta, tôi choáng váng như người nhắp cốc rượu mạnh. Thế rồi tôi yêu cô ta ngay, yêu tha thiết, yêu say đắm, không biết thế nào mà tả được. Tôi không biết rõ mặt mũi cô ta ra sao nữa, vì mỗi lần nhìn thì lại bị đôi mắt đen huyền ảo của cô ta làm choáng váng. Nhưng điều tôi chắc chắn, là cô ta rất đẹp. Ở hội chợ ra, tôi cứ theo riết cô ta và bà cụ về đến tận nhà, và sau khi đi đi lại lại trước nhà cô ta cho mãi đến 9 giờ tối, tôi mới chịu bỏ ra về.

      Từ đấy, không ngày nào là tôi không đến đứng ở đầu phố hay qua nhà cô ta để mong được gặp mặt. Có khi đứng yên lặng hàng nửa giờ dưới mưa gió, tôi vẫn kiên gan không hề phàn nàn, chỉ mong nhìn mặt cô ta một lần cho đỡ nhớ. Bây giờ nghĩ lại độ ấy thật gian nan khó nhoc hơn một người đi lính.

      Tuy vậy mà ba tháng đã trôi qua, tôi vẫn chưa tìm được cách nào để tỏ cho cô ta biết rằng tôi yêu cô ta, mà tôi cũng chưa rõ cô ta có để ý đến tôi không.


  Trong lúc tôi đang mê mải về cô thiếu nữ ấy, một hôm mẹ tôi gọi đến bảo:

     - Anh đã muốn lấy vợ chưa?

     - Con ấy à? Rất sẳn lòng.

     - Thế thì hay lắm. Tôi đã tìm được cho anh một chỗ rất môn đăng hộ đối, mà nhà lại giàu. Bà cụ là bạn cũ của tôi, còn cô ta...

      Tôi không để cho mẹ tôi nói hết:

     - Mẹ cứ để con chọn lấy, không cần gì giàu nghèo hay sang trọng, miễn là người ý hợp tâm đầu với con là được rồi.

     - Nhưng anh có biết mặt cô này đâu. Cô ta ngoan ngoãn, có vốn liếng, mà cũng xinh đẹp.

      Tôi nghĩ đến cái nhan sắc lộng lẫy của người vẫn mơ tưởng, nên không thiết gì bàn luận nữa. Mẹ tôi cũng chiều tôi không ép, nhưng còn tiếc:

     - Không đám nào hơn đám này đâu, anh ạ. Nếu anh bằng lòng thì được ngay.

      Tôi đâm gắt:

     - Thì con đã xin mẹ cứ để mặc con mà lại! Con sẽ chọn lựa lấy được người hợp ý.

      Trong bụng tôi định, hễ làm quen được với thiếu nữ kia, là sẽ nhờ mẹ tôi đem trầu cau sang hỏi. Cái địa vị và sự giàu có của tôi chắc sẽ cho tôi được mãn nguyện.

      Mẹ tôi không nói gì nữa. Nhưng một tuần sau, bà cụ lại giở đến câu chuyện cũ:

     - Thế nào anh nghĩ kỹ chưa? Cứ nghe tôi bằng lòng đám này đi, không còn thì muộn mất. Vì người ta cũng đang có nhiều người hỏi lắm.

     - Hỏi thì hỏi, càng hay. Mẹ cứ để mặc con.

      Mẹ tôi phát dỗi:

     - Ừ đấy thì để mặc anh. Tôi không nhọc xác!

      Từ đấy, mẹ tôi không đả động đến câu chuyện ấy nữa. Tôi mừng rỡ đem hết trí nghĩ để tìm cách thu phục con người đẹp đẽ kia, nhưng vẫn chưa có dịp tốt nào. Chỉ biết thêm được tên cô ta là Bảo.


 


  Một buổi chiều về nhà, mẹ tôi chỉ mấy cái bánh chưng, bánh dầy bọc lạt đỏ, mà nói:

     - Đây là cái đám hôm nọ tôi nói chuyện người ta biếu. Đấy, bảo anh, anh cứ lần khân không lấy, bây giờ người ta đi lấy chồng rồi. Thật đáng tiếc.

     - Mẹ cứ nói vậy chứ tiếc quái gì. Thiếu gì nơi còn hơn thế nữa.

     - Đành vậy. Nhưng cô Bảo này thật là được cả người lẫn nết.

      Tôi sửng sốt hỏi:

     - Mẹ nói cái gì? Cô Bảo à? Có phải cô Bảo nhà ở ngõ Gia Hưng không?

     - Có còn cô Bảo nào nữa. Anh cũng không biết ư?

      Tôi choáng váng không nghe thấy gì nữa, trống ngực đổ dồn như người bị cảm. Để mẹ tôi ngạc nhiên đứng đấy, tôi vùng chạy một mạch đến ngõ Gia Hưng, quả nhiên thấy trước nhà người vẫn mơ ước, xác pháo giải đỏ cả thềm. Qua bức mành, tôi thấy trong nhà đèn nến thắp sáng và có tiếng người ăn uống.

      Thì ra cô Bảo của tôi đã đi lấy chồng thật!

      Từ đó, tôi thất vọng, buồn rầu, không thiết gì nữa. Mẹ tôi lo sợ, vội hỏi cưới ngay cho tôi một người ở thôn quê. Lần này, khi mẹ tôi ngỏ ý, tôi nhận lời ngay, cũng không buồn đi xem mặt người con gái nữa. Thế rồi mấy tháng sau thì cưới.

      Anh Vân ngừng lại. Ở trong nhà một người đàn bà mặc áo dài trắng bước ra, tay cầm cái ấm chè. Khi đến gần, sẽ cuối đầu chào chúng tôi rồi pha nước vào chén. Tôi nhìn thật kỹ, thấy người đã đứng tuổi, vẻ mặt xấu xí như những đàn bà nhà quê thường thấy. Anh Vân khẽ giới thiệu:

     - Đấy, nhà tôi đấy.

      Khi người đàn bà đã bước vào nhà, anh ta thở dài nói:

     - Thế mới biết vợ chồng là việc duyên số không biết thế nào mà định trước được. Tuy vậy mà tôi với nhà tôi hợp ý nhau lắm, trong gia đình rất thuận hòa. Biết đâu, nếu tôi lấy cô Bảo kia, rồi sau lại không được như thế?

      Phải, biết đâu? Chúng tôi còn đồng thanh tỏ cho anh Vân biết rằng cũng đồng ý với anh về chỗ ấy, và hết sức an ủi cho anh hiểu rằng chỉ có sự hòa thuận trong gia đình là đáng quý giá hơn hết.




263

Jun 9, 2008

San Jose Đi Dễ Khó Về








Cách đây hơn bốn năm, tôi đến San Jose để làm việc một tháng. Bây giờ "Đến hẹn lại lên", vì hiện nay ở Nam Cali tôi đang rảnh, tính đi làm lâu lâu để kiếm tiền để dành, thế mà cũng chỉ một tháng là vội trốn về.

San Jose với đường xá mở rộng thêm nhiều, nhưng xe cộ vẫn kẹt cứng. Những khu kỹ nghệ to lớn với parking đậu đầy xe loại mắc tiền; Ánh đèn ở những khu thương mại chói chang, xứng danh là thung lũng điện tử nổi danh trên toàn thế giới. Ấy vậy mà bên cạnh những cao ốc, vẫn còn rất nhiều đất để hoang, có hoa vàng nở rộ và hai bên xa lộ, đôi khi ta còn bắt gặp vài chú nai đi ngơ ngác, nhất là đi lên hướng Saratoga, highway 9. Cảnh trí nơi này không khác gì Đà Lạt, với núi đèo, thác suối. Tiếng lá reo hòa với tiếng suối róc rách, làm cho ta ngỡ rằng đã lạc vào chốn thiên thai.

Có lẽ vì không một ai than phiền với sở Animal Control, nên tuy là một thành phố lớn, nhưng nửa đêm về sáng, người ta vẫn nghe thấy tiếng gà eo óc gáy. Tôi phần thì nhớ nhà, phần thì bị bệnh mất ngủ, lại càng không ngủ được. Cảnh thổ ở bên quê nhà cứ lởn vởn trong trí, với bờ ao ruộng lúa. Mỗi lần nghe tiếng gà gáy, tôi lại nhớ bài thơ Nắng Mới của Lưu Trọng Lư :



Mỗi lần nắng mới hắt ven song

Xao xác gà trưa gáy não nùng

Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng

Chập chờn sống lại những ngày không

Tôi nhớ mẹ tôi thuở thiếu thời

Lúc người còn sống tôi lên mười

Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội

Áo đỏ người đưa trước dậu phơi

Hình bóng mẹ tôi chửa xóa mờ

Vẫn còn mường tượng lúc vào ra

Nụ cười đen nhánh sau tay áo

Trong nắng trưa hè trước dậu thưa.



Mẹ tôi còn sống, mà mỗi lần đọc bài thơ này là tôi muốn sa nước mắt, tôi thương cảm giùm những người mất mẹ.

Rất may cho tôi là lần này lên làm việc đúng vào dịp hãng có vài công việc được trả tiền theo đầu người, nghĩa là làm việc tà tà, không chuyên môn cũng được (Những công nhân này được gọi là Cà Đơ).

Dân Cà Đơ không lái được xe Heavy equipment, không biết chạy dây điện, cũng được trả ba bốn chục đồng một giờ. Tôi cũng thuộc diện Cà Đơ, nhưng may quá, được trả tới năm chục, nên khi cầm tấm check, nặng trĩu cả hai tay.

Lần này, tôi cũng có dịp đi làm chung với nhạc sĩ Trần Chí Phúc. Không biết nhạc của anh ta hay tới đâu, nhưng giọng ngâm thơ của anh vang lên, lẫn trong tiếng suối nơi Highway 9, đã làm ruột gan tim phổi tôi lộn tùng phèo :



Vú em như cái chũm cau

Cho anh bóp cái, có đau anh đền.



Nơi đây, phiá Tây Bắc San Jose, giữa rừng thông cao vút, có con đường nhỏ dẫn vào một trang trại trồng nho, mà những gốc nho già gần hai trăm tuổi, lớn bằng bắp vế, có cơ sở làm rượu Savanah Winery và tasting room. Lúc chúng tôi vào phòng nếm rượu, đã có dăm ba người Mỹ đang uống rượu trong những ly chân cao. Người phụ nữ rót rượu tươi cười giải thích từng màu sắc của từng ly rượu và nói rằng mỗi người khách phải trả bảy đô la. Chúng tôi đồng ý và sau khi uống đến ly thứ ba là đã thấy chếnh choáng. Rượu vang tuy coi vậy, nhưng độ rượu cũng mạnh ra gì.

Không biết là tại vì thấy chúng tôi mặc áo màu vàng trông hem hễ quá, hay tại nhìn thấy ông Chí Phúc và tôi đẹp trai quá, mà cô bán rượu, sau cùng không tính tiền. (Vì đi chung với ông Chí Phúc, nên bạn bè gọi tôi là Chí Phèo). Số tiền rượu không phải trả, nếu đem mua bia, thì cả bọn uống cả tuần không hết.

Một hôm ủi đất kế bên mương nước, tôi bị giật mình vì con vịt trời vụt bay lên, khi nhìn trong đám cỏ có ổ trứng 12 cái. Tôi cũng chẳng muốn lấy trứng làm gì, nhưng nếu không dẹp ổ vịt qua một bên thì không có chỗ mà làm. Hai con vịt cứ bơi qua, lội lại trên mương nước nên chúng tôi bảo nhau:

- Nếu không sợ bị phạt 500 đô, tụi mình vơ hai con vịt này về thì tối nay có tiết canh.

Ngồi nhìn hai con vịt, tôi lại nhớ tới ngày còn nhỏ (tôi có cái tật hay nhớ như vậy), ngồi làm vịt ở cầu ao, lúc làm bộ lòng, vì tính hay lơ đãng nên đàn cá lòng tong bu lại rỉa gần hết tôi mới nhớ ra, tức nổi xung lên, tôi cằm con dao phay chặt đại xuống mặt nước mấy phát, cả chục con cá đứt đôi nổi phều lên mặt nước. Cho đáng đời, ai biểu mày rỉa!

Hồi còn ở Orange County, có những cuối tuần tôi không biết đi đâu, làm gì cho qua ngày, nhưng những cuối tuần ở San Jose lại qua mau quá. Có lần, tôi được rủ đi đào ốc vòi voi ngoài cồn cát ở vùng vịnh San Francisco.

Sáng thứ bảy, đoàn xe ba bốn chiếc nối đuôi nhau chạy lên hướng bắc. Tôi đi chiếc Ford F150 có kéo theo chiếc canô. Từ San Jose đến San Francisco cũng hơn một tiếng đồng hồ. Xe rời freeway để theo đường nhỏ ngoằn ngoèo qua những nông trại nuôi trừu. Những trảng cỏ non bên sườn núi xanh như ruộng mạ, có vài ba con nai đứng ngơ ngác hiền lành.

Đến bờ biển, những người trong bọn chúng tôi chưa có license câu cá thì phải mua, tốn hơn mười đồng cho hai ngày. Khi cho tàu xuống bến rồi, chúng tôi phải chia ra làm ba toán để ra đảo cát mới đủ chỗ, vì tàu nhỏ.

Chiếc tàu chạy nhanh quá, nó phóng như bay trên mặt nước, chỉ 15 phút đã ra đến nơi. Anh trưởng đoàn giải thích:

- Ốc vòi voi, còn gọi là hến, là sò. Tiếng Mỹ gọi là Horse neck clam, mỗi con nặng hơn hai pound, có vòi lớn bằng nửa cổ tay và dài gần một gang. Nó nằm sâu dưới cát khoảng gần một thước Tây, cứ chỗ nào có cái lỗ cỡ bằng ngón tay, phọt nước ra, thì chắc chắn dưới đó có con hến... (Có tiếng cười khúc khích). Mỗi người được bắt mười con một ngày, nhưng chúng ta mà bắt được năm con là đã khá lắm rồi, vì mỗi con ngoài chợ bán cũng gần hai mươi đô la.

Chúng tôi tản ra theo bốn toán, mỗi toán có một cái ống nhựa cứng, đường kính khoảng hai gang tay, và dài gần một thước, có hai dây quai để dễ kéo lên, trang bị thêm hai chiếc xẻng cán dài và mấy chiếc thùng đựng.

Mỗi lần có bước chân động trên mặt cát, là những vòi nước lại phụt lên, lỗ hến đầy dẫy không thể đếm xuể.

Cồn cát này chìm dưới mặt nước cả năm, chỉ trong mấy tháng hè mới lộ ra vào những ngày con nước nhỏ, mà cũng chỉ trong mấy giờ mà thôi. Lúc nước triều lên, có nhiều người vì mải mê với sò, với hến, vô bờ không kịp nên xuýt chết vì nước. (Nhưng không được gọi là hy sinh vì tổ quốc).

Đào sò là cả một nghệ thuật: Nhắm ngay cái lỗ, đào chừng vài ba xẻng cát, để cái ống vào rồi nhảy lên trên miệng ống mà nhún nhảy, để cho ống cắm sâu xuống cát. Tại sao lại phải dùng ống như vậy? Bởi vì nước với cát sẽ tràn lấp ngay sau khi ta nhấc xẻng lên, có cố gắng lắm cũng không thể đào sâu đến nửa thước. Vì có ống, nên khi móc cát phía bên trong ống, chúng ta chỉ cần ít phút là đã có thể sờ thấy vòi con hến rồi. Người không kinh nghiệm sẽ nắm lấy cái vòi mà kéo, nó thường đứt luôn, để lại nguyên con sò, mà con này rồi cũng sẽ chết vì cái vòi là bộ phận nó dùng để hút đồ ăn là phiêu sinh vật trong nước biển. Người đào cát phải biết khi nào nương tay, kẻo xẻng sẽ xén đứt luôn cái vòi voi của con sò, mà vòi này là chỗ ngon nhất.

Người đào đương nhiên mệt lắm, nhưng người "mò sò" còn mệt hơn, phải nằm dài xuống mặt cát, tay thọc sâu để rờ rẫm xem cái vòi nằm nơi đâu. Khi bàn tay đã nắm được cái vòi, ngón tay trỏ phải nong cát chung quanh vỏ sò ra cho rộng, rồi vừa kéo, vừa lắc mà rút ra. Có nhiều khi con sò ở sâu quá, người mò sò chui cả đầu vào ống, chỉ còn hai chân loi choi trên mặt cát, nên không có thế để lên, phải la toáng lên thì đồng bạn mới biết mà kéo ra khỏi ống. Lúc anh mò sò thoát ra khỏi miệng ống, mặt mũi lấm lem, tay nắm chặt con sò, thế mà trên môi lại còn nở nụ cười tình. Mặt tươi rói như ông Đại sứ.

Có anh bạn trong bọn chúng tôi, đi tìm những chỗ có hai lỗ ở bên nhau mà đào, thành thử anh ta cứ bắt được mỗi lần một đôi tình nhân sò hến.

Mới xế trưa, mà gió biển thổi mạnh quá, những người ướt quần áo thì bắt đầu run vì lạnh. Chúng tôi đành ra về vì có lẽ mỗi người đã được cả chục con.

Tôi đã từng nhìn thấy con hến vòi voi nhiều lần được bày bán trong siêu thị, nhưng nhìn nó tôi hơi nhờn nhợn nên chưa ăn thử bao giờ.

Buổi tối hôm ấy, là lần đầu tiên tôi ăn, mà laị ăn sống theo kiểu Sushi, tôi mới thấy vị ngon ngọt của nó. Hèn chi người Tàu, người Nhật đi đào đông quá. Nhưng họ được ít lắm, mỗi lần bắt được một con, cả bọn hò reo như đào được mỏ vàng. Còn bọn chúng tôi, nếu thả sức cho đào, có lẽ mỗi người sẽ được vài ba chục con, vì chúng tôi là chuyên viên đào mương, đào lỗ ngoài freeway của công ty Amland. Một công ty do người VN làm chủ lớn nhất (nói theo kiểu quảng cáo của những cơ sở thương mại VN), không những riêng ở Cali, mà còn trên toàn cõi Hoa Kỳ. Mà vì là công ty độc nhất, nên không có ai đứng hạng nhì. Sorry!

1113

Còn Lạ Gì Nó



Một chị hớt hải chạy đến trạm cảnh sát báo cáo về việc mất trộm.  Anh cảnh sát hỏi:


- Chị mất vàng và tiền phải không?


- Ðúng vậy!


- Chị để đâu mà mất, trong tủ hay trong va ly quần áo.


- Tôi để trong người, chỗ này này.  Chị vừa nói vừa vạch áo mình ra để hở chiếc áo coóc-xê với những đường chỉ khâu rất vụng làm chỗ giấu tiền của.


- Thế nó lấy lúc chị đang ngủ?


- Không ngủ!  Tôi thức đấy chứ.  Nó ôm lấy tôi, âu yếm tôi, đè tôi ra giường, lần tay vào chỗ tôi giấu tiền.  Tôi cứ tưởng bở là...  Ai ngờ nó móc tiền rồi đi thẳng.


- Chị có nhìn rõ mắt nó không?


- Còn lạ gì nó nữa!  Thằng chồng khốn nạn của tôi thì sao lại không biết!

296

Jun 6, 2008

Lại phạt



Một anh chàng được bạn bè rủ đi nhậu, nhưng anh ta đến hơi muộn. Khi vừa bước vào, tất cả bàn

nhậu đồng thanh hô lên:

- Ðến muộn ! Phạt! Phạt!.

Thế là anh ta uống một cốc rượu phạt, rồi lại bị "phạt" tiếp, cốc thứ ba, thứ tư liên tục được rót ra ...

Tan tiệc, trên đường về nhà, anh ta dừng xe ở quá đèn đỏ. Thế là bị cảnh sát giao thông chặn lại:

- Anh bị phạt.

Anh ta thở dài:

- Lại phạt à? Thôi thì chơi tới bến, rót đi!974

Jun 5, 2008

Chuyện các chú cẩu



- Thưa bà, chó của bà có để ai tới gần không ạ?

- Tất nhiên! Nếu không, làm sao nó cắn được!



***


Một người la con chó của mình trong lúc đi dạo:

- Sao mày cứ sán vào những con chó cái ngoài đường thế?! Thiên hạ sẽ nghĩ về chúng ta như thế nào?!

- Thiên hạ ư? Điều đó không quan trọng, cái chính là những con chó cái không nghĩ gì cả - Con chó của ông ta trả lời.



***


- Con chó Amor của tôi rất khôn!

- Con chó nhà tôi cũng thế... Nó tên là Bison, ngày nào Bison cũng đi mua báo về cho tôi.

- Tôi biết! Amor đã kể với tôi điều ấy lâu rồi.
2688

Chuyện các chú cẩu



- Thưa bà, chó của bà có để ai tới gần không ạ?

- Tất nhiên! Nếu không, làm sao nó cắn được!



***


Một người la con chó của mình trong lúc đi dạo:

- Sao mày cứ sán vào những con chó cái ngoài đường thế?! Thiên hạ sẽ nghĩ về chúng ta như thế nào?!

- Thiên hạ ư? Điều đó không quan trọng, cái chính là những con chó cái không nghĩ gì cả - Con chó của ông ta trả lời.



***


- Con chó Amor của tôi rất khôn!

- Con chó nhà tôi cũng thế... Nó tên là Bison, ngày nào Bison cũng đi mua báo về cho tôi.

- Tôi biết! Amor đã kể với tôi điều ấy lâu rồi.
2688

3 con quỷ hút máu



Ngày xửa ngày xưa, 3 con quỷ hút máu gặp nhau vào một buổi đêm và cùng khoe khoang về thành tích hút máu của mình.

Con thứ nhất vỗ ngực:

- Hãy nhìn cái toà nhà kia. Tao có thể xử lý toàn bộ dân cư ở đó trong 10 phút.

Dứt lời, hắn bay tới ngôi nhà, 9 phút sau trở lại với cái mồm dính đầy máu với vẻ mặt thoả mãn.

Con thứ hai lên tiếng:

- Hãy nhìn ngôi làng kia. Tao chỉ cần 5 phút.

Nói rồi hắn bay đến ngôi làng, trở lại sau 5 phút, máu chảy ròng trên miệng.

Con thứ ba hét lên:

- Hãy xem thị trấn kia kìa. Chỉ 3 phút là xong.

Hắn bay thẳng đến thị trấn, 1 phút sau quay trở lại với chiếc mồm be bét máu.

Hai tên kia trố mắt ngạc nhiên hỏi:

- Làm sao mà mày có thể nhanh như vậy?

Con thứ ba chỉ về hướng đó và hỏi:

- Mày có nhìn thấy toà nhà kia không?

- Có - 2 tên cùng trả lời.

- Tao thì không.2021

Hồn Ma Báo Oán



Có lẽ những người ít bị gây ấn tượng nhất đôi lúc cũng cảm thấy những hiện tượng không nhìn thấy, đặc biệt là tại một thời điểm xác định, dường như có thế lực vô hình nào đấy tồn tại chung quanh.

Phải người chết vĩnh viễn rời xa chúng ta, hay họ vẫn ám ảnh cuộc sống chúng ta? Lý giải điều này là không tưởng, nhưng hồn ma người chết có thể lởn vởn quanh ta, và còn hiện hình làm cho chúng ta cảm tưởng như bị bắt quả tang. Họ xuất hiện với mục đích rõ ràng, để phù hộ hoặc đe doạta.

Vợ của Arthur Noakes là Edith, người hay ghen một cách ảo giác. Do chồng cô rất yếu đuối trước phụ nữ nên nàng thường ghen và phải chịu nhiều cay đắng, nhục nhã với những cơn đau tim khi còn sống.

Trước lúc lâm chung nàng thề độc rằng nếu Arthur cứ tiếp tục tán tỉnh phụ nữ và quan hệ chăn gối với họ, nàng sẽ trở về ám ảnh để ông không còn dám nhìn mặt bất cứ một phụ nữ nào. Những gì chưa thực hiện được khi sống cô hy vọng sẽ làm được từ cõi âm.

Arthur Noakes không quan tâm tới lời đe doạ của người vợ quá cố, ông nhanh chóng tìm kiếm một người đàn bà hấp dẫn. Arthur nghĩ rằng lúc này ông đã là người tự do và có thể hưởng thụ cuộc sống tự do đó đến khi cạn sinh lực. Có lẽ ông sẽ cưới vợ lần nữa. Vợ thì có ích, nhưng không kém những giờ phút buồn chán.

Là chủ cửa hàng vải và đồ tạp hoá duy nhất ở thị trấn nhỏ Sussex, Arthur có điều kiện lựa chọn rộng rãi trong số phụ nữ khách hàng, thế nhưng hầu hết người đẹp đều dửng dưng đối với đàn ông. Là người goá vợ nhưng đẹp mã, ông hy vọng sẽ có ngày thành công.

Chẳng bao lâu sau, con mắt thèm khát của ông chạm vào một quả phụ trẻ thường xuyên đến cửa hàng đăng ten và dải lụa, tuy sống cảnh sống goá bụa song nàng không làm mất nét đẹp tự nhiên và niềm tin yêu cuộc sống. Thế nhưng, khi Arthur tìm cách tán tỉnh thì nàng hơi lưỡng lự, nhưng đôi mắt xanh tuyệt đẹp lại cho thấy lời thúc giục chào mời.

"Ông Noakes, việc ông kiếm người đàn bà khác trong khi người vợ tội nghiệp của ông mồ chưa xanh cỏ, ông thấy có vội vã quá không?"

Arthur rùng mình lưỡng lự, nhưng sự nòng lòng chiếm hữu người đẹp đoan trang giả tạo này nhanh chóng xâm chiếm lòng ông. Arthur cũng nhận ra Mabel, nàng vốn xuất thân từ một gia đình nghèo túng điển hình, đơn giản là nàng đang đắn đo trước danh tiết của mình.

"Thưa cô yêu quý, tôi cảm thấy đã yêu cô từ lâu lắm rồi. Tình cảm của tôi lớn đến nổi tôi phải bộc phát, nghĩa là phải nói cho cô biết được. Nếu cô ngại dạo phố bên cạnh tôi - thật ra tôi đánh giá cao sự dè dặt đó - nhưng sao chúng ta không thể hẹn gặp nhau ở một nơi nào đó ngoài thị trấn để không ai nhìn thấy?"

Lúc này Mabel đang ngắm vẻ tao nhã của mình, đôi giày bấm khuy, chân phải đung đưa làm đỏm. Hy vọng càng tăng khiến ông càng sốt ruột khi dán chặt vào hai cổ chân mảnh mai, vào sự run rẩy của đôi gò má và sự bẽn lẽn trong nụ cười của người đàn bà goá.

Nàng ngước mắt nhìn ông. "Thế chúng ta có thể gặp nhau ở đâu để không bị phát hiện?" Nàng giả vờ xấu hổ khi hỏi ông câu ấy.

Arthur đã biết một nơi mà trước đây ông đã từng đến. Sống giữa cộng đồng dân cư ít ỏi này, sự bí mật đôi khi thật hữu ích để việc riêng thành công. Ông kể với Mabel về địa điểm ấy bằng giọng nói mơ màng và nàng đồng ý gặp ông tối hôm sau.

Nơi đấy quả là địa điểm thơ mộng, lý tưởng cho những đôi tình nhân, bên cạnh một chiếc cầu bắt ngang con suối chảy yên bình. Arthur đến trước và người tình mới không để ông phải đợi lâu. Niềm vui của ông được trọn vẹn ngay khi ông nhìn thấy cô gái qua cầu. Trước nay không mấy ai đi bộ qua đây, ngay cả vào những đêm hè mát mẻ này. Họ gặp nhau nhiều lần, hôn nhau, làm tình và không ngại bị quấy rầy.

Tối nọ Mabel đến muộn. Arthur sốt ruột, liên tục nhìn cây cầu chập chờn ánh đèn pha ô tô. Chuyện gì xảy ra nhỉ? Chẳng lẽ nàng cố tình bắt ông chờ để ông hăng hái hơn, hay nàng không đến được tối nay? Vừa lúc ông định đi về thì thấy bóng Mabel vội vã băng qua cầu.

Chợt nghĩ hay là cho cô ta một bài học, Arthur nấp sau gốc cây chờ đến tận khi cô tới nơi hẹn quen thuộc, ông nhẹ nhàng lại gần và đột ngột ôm gọn eo lưng thon thả của người yêu.

Arthur chợt rùng mình. Dường như Mabel tan ra hư ảo, đúng lúc đó cô quay mặt về phía ông. Kinh khủng qua - Arthur không tài nào hình dung được. Thay vì gương mặt tươi cười xinh đẹp, đôi mắt nhí nhảnh, đôi má hồng của Mabel, ông lại thấy gương mặt đã chết của vợ ông - trắng bệt như phấn, đôi mắt đờ đẫn đầy tử khí đang đe doạ ông khiến ông vô cùng sợ hãi. Arthur nhảy bật về phía sau, thét lên khiếp đảm.

Bóng ma chỉ một ngón tay cảnh cáo về phía ông rồi biến mất ngay trước mắt ông. Arthur bỗng nhớ lại lời nguyền trước phút lâm chung của vợ và ông vội vã bỏ chạy khỏi chỗ hẹn bằng đôi chân run rẩy.

Lên đến chân cầu, chạy được quãng ngắn, ông thấy Mabel đang đi về phía mình. Nhưng đó có phải cô gái goá trẻ đẹp hay hồn ma kinh dị giả dạng Mabel? Ông đợi trong nỗi sợ hãi, run lẩy bẩy, thở hổn hển sau cơn vận động quá sức vừa qua. Trong đời chưa bao giờ Arthur chạy nhanh như thế, và giữa bóng tối nhập nhoà ông không dám chắc thật giả cho đến khi cô gái đến gần.

"Anh sốt ruột quá phải không anh yêu?" Mabel cười nhẹ nhàng, hai tay ôm choàng lấy cổ ông, hôn nồng nàn.

Arthur thở phào nhẹ cả người vì thân thể cô gái có ấm ấp và ông ngửi thấy mùi nước hoa huệ quen thuộc của Mabel. Arthur run rẩy gỡ tay cô gái ra, ông chợt nhớ đến mùi mộ người chết và ngón tay cảnh cáo của hồn ma.

"Có chuyện gì thế anh Arthur? Người anh run quá. Anh giận em đến muộn phải không? Hay cái gì đó chụp vồ anh từ sau bụi rậm?"

Arthur cố lùi người ra xa, tránh né câu hỏi bằng cách tỏ vẻ khó chịu vì sự chậm trễ của người yêu. Ông hỏi việc gì đã khiến cô đến muộn.

"Em xin lỗi, Arthur ạ. Bà mẹ nuôi tới thăm nên em không thể nào bỏ bà một mình. Nhưng có gì đâu, giờ em đang ở đây. Chúng ta đến chỗ cũ ngồi đi rồi em sẽ kể cho."

Cử chỉ của người đẹp đầy quyến rũ. Nàng âu yếm ông đến nỗi nếu là ngày thường máu trong người ông sôi lên rồi. Nhưng tối nay ông run rẩy sợ hãi vì phải trở lại nơi đã gặp hồn ma của người vợ quá cố vừa hiện về đe doạ. Arthur đề nghị tối nay họ nên đi nghe hoà nhạc. Ông thích nơi vui vẻ, giải trí và nhất là vài giọt Scotch giúp ông quên đi cơn ác mộng vừa qua.

Nhưng Mabel nhất quyết từ chối đến bất cứ nơi công cộng nào với ông và khi ông không muốn thay đổi ý kiến thì cô nói rằng ông không còn yêu c578

Jun 4, 2008

Sợ lại rửng mỡ



- Hôm giỗ đầu ông cụ nhà tớ, cụ bà phản đối quyết liệt việc đốt nhiều vàng mã...
- Chà, mẹ cậu trước đây nổi tiếng mê tín, bây giờ tiến bộ thế kia à?
- Mẹ tớ bảo: "Gửi nhiều quá, túi rủng rỉnh, bố mày lại rửng mỡ đi với gái chứ báu gì?".
2221

Jun 3, 2008

Đơn giản vì không muốn



Phái đoàn của Hội Liên hiệp Phụ nữ CCCP đi tham quan châu Phi trở về. Cơ quan KGB phát hiện một cuốn sổ nhật ký rất khả nghi của trưởng đoàn Natasa, có đoạn ghi chép như sau: Ngày... Onga bị cưỡng bức... Ngày... Olia bị ép... Ngày... đến lượt mình... ... Natasa được mời lên thẩm vấn:
- Chị hãy giải thích, tại sao phái đoàn gồm 8 người mà có tới 7 người bị xâm hại tình dục, duy nhất có Galia không sao?
- Đơn giản là vì cô ấy... không muốn.
2405

Cái Thang



Đã ba hôm trời mưa tầm tã, Trang không còn thấy thích thú vì cái giếng nước trong vườn đã gần đầy lên đến miệng nữa. Trời xám xịt và đất thì mòng mọng những nước. Cả nhà cứ nhắc mãi trận lụt năm trước: “ Nước vào trong nhà đến năm tấc và làm hư bao nhiêu là đồ đạc!”.
Tân mách chị:
Chị ạ, hai đứa em không phải đi học. Cả ngày chỉ ngồi trên giường cao xếp thuyền giấy thả chơi vui ghê! Được nghỉ học những năm ngày.
MẹTrang phàn nàn:
-Lúc nước bắt đầu rút là phải quét liền, không thì bùn đọng lại khó rửa sạch được. Năm ấy có ai ngờ là nước lại vào đến nhà. Mẹ đang ngủ đến nửa đêm thức dậy thấy guốc dép nổi lềnh bềnh trong phòng cả rồi!
Mấy hôm nay tuy chưa hẳn là lụt to nhưng chợ không họp nữa nên trong bữa cơm không có thịt cá rau tươi, chỉ có cá kho,mắm, muối sả, cá hộp kho lại. Trang bực mình vì phải là tã cho con. Mà con bé Li Li cứ lúc nào trời mưa là tã ướt gấp đôi những ngày nắng ráo, thế mới khổ mẹ nó.
Đến sáu giờ tối nước mưa xuống không chảy đi đâu được nữa. Tất cả các cống rãnh thông nước đều tràn đầy lênh láng khắp vườn. Chảy không kịp, nước đọng lại trong sân. Một lúc sau nước trong sân cũng không phải chỉ là nước mưa vì tất cả các ao hồ lân cận cũng lên cao tràn thêm vào. Nước lên dần dần từng bậc thềm, rong rêu ở các hồ nổi trên mặt nước lùa vào từng đám. Trang bắt đầu thấy lo ngại, chạy hết chỗ này đến chỗ kia khắp các thềm nhà để xem chừng mực nước. Mưa vẫn tầm tã không ngớt, trời ảm đạm mờ mịt không cho ai một tia hy vọng gì.
Lúc trời tối hẳn Trang bắt đầu dọn đồ đạc lên nhà trên ngủ vì phòng của nàng thấp nhất nên nước vào trước.
Mẹ Trang bảo:
-Làm gì mà cuống cuồng lên thế? Thì cũng như năm trước, hay quá lắm là gấp đôi chứ gì, đã chết ai!
MẹTrang có vẻ bình tĩnh lắm, bà dục mọi người đi ngủ, bà cũng ôm bé Thu, con của em gái Trang, mới chập chững biết đi, ru hời ru hỡi như mọi đêm.
Trang đang ngủ bỗng giật mình thức dậy lúc 12 giờ khuya, nàng tưởng như mình đang ngủ đò, chung quanh giường nước mênh mông và sóng vỗ chợp chờn. Trong tiếng mưa đổ rào rào dữ dội xuống mái ngói, từ xa vẳng lại những tiếng kêu cứu, kêu đò, tiếng gọi nhau đủ các thứ tiếng không phân biệt được. Trang chỉ biết tất cả các thanh âm ấy hòa lẫn thành một tiếng kêu thảm thiết lẫn trong tiếng mõ đổ hồi liên thanh.
Trang hoảng hốt đánh thức Lạc, người ở gái, dậy cùng nàng khênh một chiếc chõng tre đặt lên giường, bế hai con nằm xuống. Xong nàng đến phòng bên cạnh gọi em Tân và Tấn. Hai đứa bé nằm cong queo ngủ ngon lành, không biết tấm phản chúng đang nằm sắp sửa nổi lên mặt nước.
Mẹ Trang cũng đã thức dậy, bà xếp dọn một ít đồ đạc và rất bình tĩnh:
-Không sao đâu con ạ, nhà mình ở cao nhất xóm. Nếu vùng này mà ngập thì quanh đây còn ai sống nữa!
Đồ đạc trong tủ bà chỉ dọn từng dưới lên từng trên.
Ở nhà giữa, anh Bê, người con nuôi ở với gia đình Trang từ bé đang cẩn thận xếp dọn những chồng sách của ba Trang lên mặt bàn: Ba Trang chỉ huy việc dọn dẹp:
-Sách từng thấp trong tủ lớn tạm cho lên trên bàn. Đồ đạc trong tủ đổi lên từng cao nhất. Sách tủ thấp phải dọn lên tủ cao, sách mà ướt là không có giá trị gì nữa!
Cô Tư cũng đã thức dậy, cô ngồi trên giường ông, co cả hai chân lên giường, mồm ngậm điếu thuốc Cẩm Lệ to tướng. Cô không dám nhúng chân xuống nước, vì nghe người ta nói đang có chửa, lội nước bạc sẽ hư thai.
Thấy Trang lăng xăng lội lên lội xuống khắp nhà mẹ Trang gắt:
-Trời ơi, con có chịu ngồi yên một chỗ cho mẹ nhờ không? Đẻ mới dậy chưa đủ trăm ngày mà đã dám lội nước bạc. Bộ muốn chết bỏ con lại đó cho mẹ nuôi sao? Me nuôi một mình con Thu đã mệt gần ngất ngư, chỉ còn da bọc xương, con muốn giết mẹ cho mau chết nữa à!
Mực nước vẫn cao vùn vụt, trong tiếng mưa,tiếng mõ dồn dập đổ hồi, muôn ngàn tiếng kêu thảm thiết làm Trang càng bối rối hoảng hốt thêm. Nhìn cái nhà năm gian rộng mênh mông và đầy những đồ đạc quí giá đối với riêng mỗi người, Trang không biết nên bỏ thức gì, cứu thức gì. Trang cũng sợ lội nước lỡ ốm chết bỏ con, nhưng nhà còn ai nữa đâu! Một người cha già ốm liệt giường liệt chiếu, một cô hầu non chỉ biết õng ẹo làm vui lúc bình yên nhưng không thể nhờ cậy được lúc tai nạn, và giờ phút này cô chỉ sợ hư thai, không dám nhúng chân xuống nước, Bé Thu và bé Mỹ còn phải đút cơm, bé Lili mới sinh chưa được trăm ngày, hai đứa em trai 7,8 tuổi, con của dì Ba, một nàng hầu đã chết. Tất cả được đặt ngồi trên giường cao không giúp ích gì vì mực nước đã lên quá đầu chúng nó rồi. Chỉ còn anh Bê, một con sâu rượu và cũng là một cây bệnh ngày thường, nhưng lúc này anh còn cố gượng đứng vững để sắp tủ sách cho Ba vì anh biết Ba quí sách nhất sau các cô hầu non! Mẹ Trang chỉ băn khoăn về mấy cái bàn thờ và những bộ Kinh Phật, bà không biết nên dọn gì, cuối cùng bà thắp mỗi bàn thờ một nén nhang. Hai người ở gái, một đã phải ngồi trông trẻ con sợ nó trở mình ngã xuống nước, chỉ còn một lo dọn gạo củi, nước.
Trang đang giúp anh Bê khuân dọn sách, bỗng nghe cô Tư cười the thé nói:
-He âhê hê, anh Bê ơi, còn cái tủ đồ tây của cụ nữa, vô dọn mau lên!
Anh Bê bực mình gắt:
-Thế cô ngồi đấy làm gì mà không giúp xếp dọn một chút cho dãn gân cốt. Tôi có phải là Phật bà Quan Âm đâu mà có những ba mươi sáu cái tay.
Cô Tư vẫn cứ ngồi yên dưới chân giường không cử động. Chốc chốc cô lại gọi:
-Anh Bê, đem thêm vài miếng gạch vô đây chêm chân giường, nước sắp ngập cụ rồi, hê hê hê, lụt chi lạ!
Cô vẫn ngồi co chân trên giường không dám nhúng chân xuống nước. Đồ đạc riêng của cô chỉ có mấy cái vali, cô đã cẩn thận gác lên xà nhà từ ban tối. Gói thuốc lá Cẩm Lệ cô cũng đã cẩn thận bỏ trong túi, bây giờ phận sự của cô chỉ còn lo giữ cái thai.
Mẹ Trang đang dọn đồ đạc trên nhà thờ Phật cũng chốc chốc gọi với:
-Con ơi, bàn thờ Phật sắp đổ!
-Bê ơi, tủ áo gấm của cụ …...
-Bê ơi . . .
Ba Trang nằm yên mãi cũng sốt ruột lên tiếng:
-Bê ơi, sách quí mà bị ướt rồi là không còn giá trị gì nữa!
-Chị ơi, em đói khóc đây này!
-Chị ơi, giường em sắp ngập đến nơi!
-Chị ơi . . Bê ơi . . .
Anh Bê và Trang hết chạy lên lại chạy xuống, hết chạy xuống lại chạy lên, người đã mệt mỏi nghe thế càng bối rối thêm. Riêng Trang nghe tiếng con
khóc như xé ruột. Nàng tìm được một cái bàn cao, khênh lên phản và bế bọn trẻ con đặt nằm ngồi ngỗn ngang. Phản có ba tấm ván, hai tấm trong vàø ngoài có chân bàn đè nặng nên đứng yên, còn tấm giữa không có gì chận, nổi lên mặt nước rồi bắt đầu từ từ đi du lịch khắp phòng.
Mực nước bây giờ lên vùn vụt chứ không còn lên chậm rãi như trước nữa. Trang thấy nước mắt mình đọng đầy trên mi, nàng nghẹn ngào chỉ muốn khóc oà lên . . .
-Anh Bê khiêng hộ cái va li với tôi một tay.
Rồi nàng phàn nàn một mình:
-Ai mất hết đồ đạc cũng còn lại cái xác nhà, còn tôi tất cả “ giang sơn” chỉ ở trong vali này, trôi hết thì mẹ con chẳng còn một manh!
Bỗng tiếng cô Tư thét lên:
-Trời ơi, giường cụ hỏng chân rồi!
Cả nhà nghe thế hoảng hốt vội nhấc một chiếc bàn
cao đặt ba Trang lên, và cùng phụ lực khênh chiếc bàn lên giường. Cái chân sưng của ông bị động làm ông đau đớn khổ sở lịm đi.
Mẹ Trang đứng hẳn lên lò sưởi để chuyền sách lên nóc tủ với anh Bê. Mấy tấm ván đầy sách giữa nhà bị nước đội hỏng chân, cả tấm ván nổi lềnh bềnh trên mặt nước xê dịch một lúc rồi chìm dần xuống đáy. Nước bây giờ càng lên càng nhanh, đi từ đầu phòng đến cuối phòng, lúc trở lại mực nước đã khác hẳn.
Anh Bê vò đầu bứt tai:
-Thôi hỏng rồi, mở cửa ra sân kêu cứu đi thôi!
Nhưng dù kêu cứu cũng vô ích. Ai cũng biết giờ phút này tất cả mợi người đều lo lấy thân mình chưa xong, mong gì ai cứu được ai! Giá cả gia đình Trang có tận lực kêu gào thì cũng chỉ góp thêm vài tiếng kêu thê thảm lẫn vào muôn ngàn tiếng kêu cứu khác vẳng lại từ bốn phía.
Trời tối đen, mưa vẫn tầm tã, điện bỗng nhiên tắt làm cho mọi người lại càng khủng khiếp thêm trong lúc nguy hiểm. Cõi sống và cõi chết bỗng giáp nhau gần đến nỗi người ta cảm thấy không còn biên giới nữa!
Thấy con mèo mướp lội vùn vụt dưới nước kêu gào một cách rùng rợn, Trang bắt để nó lên bàn. Trang tưởng nó tìm chỗ lánh nạn, nhưng nó không chịu ngồi yên. Nó vùng vẫy cào vào tay Trang rồi lại nhảy xuống nước lội xuôi lội ngược kêu gào như phát điên, thì ra nó đi tìm đàn con. Trang rất ngạc nhiên vì con mèo của nàng xưa nay vẫn có tiếng sợ nước, thì ra tình yêu con đã làm cho dù một con vật, cũng có những hành động suốt đời chưa từng biết.
Ba giờ sáng, rồi bốn giờ sáng, nước đã lên đến cổ. Mỗi một giây phút trôi qua người ta đều hy vọng đó là cái giây phút nước đứng rồi rút lui. Nhưng không thể được, mực nước không thể nào ngừng trong khi trời cứ mưa tầm tã như thế này. Có lúc Trang đã tưởng là nước như không bao giờ có thể đứng lại được, và tất cả mọi người chỉ còn cầu nguyện trước giờ chết mà thôi.
Mẹ Trang đang sắp mấy cuốn Kinh Phật trên bàn bỗng kêu thét lên. Cái bàn thờ Phật của bà đổ nhào xuống nước mà không cần hỏi ý kiến ai cả! Tượng Phật và kinh kệ nổi lềnh bềnh. Bà cố chạy theo vớt lại.
Trong lúc hoang mang đến cùng cực gần như tuyệt vọng, Trang bỗng chợt nhìn lên nóc nhà. Cái lỗ vuông nhỏ cỡ vừa một người chui lọt trên trần nhà để người thợ điện trèo lên xem xét giây điện, lúc này làm Trang nảy ra một ý nghĩ:
-Cái thang, phải đi tìm cái thang nhanh lên!
Gia đình ông bà Túy hàng xóm đập cửa ở nhà ngang bồng bế nhau lếch thếch lội sang vì nhà ông thấp hơn nên nước đã lên quá đầu. Trong lúc họ xem nhà Trang là nơi cứu mệnh thì gia đình Trang cũng xem ông Túy như cứu tinh. Ông để thằng con trai bé và bà vợ chửa gần ngày ngồi yên trên một chiếc bàn cao ngất ngưởng xong cùng Trang bàn cách leo lên trần nhà. Bây giờ ông Túy là người khỏe mạnh độc nhất mà tất cả mọi người đặt hy vọng vào.
Ông Túy trèo lên trần nhà nghiên cứu trước xem những tấm ván trần mỏng manh xưa nay chỉ dùng để làm đẹp cho cái nhà có đủ sức chịu đựng không. Ông gật đầu ra hiệu và Trang bắt chước ông một chân đạp lên cánh cửa lớn, hai tay nàng giơ lên bám được trần nhà. Mọi người không ai dám bắt chước. Tân và Tấn đứng trên bàn chuyền lên cho nàng một ít chăn chiếu khô để sửa soạn chỗ nằm cho ba. Ông Túy trở xuống mở cửa lội ra sân đi tìm cái thang. Cái thang nằm nổi trên mặt nước tận ngoài góc vườn nhưng may chưa trôi mất. Cái thang đã cũ vẫn thường dựng cạnh gốc cây trầu không một ai để ý, bây giờ được mọi người thiết tha cầu khẩn đến.
Một lúc sau ông Túy đem được thang vào nhà, mọi người trở dài như trút gáng nặng. Tìm được cái thang thì con đường sống chưa mất. Ôâng Túy cẩn thận đặt cái thang cạnh tường, ông đứng dưới bế từng đứa bé chuyền lên, Trang đỡ lấy đặt xuống ván. Năm đứa trẻ đã lên hết nhưng mẹ Trang không chịu lên, cô Tư vẫn ngồi co chân không chịu cử động, còn ba Trang thì cố nhiên không thể nào ngồi dậy được.
Ông Túy trèo lên trần nhà cáu kỉnh bảo Trang:
-Chị làm thế nào thì làm, tôi đã năn nỉ hết sức mà ông cụ không chịu lên, bảo chân đau không nhúc nhích được. Cả cái cô kia cũng vậy, không chịu “ dời gót ngọc”. Bộ muốn “ bất cầu đồng sanh, cầu đồng tử” chắc! Còn bà cụ thì ông cụ không lên nên bà cũng không chịu lên. Nước đã ngập lên đến cổ thế này mà mỗi người còn ôm một cục chướng như thế thì chỉ có ngồi mà đợi chết!
Tiếng mẹ Trang than thở:
-Suốt đời tôi cặm cụi khổ sở mấy chục năm trời mới gây dựng được cái cơ nghiệp này! Thực trời hại tôi! Trời muốn làm hại tôi hay sao hở trời!
Trời đâu có đây để trả lời bà, chỉ thấy tiếng Trang năn nỉ.
Trong lúc khổ tâm bà đâm ra mất hẳn lý trí, bà gắt:
-Tao không đi đâu cả! Gia tài sự nghiệp mất thì tao cũng chết! Tao chết theo với Phật, Thánh, kinh kệ, bàn thờ ông bà . . .
Bà đang nói bỗng thét lên, chiếc bàn bà đang ngồi bây giờ chỉ còn một mình nhẹ quá hỏng chân bập bềnh nổi lên mặt nước. Bà nhanh tay nắm được cánh cửa tủ nên khỏi ngã. Ông Túy vội vàng xuống đỡ lên thang. Người bà ốm nhỏ nên Trang nắm được cánh tay kéo qua cái lỗ vuông dễ dàng. Bà đã lạnh cóng cả người, nằm vật xuống sàn không còn biết ai là ai chung quanh.
Lúc này không còn thì giờ để chiều chuộng hay “trưng cầu dân ý” nữa, Trong lúc nguy hiểm cần phải có sự chỉ huy cương quyết rõ ràng, mặc dầu ba Trang không chịu đi, Trang vẫn nhất định bắt ông Túy và anh Bê khênh ông đi. Ban đầu ông còn chống cự, nhưng mỗi cử động đều làm ông đau đớn, kết quả ông đành nằm yên cho ai làm gì thì làm. Ông Túy và anh Bê đỡ ông lên tấm ván và khênh đi chậm rãi dò dẫm từng bước một.
Trang ở trên nhìn xuống cảm thấy từng tiếng tim mình đập, chỉ sợ một trong hai người đuối sức sẩy tay hay hụt chân thì chỉ có Trời cứu. Nước đã lên đến cằm. Anh Bê nguời thấp nhỏ phải đi nhón gót chân, mệt mỏi và lạnh cóng cả người, anh mím môi cắn răng cố đi từng bước cho thật vững chắc. Đang đi bỗng nhiên anh dừng lại ấm ớ kêu:
-Tôi uống nước. Chết tôi rồi!. Trời ơi! ... Ai cứu .. .cụ với!
Anh cố gượng thêm vài bước may đã đến được chân thang. Phải khó nhọc vất vả vô cùng mới xê dịch được ba Trang từ tấm ván lên vai ông Túy. Ôâng cõng ba Trang và bước lần lần từng bước lên thang. Cái thang cũ kỹ rít lên và kêu trèo trẹo dưới sức nặng của hai người cùng trĩu lên một lúc. Ở trên nhìn xuống, Trang nghe như tim mình ngừng đập, nàng nín thở tưởng chừng thêm một hơi thở của mình cũng thêm sức nặng và cái thang sẽ chịu không nổi mà gẫy mất. Vận mệnh của cha nàng nằm trong chiếc thang tàn tật ấy, thực trong suốt một đời người không ai ngờ đến. Còn được vài nấc, bà Túy và Trang ở trên nắm được cánh tay ông, hai người cùng gồng người gắng hết sức lực kéo lên. Đồng thời bên dưới ông Túy cũng xuất toàn lực, phùng mang trợn mắt ,vừa đun vừa đẫy . . .
Ba Trang lên đến được trần nhà, nỗi đau đớn xác thịt hành hạ ông đến cái trình độ tê tái không còn cảm giác. Ông như người mất hồn, mặt mày tái mét nằm vật xuống tấm ván Trang đã sắp sẵn.
Ông Túy xoa tay cười nói có vẻ thỏa mãn:
-Thực là kỳ tích, kỳ tích! Một bà chửa, ngày thường đi chợ “ khênh” một bó rau muống bằng nắm tay cũng kêu nặng, kêu mệt “ khênh “ không nổi, và một cô “ suyễn gia truyền” trói không chặc con gà, thế mà hôm nay “ khênh” à quên xách nổi ông cụ một tạ lên thang gác! Hì hì hì, mình vai u thịt bắp như thế này mà cõng cũng nặng oải ba sườn gần trẹo cả cổ!
Châu và Lac, hai người ở gái cũng đã có chỗ ngồi yên. Trang đợi kéo nốt cô Tư nhưng đợi mãi vẫn không thấy. Anh Bê đứng run rẫy thở lấy sức dưới chân thang, còn ông Túy nghe mẹ Trang bảo có một chai rượu ngâm thuốc bổ trong tủ, ông quyết trở xuống lặn tìm cho bằng được.
-Hu hu hu, Có ai cứu tôi với! Trời ơi, Có ai cứu tôi với!
Ba Trang lúc này đã tỉnh táo hơn, nghe cô Tư kêu cứu có vẻ thương xót lắm. Anh Bê đứng bên dưới cáu kỉnh:
-Cô ấy từ tối đến giờ hi hi mãi chán nên bây giờ đổi ra hu hu! Cô cao hơn tôi những một cái đầu, có chân thì tự đi cũng được, tàn tật già yếu bé bỏng gì mà phải đợi ai khênh. Mà giá có uống vài ngụm nước cũng không chết đâu!
Ba Trang thều thào cất giọng năn nỉ:
Ông Túy ơi, bây giờ chỉ có một mình ông, trăm sự đều nhờ ông cả. Ông làm phúc làm đức đưa dì ấy lên kẻo tội nghiệp, bụng mang dạ chửa!
Anh Bê lẩm bẩm:
-Người ta chửa gần đẻ đến nơi còn phải lội suốt đêm cũng chẳng sao, đằng này chỉ mới có vài tháng.
Ba Trang vẫn ngọt ngào:
-ÔngTúy, trăm sự nhờ ông, tính mệnh dì nó ở trong tay ông, suốt đời chúng tôi sẽ không quên ơn ông . . .
Bà Túy dẫy nẩy lên:
-Mau mau lên đi anh Túy ơi! Thôi đừng tìm rượu nữa! Ngâm nước từ đêm đến giờ, không khéo lạnh mà chết đấy! Ba vạn cũng bỏ!
Ba Trang vẫn năn nỉ:
-Chỉ còn có ông, ông làm ơn . . .
Ông Túy dù vợ không bằng lòng, anh Bê dù mệt mỏi đến đâu, kết quả cũng phải đi khênh cô Tư. Lên được đến nơi giọng cô không còn rên rỉ nữa! Cô cất tiếng cười the thé:
-Hê hê hê, tui không hề ướt lấy một cái vảy. Gói thuốc Cẩm Lệ cũng còn khô ran! Có thời chi lạ!
Trang lấy mấy chiếc áo len đã cứu được chia cho mọi người. Anh Bê ngồi run rẩy trong bộ quần áo ướt sũng những nước, hai hàm răng anh đánh vào nhau cầm cập, mặt anh tái ngắt và người cứng đờ ra. Anh thay được áo xong nằm vật xuống ván mê đi.
Cô Tư trông thấy thế lại cười rú lên:
-Hê hê hê, mình đi cũng được nhưng ai dại chi mà đi. Lỡ ướt lạnh chết thiệt thân mình chớ thân ai! Ba vạn cũng bỏ, gói thuốc Cẩm Lệ vẫn còn la øđược!
Bất giác Trang rùng mình. Trong cảnh nguy hiểm,đầy những tiếng kêu cứu thảm thiết, tiếng mõ dồn dập lẫn trong tiếng mưa đổ rào rào xuống mái ngói, tiếng cười của cô nghe lanh lảnh đến rợn người!
Suốt từ đêm, Trang phải làm việc và dùng nhiều sức nên lúc này cả người đau đớn mệt mỏi như bị dần từng đốt xương. Nàng tìm một góc và nằm lăn xuống ván. Tuy nằm nhưng Trang vẫn nghe rõ tiếng cha rên rỉ, tiếng cười hê hê từng hồi của cô Tư và những lời phàn nàn của mẹ:
-Thực là trời hại tôi! Thôi còn chi nữa! Kinh kệ mất hết, Phật tượng bể hết, áo quần trôi hết rồi còn chi! Trời, cả cơ đồ sự nghiệp của tôi! Già hơn sáu chục tuổi đầu rồi mà còn phải trông thấy cái cảnh như thế này! Thảm! Bộ kinh Pháp Hoa của tôi mới thỉnh, bây giờ có bạc vạn cũng không tìm đâu ra! …..
Bà chưa nói dứt lời bỗng cô Tư quát lên hỏi con Châu:
-Châu, sao mày không lo cất mấy cái trứng gà để dành cho cụ xơi hở. Bây giờ cụ đói, mới làm sao?
Con Châu cười lạnh lùng:
-Thế sao cô không lo? Cô ngồi đấy làm gì? Tôi làm bao nhiêu là công việc, nào gạo cơm than củi, khiêng vác từ đêm đến giờ! Bộ tôi ở không đấy hẳn!
-Ai biểu mi ngu! Mi lo khiêng vác không biết mấy thứ đồ đạc mà rốt cuộc đồ đạc đều bị ướt, mi cũng bị ướt như chuột lột. Còn tau không lo chi cả mà đồ đạc của tau vẫn không ướt, người tau cũng khô ran! Hê hê hê!
-Phải, người ta thì “ Lấy chồng phải gánh giang sơn nhà chồng” còn cô thì “Sống chết mặc bây, tiền thầy bỏ túi”!
Ba Trang rên rỉ:
-Thôi bỏ đi, bỏ đi, chuyện nhỏ mọn! .
Ông không muốn ai nói động đến cô Tư, nhất là động đến cái sự vô dụng của của cô trong cơn hoạn nạn của gia đình.
Không biết con Châu đã lấy can đảm ở đâu ra, để cãi nhau tay đôi với cô Tư, chính nó cũng không tự biết. Có lẽ trong lúc tai nạn, nó đã làm tròn phận sự như một phần tử trong gia đình, còn cô Tư có vẻ vô dụng quá nên mất sự kính nể trước mặt chủ.
Bà Túy gắt với ôngTúy:
-Cái áo gấm của tôi anh để đâu? Còn cái đồng hồ tay nữa! Lại còn cái gói tã ướt của con . . . anh để mất thì liệu hồn.
Ông Túy mắng át:
-Thôi thôi, tôi xin các bà. Dẹp cái lọ mắm thối lại đi. Mới vừa lo chết dưới kia chưa được mười lăm phút. Lên đến đây cững chưa chắc đã sống đâu mà vội giở trò tiếc của. Aáy may mà chỉ lụt chứ không bão, nếu cả lụt lẫn bão thì ngồi đây lại càng được gặp Ông Bà Tổ tiên liền lập tức!
Đấy là sự thực cũng như những lời họ nói cũng toàn là sự thực. Trong lúc này không ai nghĩ đến những câu che đậy khách khí giả dối nữa! Trang chua chát nghĩ thầm:
-Lúc lòng người ta cởi mở thì tiếc thay chỉ được trông thấy toàn những cái không đẹp!
Trang gượng đứng dậy mở cánh cửa sổ con thông hơi nhìn ra. Bên ngoài cả một bầu trời mờ trong mưa. Trời đã sáng nhưng ánh sáng như hòa lẫn với mưa thành một thứ ánh sáng mờ mịt. Mạêt nước dâng cao lấp cả những mái nhà thấp chung quanh xóm. Trên mặt nước chỉ còn những tầu lá chuối rách nát ủ ê, một vài thân cây cau trong vườn còn đứng vững được nửa thân mình vươn lên mặt nước, phần nhiều đều ngã nghiệng hay đổ hẳn. Vài con chó vừa lội vừa kêu ăng ẳng một cách thê thảm, cố bám vào những chiếc rương hòm ngổn ngang trôi lẫn với củi ván. Xa xa,ngoài đám nước bạc mênh mang, một người đàn ông cõng một đứa bé trên vai, đứa bé vẹo đầu sang một bên, mặt nó sát hẳn với mặt nước, có lẽ nó ngất đi, hay nó đã chết, nhưng người ấy biết hay không biết vẫn mải miết bơi. Ngoài xa nữa, rải rác từng người, ôm thân cây chuối hay mảnh ván mặc cho giòng nước đưa đẩy. Vài chiếc bè lờ đờ trên mặt nước, mặc dầu tiếng kêu cứu từ dưới nước, trên mái nhà tranh, khắp mọi nơi vẫn không ngớt, họ hình như không nghe thấy gì cả. Họ còn mải lo tìm vớt những đồ vật từ øbốn phương trôi dạt lại! Nghìn năm một thuở cơ mà! . . .
-Trời ơi, còn cái phẫu tôm chua để trong tủ đồ ăn, có ai cứu cho tôi với không? Bây giờ dù có mấy trăm bạc cũng không làm được một phẫu như thế! Trong tủ lại còn hai cái bánh Trung Thu!
-Sách! Sách ướt là không còn giá trị gì nữa! Hàng bốn, năm chục năm trời sưu tầm!
-Trời, cái ống sáp môi của tui . .
-Trời!. . .
Không lúc nào ông trời bị người ta kêu réo ầm ỹ như lúc này! Từ tiếng kêu cứu mạng cho đến ống sáp môi, lọ tôm chua...
Trang thấy ngao ngán lạ lùng, nàng không cần quay lại cũng biết ai đã nói ra.
-Tôi đã bảo mà! cái đồng hồ mới tinh hảo của tôi thế là quên trong tủ. Nó mà hư thì anh liệu hồn!
-Xin các bà đi! Đồ đạc của các bà khô ráo mà các bà chết thì để mà liệm hay để mà thờ? Nước còn lên nữa thì chưa chắc đã sống đâu! Đừng lên giọng tiếc của vội!
Trang lấy chiếc áo dài quấn chặt người con bé Lili.
Tạm thời Trang chỉ sợ nó lạnh. Lúc nước mới lên đến bụng, nàng đã đi tìm hộp sữa khuấy uống một cốc đầy. Nàng đủ cương sữa để bé Lili bú suốt đêm nay. Con Mỹ sà vào lòng mẹ kêu đói. Trang chợt nhớ đến chiếc bánh ngọt mẹ chia cho lúc ngồi trên bàn, Trang chỉ vờ cắn một góc rồi gói vào chiếc khăn tay cột lên đầu. Trang tháo khăn ra thì chỉ còn một nắm bột vụn. Mỹ vui mừng, hai bàn tay bé nhỏ nắm chặt tay Trang cúi xuống liếm bột bánh một cách ngon lành. Trang rũ khăn ra vét nốt chỗ còn sót. Bé Mỹ lại cầm tay mẹ liếm sạch, cả những kẽ tay nó cũng không chừa. Ngày thường bao giờ nó cũng đòi ăn những chiếc bánh nguyên vẹn, nếu chỉ vỡ một góc nó cũng chê ít không chịu ăn, nhưng bây giờ dù bé bỏng nó cũng biết có chuyện gì đặc biệt lạ lùng xảy ra không dám quấy. Thấy hết nó bắt chước mẹ rũ khăn, tìm không có chút bánh nào nó phụng phịu:
-Me!Me! em ăn không no, em không uống nước!
Đó là câu nói độc nhất lúc nó còn muốn ăn thêm.
-Me! Me! Em ăn không no, em không uống nước.
Nhưng bây giờ làm gì có nước mà uống dù em đói
hay em no, và mỉa mai thay, dù bên ngoài nước vẫn mênh mông . ..
Mọi người tự tìm một chỗ ngồi dễ chịu trên những chiếc đòn ngang trên trần nhà, không dám bước chân vào những tấm ván mỏng mảnh sợ sập xuống. Bé Mỹ vẫn ôm cánh tay mẹ:
-Me! Em ăn không no, em không uống nước!
Trang bỗng chợt nhớ ra:
-Cái thang đâu! Còn cái thang đâu rồi?
Phải kéo nó lên kẻo trôi mất, đợi lúc nước rút còn khối công việc phải làm.
Ông Túy nhìn xuống thấy cái thang vẫn tựa chân tường vội vàng kéo lên. Cùng một lúc mọi người đều nhìn cái thang gẫy: Cái thang cứu mệnh!
Ôâng Túy đặt nó nằm dài cạnh cửa sổ. Cái thang đã gẫy nát, nhiều chỗ phải chắp nối và quấn giây thép chằng chịt ở mỗi bực thang. Cái thang vẫn suốt ngày dựng bên gốc cây trầu leo trên mình cây vông trụi lá, lâu lâu nó lại bị ném tư ønơi này sang nơi khác. Khi người ta hái trầu thì nó bị ném sang gốc cây ổi, khi Tân và Tấn trèo ổi thì nó bị gạt sang gốc cây mít hay đá hẳn xuống đất. Cái thang cứ nằm lì dưới đất như ăn vạ cho đến khi mẹ Trang trông thấy bảo con Châu dựng lại, nó mới kéo lê sền sệt ném trả vào gốc cây trầu. Cái thang không hề có một chút tín nhiệm nào. Cả đến người thợ điện lúc trèo lên trần nhà sửa giây điện cũng chỉ đánh đu vào cánh cửa mà lên chứ không dám dùng nó. Thế mà giờ đây nó đã cứu cả nhà! Nó bỗng biến ra đáng kính, đáng yêu, anh hùng trong con mắt mọi người.
Ở dưới nhà chốc chốc lại có tiếng đồ vật đổ xuống nước và mỗi lần như thế mẹ Trang lại than thở:
-Thôi còn chi nữa! Cả gia tài sự nghiệp của tôi!
Chỗ chân sưng của ba Trang lại đau nhức dữ dội. Ông rên rỉ một lúc rồi mê lịm hẳn đi. Khi ba Trang không rên nữa thì đến lượt những người khác rên. Những ai có lội nước đều cất tiếng rên, ban đầu còn gắng rên se sẽ, cuối cùng không còn nể nang gì nữa,mạnh ai nấy rên và càng ngày càng to. Trang cũng thế, nàng thấy cả người mỏi như dần, nhất là hai bắp chân và đùi, từng thớ thịt đều như tê cứng lại và đau đớn đến nỗi không thể trở mình được.
Suốt từ sáng cho đến chiều mọi người nằm co quắp trên những thanh gỗ ngang mê man không biết đến bên ngoài, không biết ngày giờ và cũng không biết đến đói khát . ..
Dần dần trời tối hẳn lại, nhưng mưa vẫn còn nặng hạt. Tiếng kêu cứu và tiếng mõ, tiếng súng báo hiệu vẫn còn vẳng lại xa xa. Cả nhà không ai nói gì, bỗng nhiên bàTúy kêu lên:
-Chết tôi rồi! Trời ơi, tôi đau bụng!
Hai tay bà ôm chặt lấy cái bụng to tướng đã gần ngày cất tiếng rên rỉ. Bác sĩ hôm kia đã nói bà sắp đẻ trong vài ngày, nghĩa là tình trạng như một trái cây đã chín tới, chỉ còn đợi nó rụng xuống mà thôi!
Ông Túy hốt hoảng:
-Ấy chớ! Đừng đẻ ra đây nhá! Dại dột đẻ ra bây giờ thì chết cả mẹ lẫn con chứ không chơi đâu! Gắng nín đến mai may ra còn hy vọng sống!
-Ối trời ơi! Đau chết tôi, đau chết mất thôi, ối ối . .
Bà Túy đang ôm bụng rên la bỗng bật cười:
-Không sao đâu, tôi không đẻ bây giờ đâu! Ôi trời, đau quá, đau quá!...
Tân và Tấn còn bé, mình nhỏ nhẹ nên nằm lăn ra ván ngủ. Chúng chỉ thấy khổ vì phải nhịn đói suốt ngày, và lại còn khát nữa! Từ ngày mẹ chết, chúng nó không còn ai để vòi vĩnh nên cũng đã thành thói quen ngoan ngoãn, và nhất là trong lúc này chúng biết không thể có gì hơn được nên đành ôm nhau nằm ngủ. Mọi người cũng dần dần ngủ hay nói cho đúng hơn mê đi trong tiếng mưa, trong sự mệt mỏi cùng cực của thể xác và tâm hồn.
Sáng hôm sau lúc trời mờ sáng thì nước đã rút chỉ còn ngang đầu gối và mưa cũng đã tạnh hẳn. Cái thang lại được đặt xuống rất cẩn thận nhẹ nhàng, và mọi người cố hết sức kéo lê cái thân hình mỏi mệt dò lần từng bước thang xuống bắt tay vào công việc dọn dẹp.
Bên dưới cả một cảnh tượng tàn phá thảm hại hiện ra, tất cả cái gì cũng đổ vỡ bẩn thỉu. Sách vở bị nước đưa đẩy tản mác đi khắp cả các phòng và nát ra từng mảnh. Cả một tủ đựng cốc chén đổ vỡ. Các rương và tủ quần áo lúc dơ ra thì chúng đã tự nhuộm thành một thứ mầu lem luốc không tên.
Mẹ Trang ngẩn ngơ cầm một chiếc áo mầu bùn bẩn thỉu ướt sũng những nước, ngắm mãi không thôi. Đó là chiếc áo nhung mầu rượu chát mới nhất và cũng là chiếc áo đẹp nhất của bà, bây giờ nó giống hệt như một con mèo bị nhúng nước bùn, từng đám nhung xoắn tít lấy nhau không còn những ánh tuyết êm dịu óng ánh nữa. Bà nhìn lên bức ảnh bán thân treo trên tường cao, bức ảnh chụp lúc bà mới hai mươi lăm tuổi, lúc bà còn trẻ đẹp . . . Trang đến cạnh mẹ se sẽ nói:
-Me ạ con mua cho mẹ một chiếc áo nhung khác.
Bà lắc đầu gượng cười:
-Không con ạ, có phải mẹ tiếc chiếc áo nhung đâu!
Bà rơm rớm nước mắt tiếp theo:
-Suốt đời mẹ từ lúc trẻ cho đến bây giờ mẹ đã hy sinh hết cả cho chồng, cho con, cho gia đình. Mẹ có tiếc gì đâu! Trải qua bao nhiêu lần lên bổng xuống trầm, mẹ đã bảo toàn được cảnh nhà, và giúp đỡ cho ba con không phải là ít. Cho đến ngày nay, các con đều đã trưởng thành tản mát tất cả bốn phương, mẹ thì già, mẹ chỉ còn có một người chồng mà nay cũng không còn là của mình nữa! Có lẽ nào mẹ lại tiếc một chiếc áo nhung!
Bà ngừng một lát thở dài:
-Mẹ đã cố hết sức vớt đồ đạc mà rốt cuộc không cứu vớt được gì cả! Nhưng dầu sao mẹ cũng đã hết lòng, đã làm hết sức lực rồi. Nay mai mẹ sẽ ốm sẽ chết, và đời sẽ gạt bỏ mẹ ra ngoài như mẹ sẽ vứt bỏ chiếc áo nhung đã hỏng này, nhưng thôi mẹ chỉ nói chừng ấy, con phải hiểu thêm cho nhiều mà tự định liệu cuộc đời của con . ..
-He âhê hê, đồ của tôi không ướt lấy một cái vảy, hê hê hê . .. Cả mấy con gà con cũng tự trốn được không chết lấy một con, chi lạ, thiệt là có thời!
Nghe tiếng cười hê hê của cô Tư, Trang thấy cả người nổi gai. Trang nhìn cô và cảm thấy hơi là lạ. Tuy ống son của cô không mất nhưng sáng nay cô chưa trang điểm, trông chán chường tàn tạ quá chừng. Trang đã quen nhìn cô với đôi má đỏ rực như hoa phượng, môi cũng đỏ chói, son đánh sát vành môi mỏng dính, có hai khóe thực dài. Gương mặt gầy, lưỡng quyền cao, bộ mặt lúc nào cũng đánh phấn trắng bệch của cô tăng thêm sự trái ngược của đôi bàn tay đen xương xẩu và lúc nào cũng nhơm nhớp đầy mồ hôi. Ban đầu Trang thấy chướng mắt cái lối trang điểm có vẻ hình nộm ấy nhưng sau nhìn quen Trang cũng thấy cô đẹp, một vẻ đẹp mê hồn các ông già, nhưng thiếu tính chất dịu dàng thùy mị của những người đàn bà với sứ mệnh đem lại hạnh phúc thịnh vượng cho gia đình.
Ngoài sân thấp thoáng bóng những người láng giềng đến hỏi thăm. Họ ở những nơi thấp hơn nên tản cư ngay từ lúc mới bắt đầu lụt nay mới trở về.
Mọi người tranh nhau kể lể:
-Tôi bị trôi tất cả quần áo đồ đạc, bây giờ chỉ còn một manh này.
-Tôi bị sập cả cái nhà bếp nhà ngang.
-Tôi trôi mất cả bầy heo hai chục con.
-Tôi. . .
-Ấy, dưới kia người ta trôi sạch cả làng, cho đến vững như cột đình cũng không còn!
-Có một gia đình bám lên mái nhà tranh bị trôi tuốt cả mái nhà ra sông Hương, lúc trôi ngang dưới cầu Trường Tiền bị gạt cả xuống nước. Hà hà, thì ra chúng mình vẫn còn có phúc!
-Nào về lo sửa máy vô tuyến điện trước, nghe thiên hạ nói dóc chơi. Mình kêu cứu khản cả cổ cũng chẳng có con ma nào biết đến, chứ nghe bản báo cáo thì chắc là cả một đội thủy binh đi cứu nạn dân và kết quả tốt đẹp ghê lắm!
-Thế nào, cụ có việc gì không, cô Trang có mất mát gì không?
MẹTrang chỉ gian nhà:
-Các ông các bà xem đấy, may mà còn gian nhà và cái thân già này!
Trang định trả lời mất sạch cả, nhưng cái cảnh người đàn ông cõng đứa con chết trên lưng, mải miết bơi trên mặt nước mênh mang không bờ bến hiện ra trước mắt nàng. Trang ôm chặt hai con vào lòng trả lời:
-Không,không, tôi không hề mất chút gì . Cả cái tài của tôi vẫn còn nguyên vẹn.
Tiếng rên của ba Trang, từ trong phòng vẳng ra nhắc nàng nhớ đến ấm nước đang đun dở để pha trà cho ông. Trang đứng dậy xuống bếp cho thêm củi. Con Châu đang vo gạo bảoTrang:
-Này chị, nghe bà Bá bên cạnh đang khóc ông ấy. Hay quá! Em nghe từ sáng đến giờ vẫn chưa hết, dài hơi ghê!
Trang lắng tai nghe. Tiếng bà sang sảng chẳng khác lúc bà chửi mất gà tí nào.
-Hơ hơ, hờ hờ, ông ơi là ông ơi! Ông chết đi ông bỏ tui, ông bỏ tòa ngang dãy dọc. Ông ơi là ông ơi! Ông sống giầu có năm bảy tòa nhà ngang dãy dọc mà chết vừa đói vừa lạnh. Tui biểu ông ăn mấy miếng khoai khô rồi đi mà ông cũng không ăn. Ông nóng ruột đi tìm cháu ông để đến nỗi ôm cây mà chết giữa đường.
Tui đã chắp tay tui lạy ông, biểu ông đừng đi, một hai ông cũng cứ đi. Hơ hơ! Hờ hờ! Tổ cha đứa mô rứa mà hắn dám nói tui xui ông đi vớt củi rều, để ông lạnh, ông đuối sức ông chết! Ông ơi! Lúc sống hà tằn hà tiện, con cá to cũng không dám ăn, chừ ông chết rồi tui cúng nem cúng chả cho ông ích chi! Ông ơi! Hơ hơ! Hờ hờ. . .
Bỗng nhiên bà đổi giọng quát người ở:
-Mới, mi còn đợi chi mà không đi vo thúng gạo ướt xay bột đi, để lâu chua lè ra tau bắt mi ăn cho hết đó.
Ấm nước đã sôi, Trang đổ vào bình rồi đun ấm khác.
Những cành tre nổ lốp bốp, ánh lửa đỏ ấm áp reo vui. Cái thang đã được chặt ra để nấu vì tất cả than củi đều bị ướt hết không dùng được. Cái thang anh hùng, cái thang cứu mệnh hôm qua! Nếu biết suy nghĩ chắc nó tưởng rằng sau cái “ ân cứu mệnh” người ta sẽ đặt nó trong viện bảo tàng hay cho vào lồng kính xếp chung với bàn thờ tổ tiên để ghi công ơn nó . . . Nhưng thực ra trên đời mấy ai biết tri ân, mấy ai còn nhớ đến những tai nạn đã qua! Khi người ta chết hụt xong, phần đông đều tưởng rằng “Mạng mình to lắm. Có lẽ Ông Trời còn dành để dùng vào một sự nghiệp vĩ đại gì đây!” Vậy thì cái thang dù suốt đời có hy sinh tận tụy thì hy sinh cho đến phút cuối cùng là lẽ dĩ nhiên.
Mai đây người ta sẽ đặt làm một cái thang mới khác chắc chắn đẹp đẽ, xứng đáng để trao gởi tính mệnh lúc cần dùng đến cũng là một lẽ dĩ nhiên nữa. Còn cái thang cũ kỹ, gẫy nát, trước khi trở về với tro bụi, vẫn nấu chín cơm sôi nước, hiến thân một lần cuối cùng, lại càng là một lẽ dĩ nhiên và hợp lý vô cùng.
113