Trời bắt đầu vào mùa Thu, ngoài đường lá đổi màu; dọc theo những con đường trong khu phố nhỏ, cây cối mang màu lá mới. Những cây lá: đỏ, vàng, xanh nổi rõ hơn trên nền trời xám màu chì; và lá cũng bắt đầu rụng nhiều.
Trong khu vườn sau nhà bà Năm chỉ còn mấy cây thông tháp bút là còn được màu xanh, căn nhà đâu lưng với khu vườn sau nhà bà có cây phong cành lá um tùm, nhánh de ngang qua hàng rào phủ xuống một góc vườn bà Năm. Những cành cây vào hè máy đứa cháu bà Năm có bóng mát vui chơi chạy nhảy, nhưng kẹt một nỗi vào Thu bà Năm hơi mệt vì phải gom lá hàng tuần. Căn nhà sau lưng là của vợ chồng người Mỹ hồi hưu, quanh năm im lìm dóng kín, thảng hoặc những ngày lễ lớn, Xuân Thu nhị kỳ như lễ Giáng sinh, lễ Phục Sinh mới thấy có ánh lửa reo vui hoặc tiếng ồn ào của đám con cháu về thăm. Bà Năm về ở khu nhà nầy hơn mấy năm rồi, nhưng chưa lần nào bà thấy mặt cặp vợ chồng người hàng xóm. Điều đó cũng dễ hiểu, vì căn nhà đâu lưng lại với nhau, hai mặt nhà quay ra hai con đường chia nhau một block đường.
Bà Năm đúng lặng nhìn khu vườn, được ông Năm chia ra thành nhiều ô nhỏ hình chữ nhựt, đóng bệ bằng cây, mua đất trộn phân đổ lên để cho bà trồng vài ba luống rau. Bà Năm chịu khó theo con ra chợ mua về nào ngò om, rau giấp cá, rau quế, rau thơm, húng cây, húng lủi, bạc hà, tía tô, hành lá... Bà Năm ngày ngày ra săm soi bắt sâu, xới gốc, tưới nước vô phân... Không bao lâu từ ngày bà về nhà nầy mảnh vườn nhỏ có sinh khí. Bà thường nói với sắp nhỏ cháu bà
-Tao ở đây như cây chùm gởi, sống nay thác mai, già rồi hổng có lo gì, chỉ tội nghiệp cho tụi bay thôi hà. Tao còn sống thì tụi bay còn chuyện để mà nghe, nữa khi tao theo ông bà ... chà, lúc đó chăc tụi bay thành Mỹ ráo trọi.
Lũ nhóc vây quanh bà đòi kể chuyện. Bà nhai trầu bỏm bẻm, một chưn co lên ... bà hắng giọng:
-Ừa, để tao kể cho tuị bây nghe. Lại chuyện năm non, bảy núi; chuyện ông bà..
Bà Năm kể chuyện, câu chuyện bà kể cho đám cháu bà nghe, nhưng mắt bà nhìn vào một khoảng không gian nào đó.
Khi vui thì muốn sống dai, Khi buồn thì muốn thác mai cho rồi. Cuộc đời nó sao lắm nổi truân chuyên, buồn vui khó nói. Mới được đó, rồi mất đó; vừa mới cười xong thì bổng chốc nước mắt nó lưng tròng. Cuộc đời vốn nó là vô thường mà. Ai ai không muốn vui nhiều buồn ít, có phải vậy không? -Bà năm tự hỏi trống không. Vì đời không thường còn mãi mãi nên khi vui thì mình muốn sống dai, sống hoài để hưởng, nhưng lúc buồn thì muốn chết quách đi cho rồi. Vật đổi sao dời, ruộng lúa biến thành nương dâu mấy hồi! Làm sao đem cái chuyện "được thua còn mất" để mà định giá trị con người? Người Việt lúc nào cũng một lòng nhớ tưởng quê-hương, dù cho quê hương có rách nát tơi bời, dù cho đất mẹ có ba chìm bảy nổi, chín linh đinh. Chắc chắn một ngày nào đó sẽ "hết cơn bỉ cực, đến hồi thới lai"
Bà Năm kể không đầu không đuôi, bà nghĩ đôi lúc cũng buồn cho cái vận nước của mình. Càng nghĩ càng cố gắng làm sao để giữ cho cái nền, cái nếp của ông bà không bị mất trong đời sống ôi sao mà nó xô bồ hổn độn ở cái xứ tiền nhiều mà tình nghĩa hổng có bao nhiêu. Thằng con trai bà thường nói tếu với bầu bạn rằng "Tình là chín(h) nhưng tiền là mười còn vàng nó tới 24 lận, mà kim cương thì vô giá." Bà Năm nghĩ thằng con bà nói ra như vậy có vẻ như bi quan, chán đời nhưng nó là chuyện có thật.
Bà Năm cà kê cho lũ nhỏ đang đợi ba má đã ngủ gục dưới sàn nhà. Bà Năm ấm ớ nói như trong cơn mê... Gia đình bà Tư kia được sang đây bằng giấy bảo lảnh của con, những ngày đầu vui vẻ sao nó qua mau quá. Đời sống mới nó hoàn toàn hổng có giống bên nhà tí nào ráo trọi. Chuyện ăn chuyện ở nó khác huơ, khác hoắc. Nó ba mớ làm sao, người quê mùa thì chỉ còn có nước cười đau khóc hận, ai có qua cầu mới hay, ai có hiểu thì cảm thông cho cảnh bà Tư lắm. Mấy người hổng đồng ý kiến thì chê bai; họ nói ai biểu già rồi qua làm gì, sao hổng dzìa bển cho rồi. Nào là đứng núi nầy trông núi nọ. Họ còn biểu là được voi đòi tiên.... Thôi hơi sức đâu mà cãi. Ông bà mình dạy chín người mười ý mà. Thiệt đúng lắm. Nhưng họ có "Ởû trong chăn đâu mà biết chăn có rận". Bà Tư buồn lắm, ông Tư thì còn có chút thú vui cà-phê, cà-pháo, lâu lâu cũng phì phèo đôi điếu thuốc lá "Mâm-bô-rô" len lén vì sợ con nó ngầy ngà, con dâu nó ra vào nhìn ngó. Trời lạnh như vầy nếu có thèm chắc phải lủi vào nhà xe để phì phèo. Thôi thì bỏ tiệt đi cho nó xong. Riết rồi hút thuốc lá như một cái tội. Còn bà Tư đâu biết làm gì cho qua ngày dài đăng đẳng? Đi đâu cũng phải nhờ con cái nó chở đi. Nó vui thì được, hôm nào nó lỡ thua cá độ "phút-bôn", trong mình khó ở thì coi như bữa đó "huề tiền" là may lắm đó. Mà bà Tư bả đâu có muốn gì cho lắm. Chỉ muốn đi chùa, đi lể ngày chủ nhật, nấu nướng cái gì đó để cúng ông bà ngày giỗ, ngày quải vậy mà con cái nó cứ chê. Nó chê mê tín dị đoan, mùi nhang khói hôi nhà, vàng vách... Con cái nó đâu có biết người mình thờ cúng tổ tiên là việc "uống nước nhớ nguồn" Sách Trung Dung có nói "Tấu cách vô ngôn thị mỵ hữu tranh" (Tận tâm cúng vái mà không nói là không có tranh luận) nhưng nó có bằng lòng đâu mà cúng với vái. Cái gì cũng mang tới Chùa hết thảy. Mà cúng Chùa thì lại hổng có tiền. Đàng nào cũng kẹt. Ôi làm cái thân chùm gửi sao mà nó thấm thía làm vậy?
Bà Năm nhổ nước cốt trầu, bà nhìn đám cháu nằm lăn trên mặt thảm mượt như tơ, bà lẫm bẩm: "Đâu phải ai cũng bị như cảnh của bà Tư!? Có lẽ bà Tư là trường hợp đặc biệt đó thôi! Thôi thì ráng cầu nguyện." Bà Tư cũng là người có đọc sách thánh hiền đó chớ; Bả biểu rằng tại mình vô phước vô phần, chớ thiệt ra thì kinh Lể đà dạy rồi: "Duy thánh nhân vi năng hưởng Đế. Hiếu tử vi năng hưởng Thân. Hưởng dã, hưởng dã. Hướng chi nhi nhiên hậu năng hưởng yên" Việc cúng bái, việc thờ lạy tổ tiên là việc từ Vua chí Dân đều phải làm hết. Chỉ có bậc Thánh nhân mới biết tế lễ cho xứng đáng, chỉ có những đứa con hiếu thảo mới tế cho song thân. Chỉ có sự thành tâm mới có sự hiệu quả của việc cúng tế. Nước mình là nước thuộc phạm vi văn hóa Phương Đông mà. Có kiêng thì có lành. Cổ nhân có dạy: "Hữu thành tắc hữu kỳ thần,vô thành tắc vô kỳ thần." Có tin kính thành tâm thì có thần có thánh, ngược lại hổng tin là hổng có Thần linh gì ráo. Đời sống là sự tiếp nối của một chuỗi dài từ vô thỉ đến nay,và sẽ chảy mãi đến vô cùng. Mỗi con người thoạt sinh ra phải nhờ cha mẹ chăm sóc nuôi ăn, dạy bảo. Lúc còn đỏ hỏn, mọi việc đã có mẹ có cha, có tía có má. Do đó nếu có sự dưỡng nuôi, và nếu có "âm đức" thì mọi việc trơn tru; bằng ngược lại... Bà Tư cũng có cái lý của bả, có lẻ bà Tư không dung hợp được cái mới chớ gì?
Nhưng bên mấy người trẻ họ đâu có hiểu. "Thiên hạ chi lễ dã chí phản thủy dã. Chí phản thủy dã dĩ hậu kỳ bổn dã" (Kinh Lể Chương XXIb). Thiệt ra cái lễ nghĩa đi đến cùng cực là trở về với cái cội cái nguồn. Trở lại với cội nguồn đó chính là làm cho cái gốc của mình không bị mất,và mình không vong bản. Bà Năm chỉ là người hủ lậu, khi nghe chuyện chỉ biết thở dài, chớ làm gì hơn được. Bà Tư suy đi nghĩ lại, một ngày kia bả quyết định để dành tiền mua sẳn giấy máy bay về Việt Nam. Bả chuẩn bị một cuộc vượt biên ngược về nhà. Bà Tư đi thiệt, đám con khi biết chuyện hông hiểu họ nghĩ thế nào. Nhưng chỉ tội nghiệp ông chồng già ngày đêm lủi thủi ra vô, nhớ thương bà vợ.
Mấy đứa cháu ngáy pho pho. Bà Năm đứng lên bước vô nhà bếp bật đèn. Mâm cơm bà đã dọn sẵn mấy đứa cháu không chịu ăn. Hai vợ chồng đứa con chưa về. Bà Năm bước lại bàn thờ ông Năm thắp một cây nhang. Bà thở dài.
Mặt trời chưa ra khỏi đám mây. Trời vào Thu nên mặt trời dậy trễ. Bà Năm đã bước ra sau vườn. Bà chăm chút từng cọng rau, bà vuốt tay trên ấy lá bạc hà óng mượt đầy bụi phấn. Bà thở dài:
- Nhà không có cây rau sao ngó nó giống nhà hoang.
Mấy đứa con bà, nhứt là thằng Ba, người con bảo lãnh cho bà sang Mỹ, cứ cằn nhằn:
- Sao má không nghỉ cho khoẻ, mấy cây rau của má trồng không lại tiền nước má tưới cho nó. Má muốn ăn thì con ra ngoài chợ thiếu giống gì ngoài đó. Trồng vừa mệt mà không thấy có lợi gì hết ráo má ơi.
Bà Năm chỉ cười, những đứa con bà đâu có biết. Phải, mà làm sao nó biết được niềm vui của bà khi đứng nhìn những bông cà chua vàng rực rõ như ánh mặt trời khi cây mới đâm bông, nó cũng không thể nào hiểu được bà vui sướng như thế nào khi nhìn thấy cây rau quế nhảy mầm non nhú ra lộc mới, con bà lại càng không thể hiểu được cái mùi của đất. Bà Năm không thể nào diễn tả cho con cháu bà hiểu đươc cái vị hăng hăng nồng ấm của đất mới, mùi cỏ, mùi cây, những thứ mùi bà hít hoài không thấy chán.
Màu đất ở đây đen đen trộn phân ngái ngái, nhưng bà đã thêm đất mới thêm lá cây phong nên dịu bớt; nơi đó cây cuốc nhỏ của bà xới lên có những con trùn đen láng ngo ngoe làm bà nhớ. Bà Năm không biết, không hiểu tại sao nếu mỗi ngày bà không dẵm chưn trên đất là bà phát bịnh.
Bà Năm đi đi lại lại quanh vườn, sau trận mưa đầu mùa đất có mùi nồng nồng xông vô lỗ mũi, mấy cây rau quế rau thơm bà phải lấy bao ny long trùm kín, đang lùng bùng những hơi ấm bên trong. Bà Năm cười một mình. Bà lẩm bẩm:
- Ngộ thiệt, cây mà phải bận áo che.
Mấy đưa con đã dậy ồn ào. Một ngày cuối tuần như mọi ngày đã qua. Bà Năm bươc vô nhà, mùi của đất đi theo Bà Năm vô tận giường ngủ. Và sáng hôm sau mấy đứa con gõ cửa phòng mới hay bà đã ra đi.
Trang
Jul 28, 2008
Mùi Đất
Trả Nợ Anh Lái Ðò Ngang
Quỳnh thường đi đò ngang, khất chịu tiền, lâu quá món nợ tích lại cũng khá nhiều, không trả được. Lúc anh lái đò đến đòi, Quỳnh bảo:
- Ừ, đợi đấy, vài hôm nữa, sẽ trả đầy đủ.
Ở giữa sông có một cồn cát, bỗng xuất hiện một cái nhà nhỏ, lợp lá gồi. Người ta đồn rằng đó là cái lầu yết thơ của Trạng. Thế là mọi người tò mò rủ nhau đi xem. Muốn ra nơi cồn nát, chỉ có con đường đò ngang, mới đầu chỉ lưa thưa ít người. Ra đến nơi họ thấy có một cái biển đề mấy chữ bằng vôi trắng ‘Cha đứa nào kể với đứa nào'.
- Tất nhiên khi về, gặp người khác hỏi thì ai cũng trả lời độc một câu:
- Ra mà xem!
Cũng có người tếu tán thêm: Hay lắm, ra mà xem.
Thế là thiên hạ lũ lượt kéo nhau ra xem ‘lầu yết thơ của Trạng’, lúc đầu là người trong làng, rồi các làng lân cận, lan ra đến cả tổng. Còn anh lái đò chèo mệt nghĩ, nhưng hả hê với số tiền lớn thu được của khách, cho đến khi người ta biết là bị Quỳnh cho ‘quả lừa' thì mới vơi khách.
Anh lái đò vãn việc, chợt nhớ món nợ của Quỳnh, mới đến hỏi.
Quỳnh mắng:
- Ai nợ nhà anh? Anh nợ ta thì có. Nhờ mẹo của ta mà anh vớ bở; ta chưa hỏi phần của ta đấỵ Thôi ta cứ gửi lại đó mà trừ dần cho tiền đò sau nàỵ
Anh lái đò chợt hiểu, cười sung sướng, rồi cám ơn Quỳnh rối rít.
728
Jul 27, 2008
Đậu Phộng Đường
Một chú bé người Bắc vào chơi nhà người thân ở trong Nam Bộ, nghe bảo ở đây gọi "Lạc" là "đậu phộng". Một hôm đi chơi, chú bé không nhớ được đường về. Khi người nhà tìm được hỏi vì sao, chú đã trả lời "Rất Nam Bộ":
Cháu bị đậu phộng đường ạ!
2816
Đậu Phộng Đường
Một chú bé người Bắc vào chơi nhà người thân ở trong Nam Bộ, nghe bảo ở đây gọi "Lạc" là "đậu phộng". Một hôm đi chơi, chú bé không nhớ được đường về. Khi người nhà tìm được hỏi vì sao, chú đã trả lời "Rất Nam Bộ":
Cháu bị đậu phộng đường ạ!
2816
Đồ vô ơn
Ông bố mắng con là bác sĩ:
- Tao đã làm tất cả cho mày tốt nghiệp trường Y, để bây giờ mày lại cấm tao hút thuốc và uống rượu à? Đồ vô ơn!
2157
Bài Toán Ðố Cuối Năm
Chiều hai mươi tết, tôi đem một xấp vải về nhà khoe vợ.
Sau khi mở gói giấy báo, vợ tôi trầm trồ:
- Chà đẹp quá! Ở đâu ra vậy?
Tôi ưỡn ngực:
- Quà tết của cơ quan anh đấy!
Hai vợ chồng trải xấp vải ra bàn, ngắm nghía, xuýt xoa. Ðột nhiên vợ tôi hỏi:
- Mấy thước vậy, anh?
- Ba thước.
Trong khi trả lời, tôi nhìn thẳng mặt vợ và cảm thấy cô ta thoáng vẻ nghĩ ngợi.
Quả vậy, vợ tôi chép miệng:
- Ba thước chỉ may được cho một đứa. Còn mấy đứa kia...
Sự lo lắng của vợ kéo tôi về với thực tế. Vợ chồng tôi có tất cả năm đứa con. Con Nhạn lớn nhất, mười bốn tuổi. Kế đến là thằng Luân, con Nga, thằng Quang và cuối cùng là thằng Ðạt, đứa út, ba tuổi. Với đàn con như vậy, tết nhứt hai vợ chồng tôi chỉ lo ăn cũng đủ mệt, cách chi nghĩ đến chuyện may sắm. Bây giờ với xấp vải cơ quan cho, cũng chỉ may được một bộ đồ thôi. Nhưng mà nên may cho đứa nào? Ðứa có đứa không, chúng tranh nhau cũng khổ. Phải làm sao cho chúng khỏi so bì mới được! Hai vợ chồng tính tới tính lui, cuối cùng tôi cũng nghĩ ra được một giải pháp.
Tối đó, sau khi ăn cơm xong, tôi tuyên bố:
- Các con ngồi quây lại đây nghe ba nói...
Tôi chưa dứt lời, thằng Luân đã vỗ tay lốp bốp:
- A, ba kể chuyện! Hoan hô!
Vợ tôi trừng mắt:
- Con để yên nghe ba nói nào!
- Không phải kể chuyện! – Tôi đính chính – Ba đố các con cái này...
Nghe tới đó, con Nga lắc đầu nguây nguẩy:
- Thôi, thôi, tụi con biết rồi! Ba lại đố cái gì không sơn mà đỏ, không gõ mà kêu nữa chứ gì?
Tôi cười:
- Không phải! Cái này mới toanh, chưa đố lần nào. Các con nghe kỹ nè. Có năm người đang đi trên đường, bỗng nhiên họ gặp một cái bánh, đố các con họ phải chia làm sao để khỏi cãi nhau?
Thằng Quang ngơ ngác:
- Bánh sao lại nằm giữa đường hả ba? Bộ ai làm rớt hả?
Cái thằng quỷ con này! Tôi rủa thầm trong bụng và trả lời cho qua:
- Ừ, có người làm rớt. Vậy phải chia như thế nào?
Con Nhạn vọt miệng:
- Câu dễ ợt mà ba cũng đố! Thì mỗi người cắn một miếng, cắn hoài cho đến khi nào hết thôi!
Tôi bối rối đưa tay gãi đầu trong khi bọn nhóc nhao nhao:
- Phải vậy không ba? Chị Hai nói đúng không?
Tôi gật đầu kia:
- Phải, phải! Các con giỏi lắm! Giờ nghe ba đố câu khác nè. Có năm người đi trên đường, giả dụ là năm đứa con đi...
- Cũng gặp bánh nữa hả ba? – Con Nga vụt hỏi.
- Không! Lần này không gặp bánh. Các con gặp một chiếc xe đạp bỏ không, vậy chiếc xe đạp thuộc về ai?
- Vậy chủ nó đâu? - Thằng Quang lại hỏi.
- Chủ chiếc xe đạp hả? – Tôi nhíu mày - Chiếc xe không có chủ. Nhưng con đừng hỏi nữa. Trả lời đi! Chiếc xe thuộc về ai?
Con Nga nheo mắt:
- Thì đứa nào biết chạy xe đứa đó lấy!
Con Nhạn và thằng Quang hùa theo:
- Ðúng rồi! Ðúng rồi!
Chỉ có thằng Luân là sửng cồ phản đối:
- Thôi đi! Tụi mày đừng có khôn!
Rồi nó quay sang con Nga, trừng mắt:
- Mày tính bắt tao chở mày đi học chứ gì?
Chả là trong năm đứa chỉ có mỗi thằng Luân biết đi xe đạp. Con Nhạn tập chạy xe trước thằng em nhưng con gái nhát gan nên đến giờ vẫn chưa đi được.
Nghe thằng Luân nạt, con Nga chu miệng:
- Xí! Ai mà thèm ngồi cho anh chở! Anh chạy ẩu có ngày té lọi giò...
- Tao chạy ẩu hồi nào? Ðừng có xạo!
Thấy tụi nhỏ cứ sa đà vào những “tiểu tiết” mà không chịu đi vào “trọng tâm” vấn đề, tôi đập bàn, gắt:
- Thôi, đừng cãi nhau nữa! Không có xe đạp xe điếc gì hết! Bây giờ các con sẽ gặp một bộ đồ...
Lần này, đứa nhanh miệng nhất cũng là con Nga. Nó cắt ngang lời tôi:
- Ðứa nào mặt vừa đứa đó lấy!
Tôi ngớ người ra và đưa mắt nhìn vợ. Tới nước này thì vở kịch của tôi không thể nào diễn tiếp được nữa. Hiểu rõ ý nghĩa cầu cứu trong mắt tôi, vợ tôi liền hắng giọng:
- Thôi, các con im lặng đi, nghe má nói nè!
Tụi nhỏ đang huyên náo lập tức im bặt. Rõ ràng chúng coi trọng má hơn ba.
- Nói thật với các con như thế này, ba con vừa được cơ quan cho ba thước vải. Ba thước vải chỉ may được một bộ đồ hoặc hai cái áo, mà các con những năm đứa. Do đó, ba má muốn hỏi ý kiến của các con, là nên may cho ai kỳ tết này. Kỳ sau sẽ tới những đứa khác.
Thấy câu chuyện không còn ở dạng đố chơi nữa mà trở nên quan trọng, tụi nhỏ đâm ra đứng đắn hẳn.
Sau một thoáng nghĩ ngợi, con Nhạn đề nghị:
- Thôi ba má may cho thằng Quang với thằng Ðạt đi. Thằng Quang được cái áo, thằng Ðạt còn nhỏ chắc may được một bộ.
Ý kiến thằng Luân hơi khác:
- Thằng Ðạt còn nhỏ cần quái gì đồ mới. Má may cho con Nga với thằng Quang đi.
Thằng Quang hùa theo thằng anh:
- Ðúng đó má, con một cái, chị Nga một cái.
Nhưng con Nga không chịu:
- Con không mặc đâu! Má may cho chị Nhạn với anh Luân đi! Tết năm ngoái con đã có áo mới rồi.
Tới lượt con Nhạn lắc đầu:
- Tao không mặc đâu!
Cứ vậy, mỗi đứa một ý, không ai chịu ai. Ðứa nào cũng muốn nhường cho đứa khác. Ðiều đó khiến tôi ngạc nhiên một cách thích thú. Nhưng tình thế quả thật khó xử. Cuối cùng vợ tôi phải đóng vai trọng tài:
- Các con đã có ý kiến rồi, bây giờ tới má.
Nghe vậy, tụi nhỏ im liền.
- Má ủng hộ đề nghị của Nga! - Vợ tôi thong thả - Bởi vì Nhạn với Luân đã lớn rồi, tết nhứt phải đi theo ba má thăm hỏi bà con họ hàng, do đó cần ăn mặc tươm tất một chút...
Rồi vợ tôi quay sang thằng Quang:
- Còn con, con có nghe câu “cũ người mới ta” bao giờ chưa?
- Dạ chưa! “Cũ người mới ta” là sao má?
- Tức là có những cái tuy cũ với người khác nhưng đối với mình vẫn là mới! - Nói tới đây, vợ tôi hơi ngập ngừng – Ví dụ những cái áo của anh Luân dù là cũ nhưng vì con chưa mặc qua lần nào, do đó đối với con vẫn là áo mới phải không?
Thằng Quang không hiểu ất giáp gì, nó vỗ tay hét toáng:
- Phải rồi, mới, mới! Má định cho con cái áo ca rô của anh Luân phải không? Con khoái cái áo đó lắm!
Vợ tôi thở phào:
- Ừ, má cho con cái áo ca rô. Còn Nga thì sửa lại cái áo tím than của Nhạn mà mặc, cái áo đó ngó vậy ma còn tốt lắm, con chịu không?
Con Nga lặng lẽ gật đầu, không biết nó buồn hay vui. Nhưng dù sao câu chuyện may mặc vẫn diễn ra tốt đẹp, không rắc rối như tôi tưởng. Thật là một gia đình hạnh phúc!
oOo
Chiều mồng một tết, hai vợ chồng tôi đang dọn dẹp trong phòng thì bỗng nghe ở ngoài hiên tiếng con Nga méc với con Nhạn:
- Cái áo của chị chỉ mục hết trọi mà má kêu tốt. Em vừa thở ra c
ó một cái mà hai hột nút bay đi đâu mất tiêu.
Con Nhạn rầy:
- Ðứt nút là chuyện thường, có gì mà mày la hoảng như vậy. Ðem kim chỉ lại đây tao đơm giùm cho!
Rồi tôi nghe tiếng nó thở dài:
- Thiệt ra tao đâu có ham áo mới, nhưng kẹt phải đi đây đi đó với ba má thành ra phải may. Ít bữa hết tết, tao nói má sửa lại cho mày mặc, đừng lo!
Thiệt con nhỏ ngoan hết biết! Tôi mới khen thầm trong bụng thì đã nghe tiếng thằng Quang – Nó chơi đâu ở ngoài sân mới chạy vô:
- Chị Hai ơi! Cái áo ca rô của em rách rồi!
- Rách ở đâu? – con Nhạn tỏ vẻ lo lắng.
- Ở trên vai đây nè! Em vừa cúi xuống chưa kịp lượm viên bi đã nghe một cái “rẹt”.
- Ðâu? Ðưa tao coi nào! Chậc, rách có chút xíu à! Cởi ra tao mạng lại cho, lát nữa mặc!
Thằng Quang phụng phịu:
- Thôi, em không mặc cái áo “cũ người mới ta” này nữa đâu! Em thích mặc áo mới như anh Luân kìa!
Con Nhạn dỗ em:
- Mặc áo mới cực thấy mồ, sướng ích gì mà ham! Mỏi lưng không dám tựa, buồn ngủ không dám nằm, lúc nào cũng phải giữ cho thiệt sạch. Còn áo cũ thì tha hồ!
Nhưng thằng em không màng nghe lý lẽ của con chị, nó buồn bã “triết lý”:
- Nhà mình không bằng một góc nhà chú Kiệt. Thằng Thảo và con Sương đứa nào cũng có áo mới, chẳng như nhà mình năm nào cũng “cũ người mới ta” hoài!
- Thằng này lãng xẹt! - Con Nhạn nạt – Nhà người ta chỉ có hai anh em trong khi nhà mình tới năm đứa, bì sao được mà bì!
Thấy chị gắt, thằng Quang im re. Một hồi lâu, cũng chẳng nghe nó nói gì. Hình như nó đang lặng lẽ cởi áo. Con Nhạn nói đúng thiệt! - Tôi chua xót nghĩ - Nếu hồi đó mình quyết tâm chỉ có hai đứa thì bây giờ mọi sự tốt đẹp biết mấy! Bất gíác, tôi quay sang vợ và bắt gặp ánh mắt của cô ta. Ánh mắt nói: “Phải chi hồi đó...”171
Jul 25, 2008
Tìm Lá Thu
Chiều hôm ấy chung đôi con đường vắng
Lá thu vàng làm rực rỡ hoàng hôn
Có chiếc lá có lẽ quá bồn chồn ...
Rời không trung đậu tóc em khe khẽ ...
Anh tinh nghịch nhặt chiếc lá nhỏ bé,
Rồi vu vơ ép chiếc lá lên môi ...
In lên lá những dấu tích bồi hồi,
Đặt môi em, "Anh hôn em yêu đó !"
Em gạt đi, không thèm thương lá cỏ
"Em đây nèn, tất cả, là của anh
Yêu anh và muốn anh yêu chân thành
Sao anh phải hôn em qua sợi lá ?"
Mùa thu xưa sao nỡ qua vội vã,
Chiều nay em đi lạc giữa lá vàng,
Tìm trong ngàn chiếc lá gió vỡ tan,
Một chiếc lá in hình mùa Thu cũ ...1516
Jul 24, 2008
Dốt quá!
MR mắng em: Sao mày dốt thế, bài toán dễ ẹc vậy mà làm không xong.
Em: Không biết thì mới hỏi anh chứ!
MR: Đấy, cái dốt nặng kí nhất của mày chính là ở đó!!!
935
Hôm Nay Không Phải Là Hôm Qua
Những chiếc gương soi luôn gây ra cho tôi sự phiền nhiễu. Trước tiên là mất thời gian. Phải quay qua bên trái một cái, quay qua bên phải một cái, vuốt tóc ở bên này lên, kéo cái bím ở bên kia xuống... và cuối cùng là nụ cười hài lòng. “Kể ra thì cũng ổn đấy chứ?”. Cứ thế, sự kiêu kỳ lại tiến thêm được một bước. Con gái mà, mấy ai tự cho mình điểm kém về môn sắc đẹp đâu.
Người ta nói “Con gái 19, 20 tuổi ngồi đâu cũng thấy bàn về chuyện tình yêu”. Tôi cũng đã từng đi qua một vài lời tỏ tình đại loại như “Anh yêu em” hoặc “Anh không thể sống nếu thiếu em”. Nhưng trong những giây phút nghiêm trọng ấy tôi chỉ cảm thấy nực cười. Rút cục, lần nào tôi cũng sắm một vai diễn với những lời an ủi sáo rỗng “Em rất quý mến anh nhưng...”
Rồi một khoảng thời gian sau, vào một ngày đẹp trời, hết sức tình cờ, tôi sẽ gặp lại những chàng trai ấy đang vui vẻ nắm tay bạn gái vô cùng tình tứ. Họ sẽ ngạc nhiên xen một chút vồn vã giả tạo khi nhận ra tôi “A! Em đấy à? Lâu rồi không gặp. Giới thiệu nhé, đây là...”
Tôi quen làm mọi việc một mình từ khi đi học, lên thư viện hay đi chơi. Tối thứ bảy nào tôi cũng chui vào màn nằm ngủ, thẳng cẳng từ lúc 9 giờ tối. Mọi việc đều từ từ, chậm rãi và đều đặn xảy ra. Còn tôi thì nhảy nhót như một chú khỉ hiếu động giữa sự bão hòa của hai thái cực yêu và ghét. Trong mối quan hệ loằng ngoằng của mình tôi phân chia tình cảm theo bình quân đầu người. Gọi đấy là tình cảm tập thể bình quân chủ nghĩa được lắm chứ.
Sáng chủ nhật, tôi ngoan ngoãn quỳ trước Chúa trong giáo đường như một con chiên. Mỗi lần về quê chơi, bao giờ tôi cũng phải dậy từ lúc trời chưa sáng rõ. Khi mà những hồi chuông nhà thờ đổ dồn trong xóm đạo, tôi sẽ mắt nhắm mắt mở tay xách chiếc đèn dầu theo sau bà đến nhà thờ. Gia đình ngoại tôi đi đạo. Còn tôi lại giống cha - rằm, mùng một có thể lên chùa thắp hương, chủ nhật có thể đến nhà thờ nghe hát thánh ca.
Dưới chùm ánh sáng rực rỡ, giọng đức cha vang lên trang nghiêm, thành kính “Nếu các con gặp khó khăn, các con cầu xin Chúa giúp đỡ và hãy đưa bàn tay mình ra để đức cha cầm lấy. Người sẽ ban phát cho các sức mạnh, lòng kiên trì...
Tan lễ, tôi khẽ nhăn mặt, dựng cổ áo lên cao. Từng cơn gió ào ào ùa về. Ðôi trai gái đi cách tôi khoảng mươi bước chân dừng lại. Cô gái khẽ rùng mình “Em lạnh quá!” Chàng trai rút chiếc khăn âu yếm choàng lên vai cô “Không khéo em lại ốm mất thôi”. Mỉm cười vu vơ, tôi lại đi vượt lên phía trước, ánh mắt cô gái lấp lánh làm tôi sững sờ. Nó gợi ra hai chữ lẻ loi. Tại sao tôi lại không tìm cho mình một nơi bình yên để dừng chân? Tôi hoàn toàn có thể thanh thản tựa mái đầu của mình vào một bờ vai rắn chắc kia mà. Trong tận cùng sự cô đơn tôi nhớ đến một người, giá như lúc này anh đang ở bên tôi.
Anh là người đầu tiên lôi tôi ra khỏi nhà vào lúc 3 giờ sáng. Trong màn sương dày đặc anh nắm chặt tay tôi và đặt nụ hồng nhung lạnh buốt. Chúng ta không thể giữ mối quan hện như xưa nữa. Anh không biết tình yêu như thế nào nhưng cái mà anh dành cho em thì ngoài từ yêu ra không còn từ nào diễn đạt nổi. Những ngón tay của tôi lóng ngóng run rẩy (không thể biết được chúng run vì anh hay vì lạnh?) và như một phản xạ tự nhiên, điệp khúc cũ rích lại được bật ra “Em rất quý mến... “. Anh đặt ngón tay lên môi “Em có lý trí của loài người ban cho. Anh không cần biết đến những thứ ấy. Anh đã nói được điều anh cất giữ bấy lâu nay. Chỉ cần thế thôi. Chào em chúc em ngủ ngon.”
Chắc chắn tôi sẽ không suy nghĩ về anh, sẽ không đặt câu hỏi cho ranh giới giữa bạn và yêu mà sẽ thản nhiên nói với anh mệnh đề sau của chữ “nhưng” nếu anh tìm cách gặp tôi nhiều hơn, quan tâm đến tôi nhiều hơn một chút. Sau hôm ấy, anh biến mất như chưa hề tồn tại. tôi không biết gì hơn ngoài cái tên của anh và ngôi trường mà anh đang học. Thời gian chúng tôi quen nhau quá ngắn ngủi và tôi cũng đã kịp hiểu gì về anh đâu. Anh có gửi cho tôi một lá thư vẻn vẹn hai dòng ghi ngày giờ, địa điểm chúng tôi sẽ gặp nhau và mặc dù rất muốn nhưng chính tôi đã không đến chổ hẹn, lòng kiêu hãnh của một đứa con gái 19 tuổi giữ tôi lại! Tôi sợ bị người ta đánh giá. Hơn nữa chưa có một chàng trai nào mời tôi đi chơi như anh: Không hẹn trước – không đón tiếp – không nài nỉ - không thuyết phục không...
Tiếng cười của đôi trai gái từ phía sau vọng lên trong suốt. Tôi cảm nhận được âm tiết hạnh phúc và sự tủi thân len lén trong tim. Trước kia tôi luôn tưởng tượng tình yêu là một cái gì đấy rất đỗi cao cả, linh thiêng kiểu như Romeo và Juliet. Nhưng thật ra tình yêu chỉ đơn giản là sự gần gủi giữa hai con người khi họ tình nguyện cùng bước đi trên con đường không có điểm dừng. Tình yêu đích thực không cần đến sự trang trí dởm đời của những cái được gọi là thời gian, lòng kiêu hãnh, sự hiểu biết... Nó chỉ cần đến lòng chân thật và sự tin tưởng lẫn nhau. Và trong một khoảnh khắc, lời răn của cha hiện lên thật rõ ràng “Con hãy đưa bàn tay của mình ra”.
Những chú chim trên nóc nhà thờ ríu rít bản tình ca chào đón bình minh. Nhịp sống muôn thuở vẫn tiếp tục như nó đã từng như thế. Không ai biết, không ai nhận thấy có những giọt nước mắt đang lặng lẽ trào dâng... Ngày hôm nay không phải là những ngày hôm qua. Tôi đứng trước cổng nhà thờ, ngước mắt nhìn đức mẹ Maria hiền từ “Thưa mẹ! Có khi nào anh ấy nói lời yêu với con lần thứ hai không hở mẹ?”692
Jul 23, 2008
Ánh Mắt Mùa Xuân
Thế là tôi đứng trên nước Mỹ đã gần mười tiếng đồng hộ Cả ngày trên thế giới thần tiên mơ ước của bao nhiêu người nhưng sao nghe chập chùng lo lắng. Lạ lùng cảnh vật và ngỡ ngàng ngôn ngữ nhưng điều quan trọng là nỗi thắc mắc về tương lai bất định, về lối ứng xử dự định tối nay khi gặp lại Tân sau chục năm lạnh nhạt và âm ỉ nghi ngợ Tôi vốn giống tánh mẹ, có gì trong dạ là nói ra ngay, những giận hờn dù nhỏ nhoi tôi chưa từng bỏ qua không nóị Chất chứa và ẩn dấu tình cảm, chỉ buông ra khi gặp dịp thật thuận tiện, còn thì làm người con gái Hà Nội khôn ngoan của nửa thế kỷ trước-- tủm tỉm cười cười nói nói như không chuyện gì theo lời mẹ dặn-- không phải là thái độ hằng có của tôi khi đã ở Miền Nam từ ngày còn trong bụng me Chắc chắn Tân sẽ không thích người mới đến đem theo những vấn đề lương tâm từ lâu anh trốn chạy cũng như anh đã nhắm mắt đà điểu lại coi như không có vấn đề từ bao nhiêu năm naỵ Cũng chắc chắn thái độ khôn ngoan nhứt là biết vị thế của mình ở đâu trong lòng người chồng chỉ còn trên danh nghĩa và những ràng buột mơ hồ từ sợi dây cương thường Khổng Mạnh nát nhòe khói sương. Xé tấm giấy hôn thú ban đầu tưởng là kế hoạch tranh khôn nhưng thời gian đã biến thành một thực tế nhói tim xé ruột. Biết vậy mà sao tôi vẫn muốn nói lời phiền giận, muốn trách hờn một phụ phàng. Cho hả tức, cho tai Tân tràn đầy những phẩn nộ chuyên chở đau khổ hằng cửu của tôị Và chuyện gì sẽ xảy rả Có thể Tân sẽ không ký lại cái hôn thú, xé toạt những kỷ niệm thần tiên ngày xưa cũ để cho tôi bị đuổi về Việt Nam như lời hai chị tôi tiên đoán? Trả về! Rồi tôi sẽ sống như thế nàỏ Trường học, nơi tôi vừa từ nhiệm, người ta đã tiệc trà tiển đưa với những ánh mắt ganh tỵ lẫn dè bĩu, tôi lòng dạ nào trở về dù rằng về đó sẽ dễ dàng sống được, sống còn trong cảnh hầu như mọi người đều hành nghề dối trá và bóc lột lủ học trọ Trở về để thấy lại những kỷ niệm muốn quên của hai lần bị chèn xe cho ngã rồi những tên đầu đường xó chợ đập bể những chai nước trà pha loãng rượu dỡm để bắt tôi bồi thường dưới lời hăm doạ của những con dao Thái Lan nhọn lễu và hàng chục cánh tay bạo tàn. Không! Tôi không thể trở về khi đã muốn xóa trong ký ức một quá khứ nhọc nhằn vô nghĩa và đồng lỏạ
Tôi tặc lưỡi cố gắng đè nén xúc động khi suy nghĩ đến những khó khăn trước mặt. Tới đâu hay đọ Vài ba đứa nhỏ da đen ít oi trong đám đông da trắng chạy nhảy vui cười từ khu nầy sang khu khác làm tôi vui vui hơn đôi chút. Phải chi lòng mình bình thản như chúng nọ Thần tiên biết mấy và đạt đạo biết mấy!
Tiềng loa báo tin gì đó tôi không hiểu nhưng thiên hạ trong vùng tôi ngồi đợi đã lục tục xếp hàng vào cửạ Tôi sợ bị bỏ rơi như nhiều lần đã bị bỏ lại trong đời nên cố gắng len lỏi tới trước. Nhiều ánh mắt nhìn tôi lạ lùng chen lẫn bất bình và tội nghiệp. Cô tiếp đãi viên hàng không xoét vé, to lớn mạnh mẽ và có cặp đùi thật đẹp nói gì đó với tôi một tràng dàị Trông cách ra hiệu của cô ta trong khi nói, tôi mang máng hiểu rằng mình được bảo ra ngoài hàng và đợi cách giải quyết saụ Tôi đứng ra ngoài hàng. Đứng mà lo sợ và tủi thân. Sao lại đợỉ Chuyện gì đâỷ Tiếng người thì ngọng ngịụ nói ra thì thiên hạ cứ hỏi đi hỏi lạị Cái hàng đã vơi tới năm sáu người cuối cùng. Lác đác chỉ còn vài ba người ung dung trên ghế đợi như chừng không phải đi chuyến nầy nên cứ tà tà nói chuyện. Tôi muốn bật khóc. Nếu giấy tờ trục trặc thì không biết tính saọ Tôi mừng rỡ đưa mắt cầu cứu một ông khách có vẽ Á Đông mới tất ta tất tưởi chạy tớị Thấy ánh mắt tôi, ông ngó cô tiếp đãi viên như để đoán chừng thời gian còn lại cho ông rồi tiến về phía tôị Tôi nói cầu âu bằng tiếng Việt. "Nhờ chú coi lại coi sao họ bắt cháu đợi không cho lên tàụ" Vừa nói tôi vừa chìa hộ chiếu và vé phi hành rạ
Ông khách nhìn lướt qua nhưng không có vẽ gì như muốn đưa tay ra lấy mà buột miệng nói một câu vô duyên như núi lợ Cô mang thông hành Việt Cộng! Rồi như thấy mình lỡ lời vì ánh mắt đau khổ của tôi, ông đưa tay cầm lấy tất cả giấy tờ, ngoắc tôi đến quày vé trình và nói gì đọ Người nhân viên bấm máy vi tính sau một hồi tìm kiếm trên máy, in ra cho tôi một vé lên tàụ
Mặc dù mang xách cũng hơi khá nặng, ông vẫn đề nghị xách hộ tôi cái xách tay kồng kềnh làm khổ sở tôi từ lúc lên phi trường Tân Sơn Nhất đến giợ Cám ơn chú, cháu lo liệu được, tôi từ chốị Những giúp đở của ai tôi đều đón nhận với tất cả lòng ngờ vực. Người thân ruột thịt còn chưa tin được huống hồ gì người gặp gỡ giữa đàng! Tôi mang xách lên vai, tay kia kéo cực khổ cái túi mang những thứ lỉnh kỉnh cho con, né không cho ông cầm, nhưng chỉ đi được vài bước thì ông ta đã đưa tay ra đở lấỵ Phi cơ nhỏ, đường giữa hai hàng ghế hẹp. Tôi lo tìm số ghế mình, nhìn lại thì không thấy ông ta đâụ Tôi ngồi xuống ghế thắc mắc. Bên cạnh trống trơn. Ước gì không có ai ngồi chỗ nầỵ Thoải mái cho tôị Phải chi lúc nảy đừng cho ông ta giằng lấy cái xách. Của không bao nhiêu nhưng cái tình cho con mang tràn đầy trong đọ Mười năm rồi tôi không thấy mặt con. Chỉ là những tấm áo tôi đo cắt đoán định vóc dáng con với cả tấm lòng trời biển của người me Chỉ là nhũng thứ mứt tôi xên phơi với lòng thương cao ngút như núị Không biết ông ta có lục ra coi rồi lấy bớt hay không, hay ông ta ngồi luôn ở đó đợi phi cơ ngừng rồi lẻn ra trước lấy theo đồ đạc của tôị Phi cơ cất cánh và tôi chìm trong những suy nghĩ vẩn vơ về sự xấu xa của người đời mà lâu rồi tôi quá ư là thất vọng. Tôi thiếp đi trong sự mệt mỏi của chuyến bay đêm với tiếng động cơ ù ù ru ngủ và bóng tối bao phủ chỉ còn chút ánh sáng le lói từ một vài hàng ghế xa xạ
Tiếng ghế cạnh tôi động nhe Ông ta sửa soạn ngồi xuống, gật đầu chào, nói nho nhỏ khi tôi mở mắt nhìn.
'Thỉnh thoảng đường bay nội địa còn lại nhiều chỗ trống như thế nầý Ông vừa nói vừa thắc dây an toàn, "Hành khách có thể ngồi đâu tùy ỵ Xin lỗi, nếu tôi không lầm thì cô đến định cư ở Mỹ chớ không phải đi công tác cho chánh phụ"
"Cháu sang đây đoàn tụ với nhà cháụ"
"Chúc mừng cộ Đợi bao lâu rồi mà được đoàn tủ"
"Hơn mười năm rồị"
"Chúc mừng cô lần nữạ Thời gian tuy dài nhưng cô đã qua tới đâỵ Bây giờ là lúc an vui và lo liệu cho tương laị Ông ta dùng lại chữ của tôi khi nảỵ"
"Vui gì mà vuị Đang buồn chết ngườị" Tôi cũng không biết tại sao mình nói nhiều, tại sao lại nói như là khơi chuyện. Có thể vì sự cô đơn, có thể ông ta là người Việt Nam đầu tiên tôi chuyện trò từ khi rời nước. "Từ Đài Loan qua Cali còn có người Việt Nam, từ lúc đợi ở phi trường khi nảy không còn thấy một người Việt Nam nàọ Muốn hòi một vài điều mà không biết hỏi aị"
"Cô có chuyện buồn?"
"Có khi nào người sang đây mà bị bắt buột trở về vì những thỏa thuận trước khi ra đi không hoàn tất được hay không?"
"Tùy nhiều chuyện. Anh ấy đang có người khác?"
Một giọt rồi cả tràng dài nước mắt rủ nhau chạy ra khỏi khóe mắt cay xè của tôị
"Cháu không biết phải nói gì, phải làm sao khi qua bên đó mà phải sống chung nhà với người ta, người thứ bạ"
Người đàn ông sửa lại thế ngồi, có vẻ chăm chú hơn câu chuyện của tôị" "Trước hết cho xin lỗi câu nói đầu tiên của tôi khi gặp cộ Danh từ mà tôi dùng có vẻ không được đàng hoàng. Mỗi người trong chúng ta đều dị ứng trước một số vấn đề, một số dữ kiện." Ông ngừng một vài giây, ngó tôi rồi bật đèn chỗ ghế ông ngồi, như muốn quan sát những giọt nước mắt của tôị " Mà thôi , trở về câu chuyện. "Mỗi người trong ba người đều có lợi thế và bất lợi thệ Cô phải sử dụng lợi thế của người đến trước, đã có con với anh ấy mà hành động bằng sự nghiêm trang cần thiết. Tiểu tinh sẽ co vòi ngaỵ" Tôi thích chữ tiểu tinh của ông dùng. Nó vừa ý tôi hơn chữ hoa trong câu thơ Rằng nghe vườn mới thêm hoạ "Tránh mè nheo, chửi rủa, than thở dài dòng. Phải tươi tắn, nhỏ nhe Càng nói ít càng tốt. Đàn ông vốn dễ chán ngán và mệt mỏi trước sự trách móc dai dẳng và quy chụp thường xuyên của đàn bạ"
Quy chụp? Ông nầy là hạng ngưòi nào mà sử dụng từ nầy! Tôi chú ý hơn người đối thoạị Đây là loại người để mình học hỏi, trao đổị Ông ta không già như tôi tưởng. Có thể ông ta mới rời Việt Nam không bao lâụ Nhưng mà không cần chú ý tới ba thứ vặt vãnh đọ Tôi có quá nhiều điều bận trị
"Em sợ mình hiền quá anh ấy sẽ theo người ta luôn, mà dữ quá thì sợ anh ấy bực mình không ký lại giấy hôn thụ" Tôi thay đổi cách xưng hô hơi sớm nhưng mà thật ra tôi chỉ muốn thân mật để coi ông ta có cho mình được lời khuyên gì đó xứng đáng hay không.
"Đàn ông không ích kỷ đến mức làm hại vợ kiểu đọ Đàn ông có thể dối vợ để rong chơi cuối trời quên lãng, nhưng người ác độc thì không có nhiềụ"
Để tránh vẻ quá chăm chú nghe ông ta nói tôi mở giỏ lấy quyển truyện ngắn của tác giả hiện sinh Lý Lan, cầm trên taỵ Ông ta nhìn tựa quyển sách, không nói gì, chỉ tiếp theo đề tài của mình.
"Cô cũng còn đẹp. " Tôi không hiểu ông có dụng ý gì trong câu nói đọ Đàn ông không mấy người nói về sắc đẹp của người đàn bà đối diện mà không có ẩn ỵ Đó là cái tật, cũng giống như tật của họ khi nói chuyện với đàn bà chỉ dùng nửa não vì nửa kia bận tưởng tưởng về hình ảnh trần truồng của người đối diện.
"Lợi thế là ở đọ Phải biết mình muốn gị Phải đầu tiên là muốn ở lại lập nghiệp trên nước Mỹ không? Sau đó là có chút tiền đỡ khổ lúc ban đầu bỡ ngợ Cuối cùng là được sống hạnh phúc gia đình với chồng con. Nếu mất thì theo thứ tự chồng, tiền, chót nhứt mới là sự tự dọ"
Tôi muốn há hóc mồm ngạc nhiên. Ông ta nói trúng những gì tôi suy nghĩ và quyết định trước khi lên phi cơ sang đâỵ Tôi làm thinh, tay lật lật quyển sách.
"Vậy thì phải từ từ làm sao đạt được ba mục tiêu đọ Không cần phải một lúc. Không cần làm cho hai người kia sợ mình. Cũng không cần cho họ thấy sự bất bình của mình. Từ từ và nhỏ nhe" Ông ta lập lại kế sách nầy nữạ Từ từ và nhỏ nhẹ khi anh ta xéo lên giao ước của người đi trong khi tôi khổ sở ôm giử từng chữ, từng câu giao ước của người ở lạỉ
"Cám ơn lời khuyên của anh, anh thấy nhu mì, nhỏ nhẹ đắc dụng trong trường hợp nầỷ " Tôi hỏi cho cọ "Em đã định làm ngược lại đó chự"
Tôi thay đổi cách xưng hô, ông ta xứng đáng được xưng hô như vậỵ Sành tâm lý dễ sợ và nói ra đúng lúc. Tôi không hổ thẹn gì khi dùng chữ anh-em thân mật đọ Ông ta như không chú ỵ
"Xứ nầy là xứ cơ hội và an toàn cho tất cả mọi ngườị Cô không nên thất vọng về bất cứ chuyện gị Rồi mọi chuyện sẽ được giải quyết tốt đẹp thôị So sánh sự khó khăn khổ sở của cô bây giờ với sự khó khăn và cô đơn của anh ấy lúc mới tới đây với đứa con nhỏ thì cô sẽ thấy từ từ và nhỏ nhẹ là kế sách công bình mà lại hữu hiệụ"
Tôi thở dàị "Vậy mà em định tới đó nói phải quấy rồi chia taỵ Nếu không có giấy tờ thì trốn lại sang đây sống với chị bạn. Chị ấy hứa với em nhiều lần."
"Cô đã sai lầm là có giải pháp trước khi nhìn rõ công chuyện. Cô cũng không biết mình nên tiến nhanh hay tiến chậm trong kế hoạch. Cô bị ảnh hưởng vì cái phao người bạn. Cô quên xét những khía cạnh đáng tha thứ của anh ấỵ" Tôi bàng hoàng. Mười năm nay tôi chỉ nghe lời xúi đứng về phía tôị Chưa từng nghe ai đứng về phía anh ấy, những chữ khía cạnh đáng tha thứ là những chữ chưa bao giờ có mặt trong tự điển cuộc tình nhiều nước mắt của tôị Vâng! Tôi phải tìm cách tha thư.
Vẳng bên tay tôi nghe mơ hồ không biết là tiếng ông ta hay tiếng từ trong lòng tôi phát rạ "Tha thứ ở đây không có nghĩa là dối lòng, che mắt không biết đến những chuyện đã xảy rạ Tha thứ đây là thông cảm với những yếu đuối vật thể của con người trước hoàn cảnh đẩy đưạ Tha thứ là mở đường thực hiện tình mẫu tử gián đoạn từ lâụ"
Tôi thầm cám ơn người đối thoại đã đưa cho tôi một giải pháp khiến mình có được sự thanh thản cần thiết. Trạm tới không là ngưõng cửa vào địa ngục mà tôi phải cầm gươm đánh nhau với quỷ dữ như mình đã hình dung, trạm tới là bước đầu tôi tập luyện thành người có cái minh triết nhìn sự kiện trên khía cạnh sâu sắc nhứt để đem lại hạnh phúc cho tất cả người trong cuộc. Cái tôi sẽ không bị xóa tan như tôi tưởng mà sẽ phát triển ra cao rộng, bao la hơn khi tôi đem tình thương lại cho con, cho anh ấy, và đem cái nhìn lân mẫm đến kẻ thứ bạ Tôi nhắm mắt chìm trong giấc ngủ thoải máị
Anh chia tay tôi ở trạm đợi khu A để tôi sang chuyến đi Florida, nói là đi về trạm đợi của mình ở khu B nhưng không nói sang chuyến đi về đâụ Trước khi quay lưng anh nhìn vào mắt tôi cười cười, điệu bộ lừng khừng. Tôi biết anh thấy trong đó ánh mắt tươi sáng mùa Xuân của tôi do anh cho trong chuyến bay vừa rồị Cho tới bây giờ tôi vẫn chưa biết tên và cũng không biết anh sống ở đâu, làm gì trên cái xứ Mỹ to lớn nầỵ
Hết
103
CÁNH THƯ KHÔNG GỬI
Ba ơi!
Khi con bắt đầu nghĩ đến chuyện phải có một lần nói với Ba thì tuổi già của Ba đã đến, mọi khái niệm về cuộc sống, Ba đã không còn ý thức được. Con đã nói quá muộn màng nhưng con vẫn xin được một lần sau cùng nói để mong Ba hiểu rằng con gái út của Ba luôn luôn yêu quý Ba muốn ký thác tâm sự cùng Ba - một người cha suốt đời hy sinh cho con cái...
*
Con nhớ quá khứ xa xôi của Ba, một thanh niên nghèo hiếu học phải lòng một cô gái con nhà quyền quý... Mẹ con bất chấp tất cả để được thành hôn với Ba, ngày cưới những thanh niên cùng trang lứa tức giận Ba đã chiếm được Mẹ, họ chạy theo đám cưới dùng nụ hoa lài chấm vào bãi cứt trâu trên lòng bàn tay họ để nhạo báng Ba... Con nghe kể mà lòng đau đớn thương Ba Mẹ dường nào...
Nhưng Ba Mẹ đã có một đời sống rất hạnh phúc... Chúng con ra đời trong nhung gấm mãi cho đến lúc Mẹ mất đi Ba trong những thất bại công việc đã đưa gia đình đến tan tác...
Từ Huế gia đình mình vào Nam... Cuộc đời nổi trôi chúng con đã trưởng thành qua nhiều khúc khuỷu của cuộc đời.
Thời gian lặng lẽ trôi qua chúng con từng đứa lập gia đình... Các anh chị may mắn hơn con được ở gần Ba dù mỗi người đã có gia đình. Riêng con, thời chiến chinh con đành gạt lệ theo chồng xa lìa mái nhà phố thị để lên tận miền cao nguyên nắng bụi mưa bùn... Có những buổi chiều con đau lòng nhớ về mái nhà xưa... Con mơ có một ngày được diễm phúc như các anh các chị được về quây quần trong một xóm để được hằng ngày gặp gỡ Ba cùng các anh các chị.
Nhưng oái oăm thay ngày con vĩnh viễn lìa bỏ vùng cao nguyên trở về phố thị lại là ngày đau đớn nhất cho dân tộc mình. Miền Nam đã rơi vào tay Cộng Sản. Con trở về mái nhà xưa với tay bồng tay bế, hai đứa con thơ, con chẳng được dịp để hầu hạ Ba như lòng mong muốn, ngược lại Ba lại phải “chăn” một bầy cháu cho đàn con gái cũng như con dâu để chúng lo kiếm kế sinh nhai trong khi chồng đang tù tội, thất nghiệp. Riêng con còn thê thảm hơn, chồng đã đi ra nước ngoài ngày hội ngộ thì xa vời vợi. Con nhớ có những buổi trưa Ba ngồi đong đưa ru cháu, Ba cứ lập đi lập lại câu hò:
Thạch Sanh ngồi gốc cây đa
Thấy bà công chúa bay ngang đỏ lòm.
Thạch Sanh lật đật theo dòm
Thấy bà công chúa đỏ lòm bay ngang.
Ban đầu con còn lóng tai để nghe đến lúc nghe đến phát ngấy con đã đến bên Ba nài nỉ: “Ba ơi, Ba đừng hò nữa, con nghe riết muốn điên luôn...”. Con chẳng hiểu tại sao con có thể “nhằn” Ba một cách vô lý như thế. Giờ đây, lòng con thật muôn vàn ăn năn... Để rồi qua tuần lễ sau trong tivi diễn tuồng “Lá Sầu Riêng” của đoàn kịch Kim Cương Ba lại nghe được một câu hò Ba lại lập đi lập lại trong lúc ru các cháu:
Trời mưa bong bóng bập bồng
Mẹ đi lấy chồng con ở với ai!
Lòng con quặn thắt vì quanh Ba một đàn con gái và dâu chồng đã vì vận nước không có ai còn chồng bên cạnh... Sau đó con đã từ giã mái nhà Ba để đi tìm kế sinh nhai... Con gái út của Ba chịu biết bao cay đắng khi xông xáo vào đời.
Đầu tiên con mượn một số vốn nho nhỏ để sắm tủ thuốc ngồi bán thuốc lá lẻ ở ngay trước nhà hàng Khánh Ly đường Tự Do chắc Ba còn nhớ con đường này đã... đi vào lịch sử với hai câu thơ của ai đó:
Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý
Đồng Khởi ra đời mất Tự Do.
Lần đầu tiên con nghe câu thơ đó con đã nổi da gà và lòng xiết bao cảm phục người nào đã sáng tác hai câu thơ để đời... Ồ! Con đi lạc đề rồi, con muốn nhắc lại ngọn ngành cho Ba nhớ lại đứa con gái út tay yếu chân mềm của Ba đã vào đời thế nào...
Cái tủ thuốc chẳng ra gì so với những tủ thuốc khác với đầy đủ thuốc lá ngoại quốc con đã đặt ngay nhà hàng Khánh Ly, có lẽ Mẹ con đã phù hộ cho con hay sao mà lúc nào khách cũng tấp nập mua giúp con... Nhưng ngay đêm đầu tiên con đã bị ba, bốn người... đồng nghiệp đến sinh sự. Con sợ quá phải dời qua bên kia đường như con đã nói ở trên có lẽ nhờ Mẹ phù hộ nên con vẫn đông khách khiến họ tức giận buộc con phải dời ngay trước hiên nhà 49 Tự Do với những bóng cây che khuất... Con ngồi thu nhặt từng hào mà lệ lúc nào cũng chực trào ra vì tủi cho thân phận hẩm hiu của mình... Con tê tái khi nghĩ đến những ngày dài lê thê của một kiếp người không biết sẽ ra sao. May mắn sao cho con có một buổi sáng con đang cặm cụi tính toán sổ sách để xem lời lỗ đêm trước ra sao thì có một người đàn ông đến mua thuốc, ông ta chăm chú nhìn nét chữ, con số của con ghi trên cuốn sổ rồi hỏi thăm trình độ học vấn của con, con cũng thành thật nói về mình, ông ta hỏi con có muốn làm công nhân viên nhà nước không? Ôi chao! Sống trong một xã hội đang bị ruồng bỏ vì chồng trốn chạy ra nước ngoài, các anh đang bị đày ải trên những vùng rừng thiêng nước độc, với hai đứa con bé bỏng con còn ao ước, lựa chọn nào hơn...
Công nhân viên nhà nước! Những từ ngữ “oai” làm sao! Con đã chính thức vào làm việc cho chính quyền cộng sản! Nhưng Ba ơi! Mong Ba hiểu giùm con của Ba “cái thế phải thế thì ta thời phải thế”. Con của Ba luôn luôn có tư tưởng chống lại chế độ dù con đang làm việc cho họ. Có một buổi sáng con dẫn cháu đi ăn sáng trong khi đợi xe của sở tới địa điểm đón công nhân viên đi làm con và cháu ngồi bệt xuống ghế nhỏ ở vỉa hè ăn bún riêu... Không biết cái tánh tạp ăn của con út Ba thế nào lại “bắt mắt” mấy người làm phim của đài truyền hình VN, con vừa ăn xong kéo các cháu đứng dậy thì ba, bốn người đến hỏi con có muốn làm... “diễn viên” không? Con ngẩn người ra với danh từ “diễn viên”. Họ phải giải thích một hồi con mới hiểu nôm na là họ muốn con làm... tài tử mới chết. Con đoán thầm họ sẽ cho con đóng vai con sen tạp ăn trong một vở tuồng nào đó... Con nhận lời, cho họ địa chỉ nhà. Sáng hôm sau họ đến nhà gặp lúc xe sở đậu ngay trước nhà để đưa đón công nhân viên thế là cả sở biết con “bị” đài truyền hình chiếu cố... Nhưng sau đó nhiều lời bàn bạc nên con đã từ chối vì cái gốc người Việt vẫn còn mang nặng về... xướng ca vô loại...
Qua bao cay đắng con có được một việc làm, để có đồng lương cố định nuôi con và mỗi cuối tuần con có chút quà về thăm viếng Ba, các anh chị và các cháu... Có những lúc con nhịn thèm, nhịn khát để có những món quà nho nhỏ cho các cháu, con vui sướng khi thấy ánh mắt nai tơ của chúng mở rộng ra khi được con cho quà. Đó là những niềm hạnh phúc lớn lao nhất mà con đánh đổi bằng những sự nhọc nhằn của con...
*
Con út của ba bất hạnh đã phải vượt biển thật lao đao thừa sống thiếu chết để đến đất tự do. Bao ngày khốn khổ đói khát ở đảo hoang, đến khi lên được đảo Pulau Bidong ở Mã Lai con lại càng tuyệt vọng hơn vì không liên lạc được với chồng...
Một đêm trăng dẫn hai cháu ra “bãi tiên” nh%
C31890
Bắt đầu một tình yêu
Cô Sáu trở dậy lúc trời còn mờ tối. Hồi đó nhà cô không có đồng hồ, nhưng cô luôn dậy vào đúng lúc con chim cu sau núi cất tiếng gáy. Cứ đều đặn như thế, năm này qua năm khác, công việc của cô không hề thay đổi.
Cho bò, heo ăn xong, cô cầm cái liềm tất tả đi. Quãng đường gần ba cây số chẳng sá gì với con người đã quen làm công việc nặng nhọc. Cô đến nơi vào lúc trời hửng sáng. Len lỏi qua vùng đầm lầy, cô cắt đầy một gánh môn ngứa. Đây là nghề của cô. Cô muối môn chua bán. Cả làng ai cũng biết môn của cô là môn dại, thế nhưng nó luôn đắt khách. Cô mát tay. Môn đó người khác sờ vào có thể gãi chảy máu. Thế mà qua bàn tay cô, nó lại thơm ngon mới lạ. Lúc đầu mọi người ngại nhưng sau người ta bảo nhau: nó cũng như cô, dại mà không độc. Thế mà cô sống được.
Cô Sáu ở một mình trong căn nhà lá của cha mẹ để lại. Nhà cô có mười anh em. Những người còn lại đều đã có gia đình và ra ở riêng. Lúc cha mẹ cô mất, họ xúm lại họp hành phân chia gì đó. Cô đờ người trước nỗi đau. Cô không tham gia vào câu chuyện của họ. Sau này cô cũng chỉ biết mình vẫn được sống trong mái nhà của bố mẹ.
Không có của cải riêng, cô muối môn ngứa sống qua ngày. Âëy thế mà cô khá. Một mình, ăn chẳng đáng bao nhiêu, lại tiết kiệm nên cô cũng tích cóp được kha khá. Ông chú họ tốt bụng mua giùm cho cô con heo. Thế là cô có thêm nguồn vui. Con vật cô nuôi cũng vô tư như chủ nên lớn nhanh như thổi. Dần dần cô có thêm cả bò. Công việc có vất vả hơn nhưng chẳng là gì đối với cô. Cô vẫn sống vui.
Nắng ở quê cô mới kinh khủng làm sao. Bàn chân đã quen giẫm trên sỏi đá mà vẫn muốn phồng lên vì nắng. Cô không mệt. Cô thấy khát, khát muốn khô họng. Cô cố làm cho xong, bó hai bó môn thật chắc rồi quảy xuống suối. Cô ngồi trên cục đá bằng phẳng bên bờ suối, khoan khoái vốc từng vốc nước vã lên mặt. Cô khom người uống từng ngụm nước tinh khiết. Mỗi giọt nước như thấm vào từng thớ thịt trên người cô. Cô cứ uống, uống như chưa bao giờ được uống vì một nỗi sung sướng ngất ngây. Thế rồi, no nước cô lại thấy mệt. Một nỗi bứt rứt trong người thật khó tả. Không! Cô chẳng bao giờ nhận ra điều đó, cái bứt rứt của người con gái đến tháng. Cô khát và cô đã uống. Nắng và dòng suối đã cho cô bóng mát. Nhưng hình như cô vẫn thấy khát. Cô ngả lưng nằm trên phiến đá mát lạnh rồi nhẹ nhàng đi vào giấc ngủ.
Cái tin cô Sáu có bầu nhanh chóng lan khắp làng. Anh em trong họ kéo đến chật nhà. Cô ngạc nhiên. Cô vội chạy đi giở cuốn sổ cũ kỹ nhàu nát xem hôm nay là ngày gì. Thế nhưng chẳng là ngày gì cả. Vốn tính hay quên, nên cô đã cẩn thận ghi ngày giờ giỗ chạp vào một cuốn sổ. Cô không hiểu mọi người tập trung đông đủ như thế để làm gì. Cô đâm ra sợ cái vẻ mặt hầm hầm giận dữ của anh cả. Cô trốn xuống bếp nấu nồi nước chè mang lên. Họ bàn bạc gì mà thấy căng thẳng ghê lắm. Cô chỉ nghe anh cả bảo “bỏ”, nhưng chị Ba và ông chú lại bảo “không được”. Có người thì bảo: “Tìm cho ra thằng đó rồi đập vào mặt nó”. Cô sợ hãi đứng nép sau ông chú nãy giờ chưa nói được lời nào. Rồi mọi người gọi cô lại. Cô sợ sệt. Song chẳng ích gì. Họ không khai thác được gì ở cô.
Chẳng có giải pháp nào đưa ra hợp lý. Cuối cùng mọi người im lặng ra về. Cô thở phào nhẹ nhõm. Ông chú tốt bụng lén nhìn vào cổ cô, nhìn xuống bụng cô rồi dặn dò: “Đừng làm việc nhiều nữa nha con. Phải giữ sức khỏe”. Cô cười toe toét. Cô thấy cô vẫn khỏe chán. Ông chú quay đi.
Chuyện cô Sáu có bầu không làm cho người ta khinh rẻ, nhưng nó khiến người ta tò mò. Người ta đoán già đoán non “tác giả” của nó. Người ta chửi cái thằng cha nào đó mất nết, cả người dại cũng chẳng chừa. Người ta lại mừng cho cô, sau này sớm tối có người thủ thỉ cùng. Song ai cũng lo cô không chăm sóc nổi con mình. Thế nhưng những người đàn bà thì biết rằng, bẩm sinh mỗi người phụ nữ đều đã được phú cho thiên chức làm mẹ. Ngay một đứa trẻ cũng có thể sắm vai một bà mẹ khi nó mới ở lớp mẫu giáo cơ mà.
Cô Sáu vẫn vô tư, dửng dưng trước những lời đồn đại. Nhưng đến một ngày cô đã nhận ra có sự thay đổi trong người mình. Thỉnh thoảng lại thấy mệt mỏi, buồn ngủ chứ không như trước nữa. Một hôm có người bảo với cô: “Có con rồi thích không?”. Cô bẽn lẽn đưa tay lên bụng như một cô gái mới lớn biết làm duyên. Niềm vui sóng sánh trong đôi mắt người đàn bà tội nghiệp.
Không ai ngờ rằng cô Sáu lại sinh ra một bé gái xinh xắn như thế. Cô bé có nước da trắng hồng, đôi mắt to đen láy. Nó chẳng giống cô. Nhìn đôi mắt ấy thì không thể giống cô được. Người làng đến thăm cô rất đông. Hiếu kỳ và đầy lo lắng. Thế nhưng tất cả sự lo sợ của họ qua đi khi đứa trẻ không giống một người đàn ông nào trong làng này. Người ta cười hạnh phúc với niềm hạnh phúc của cô. Có lẽ bố đứa trẻ là một người nào đó rất xa lạ với làng này. Anh ta đã cao chạy xa bay sau khi tạo ra một hình hài xinh đẹp. Mà cũng có thể anh ta chẳng biết mình đã để lại trong cô gái nọ giọt máu của mình. Thế nhưng có cần thiết không khi mẹ con cô đang sống thật vui vẻ trong vòng tay của người thân và bà con làng xóm.
*
Mẹ tôi chết. Một cái chết nhanh và nhẹ như cuộc sống của mẹ. Sáng đó mẹ cũng dậy sớm để đi lấy môn ngứa, thế nhưng vừa ra đến bể nước để rửa mặt thì mẹ thấy chóng mặt rồi ngã vật ra. Đến khi mọi người phát hiện được thì mẹ đã không còn nữa. Mẹ tôi bị trúng gió. So với sức vóc ấy thì cái tuổi năm mươi mẹ còn trẻ chán. Thế mà một cơn gió độc đã mang mẹ đi mãi mãi. Tôi về đúng vào lúc người ta làm lễ nhập quan cho mẹ. May mắn cho tôi khi vẫn còn được nhìn mặt mẹ lần cuối. Vẫn vẻ mặt ngây ngô ấy mẹ ra đi. Nỗi đau ứ trong lòng mà tôi không khóc được. Ai cũng nhìn tôi lạ lẫm nhưng lại không dám tỏ vẻ gì. Người ta kính trọng cái danh nhà văn của tôi. Bài điếu văn dài dằng dặc vang lên, tôi không hiểu được lời nào. Không biết có phải tất cả những bài điếu văn đều dài như thế hay là bài điếu văn ấy chỉ dành cho mẹ của một nhà văn?! Người ta còn làm sẵn cho tôi một bài khóc mẹ. Cậu tôi, ông cậu đã kịch liệt lên tiếng đẩy tôi xa mẹ, nói nhỏ vào tai tôi: “Con xem bài văn ấy có được không?. Tôi chua chát liếc qua trang giấy, ậm ừ cho qua chuyện. Rồi thì sau đó tiếng khóc bỗng rống lên. Hình như là người khóc mướn. Cậu tôi đã chuẩn bị tất cả. Cậu sợ tôi xa mẹ lâu sẽ không có tình cảm, như thế tôi sẽ chẳng thể nào khóc được. Mà đám ma không có tiếng khóc coi sao được.
Người khóc mướn bỗng nấc lên190
Jul 22, 2008
Saigon Pull
Cách một mặt hồ hẹp từ chỗ nhà tôi ở ngay trung tâm Hà Nội là một khách sạn xấu xí tên Saigon Pull. Xây dựng cách đây bốn năm, khách sạn này là một sàn disco nổi, một con tàu đáy phẳng đèn chớp lòe loẹt phát ra những tiếng nhạc chói tai đến tận 3 giờ sáng mỗi ngày. Mặc dù tôi đã thử nhét những nút giấy báo vào tai, tiếng nện đều đặn thùm thùm thùm vẫn cứ lọt vào. Một lần tôi thậm chí đã thử quấn băng kín khắp đầu.
Nhưng khách sạn này không chỉ tòan sự bực mình, thật ra nó cũng là một món bở. Cô con gái duy nhất của tôi làm tiếp viên ở đó. Nó mang về nhà trung bình cũng đến 15 dollars mỗi đêm, bằng cả nửa tháng lương thầy giáo.
Với khoảng thu nhập này, tôi không phải bước ra khỏi nhà nữa. Lúc trước, khi Lài chưa đi làm, tôi nuôi gia đình bằng nghề bán quẹt Zippo cộng với một khoảng lương hưu còm cõi.
Tôi có một vài câu tủ để khắc lên mấy cái quẹt Zippo. Câu mà tôi ưa thích nhất là câu này: "When I die burry me upside down so the world can kiss my ass."
Câu đó có thể dịch ra như thế này: "Khi tôi chết, hãy chôn tôi chỏng ngược đầu để thế giới có thể hôn lỗ đít tôi."
Tôi thường ngồi trên lề đường đối diện khách sạn Metropole, với sáu cái quẹt Zippo bày lên một chiếc khăn tắm trải dưới đất. (Có thêm khoảng một tá khác ở trong cặp). Tốt hơn hết là không nên bày tất cả ra. Như vậy trông hàng hóa mới có vẻ khan hiếm. Tôi bán khoảng năm, có khi sáu dollars một chiếc.
Có lần một gã khách lạ với vẻ xúc động cực độ, nước mắt lưng tròng, đã đưa tôi đến hai mươi dollars mặc dù tôi ra giá chỉ có mười dollars.
Tôi biết chạm khắc lên đủ loại vật dụng, với một giá thỏa thuận, khi thì một bức tranh nhiệt đới, khi thì một họ tên, hoặc một hai câu đơn giản bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp. Chẳng hạn trên cái bút nhựa rẻ tiền: cảnh một cây dừa trĩu quả, một mặt trời đang lặn xuống biển và ở phía bên trên là câu này: "Good night, My Love!"
Bây giờ thì tôi ở nhà cả ngày coi sóc Tuấn, thằng cháu ngoại ba tuổi. Chỉ có ba người trong gia đình: tôi, Lài, và Tuấn.
Tuấn là một thằng nhóc to xương và khôn trước tuổi. Nó đã có thể đọc làu làu bảng chữ cái, cả ngược và xuôi, rồi đếm đến một trăm. Tôi dạy Tuấn một vài từ độc đáo. Có lần lão Trương hàng xóm sang chỗ tôi uống bia, tôi bảo: "Tuấn, nói cho ông Trương nghe, cái gì ở trong cơ thể người?"
Tuấn nhìn tôi vẻ ngơ ngác. Tôi động viên: "Nói đi, cái gì rất nhỏ mà không ai thấy được đấy."
Nó vẫn chưa hiểu ý. Tôi gợi ý: "VVVVV!VVVVVVVVVV!"
"Vi trùng."
"Đấy, ông thấy không," tôi nhìn lão Trương, "nó đã biết từ "vi trùng" rồi đấy!"
Lão Trương cười ngặt nghẽo. Con mắt độc nhất còn lại của lão hí lại, kéo dài trên sóng mũi. Miệng lão gần như cắt đứt khuôn mặt lão ra: "Thằng bé này nói tiếng Việt xuất sắc."
Được thể, tôi chỉ vào bức ảnh trên tường: "Ai đấy?"
"Bác Hồ"
"Bác Hồ thế nào?"
"Bác Hồ yêu các cháu thiếu nhi!"
Lúc lão Trương về, tôi ngẫm thấy vui vì lão Trương có vẻ thích thằng cháu Tuấn của tôi lắm, lão lại chẳng bao giờ có nhận xét dở hơi về màu da của Tuấn trước mặt tôi.
Chỉ có một lần, thấy Tuấn đá một quả bóng nhựa trên sàn, lão đưa tay lên trời hét: "Pele!"
Sự thật thì lão Trương thích nói những câu so sánh xa vời. Lão nói rằng Hà Nội ngày càng trở nên giống New York. (Lão chưa bao giờ gần New York, đúng ra thì lão chưa bao giờ rời khỏi Việt Nam). Lão gọi Lài là "diễn viên nổi tiếng" và tôi là "ông tướng." Lão bảo: "Ông trông cứ như Võ Nguyên Giáp." Thật là một so sánh ngớ ngẩn. Như có thể thấy trong tất cả các bức hình, và thậm chí tôi đã từng gặp vị tướng vĩ đại một lần, có hình trong bóp tôi làm chứng hẳn hòi, tướng Giáp có một khuôn mặt tròn, kiểu mặt cóc, trong khi mặt tôi gầy quắt, chẳng có tí thịt nào và mắt hơi lồi ra. Tôi có râu mép rậm trong khi tướng Giáp không râu. Mặc dù mũi tướng Giáp trông như bị đập giập và phẳng lì, dù sao nó cũng vẫn là một thứ phụ tùng trên mặt, trong khi tôi, rất đáng tiếc, đã bị bay mất mũi. Thêm nữa, ai cũng biết tướng Giáp chỉ cao có 1 mét 4, một trong những người lùn nhất hoàn vũ, trong khi tôi, nói có trời đất, là một gã rất cao. Có lẽ lão Trương có ý bảo tôi giống tướng Giáp vì cái khổ người bé tẻo còn lại hiện tại của tôi.
Tôi đã quyết định không gởi Tuấn đến trường. Tại sao bắt nó trở thành đối tượng cho sự tàn nhẫn của những đứa trẻ khác. Tôi bàn với Lài về chuyện này. Đến khi Lài thôi làm nghề tiếp viên thì cũng đã 25 tuổi và có thể mở một tiệm làm tóc. Chúng tôi sẽ đặt tên tiệm là "Paris By Night." Nhổ lông mày, nhuộm sấy, làm móng tay. Tuấn có thể giúp việc vặt trong tiệm khi nó khá lớn, rồi thì là một chuyên viên thẩm mỹ.
Mỗi đêm trước khi đi ngủ, tôi xoa lòng trứng lên tóc Tuấn để kéo tóc nó thẳng ra. Tôi chả rõ làm như vậy có hiệu nghiệm không, nhưng cứ thử vậy. Tôi cũng thường bảo nó xoa bóp mũi để kéo mũi cao lên.
"Làm hai mươi lần như thế."
"Nhưng để làm gì vậy ông?"
"Tốt cho mũi cháu!"
Mỗi lần tập mũi xong như vậy, tôi cho Tuấn một nắm kẹo M & M. Hàng nhập, cực đắt.
Bà Bưởi bán hàng rong ở phố bảo tôi ca sĩ Mỹ, Michael Jackson, tắm mỗi ngày trong bồn tắm sữa tươi để làm trắng da. Sữa hộp đặc không công hiệu, bà nói thêm.
Một mụ nhà quê dốt nát, bà Bưởi thường nài nỉ khách mua bánh rồi ban phát những lời khuyên bảo tân kỳ nhất về khoa học thẩm mỹ. Nhưng một bình sữa tươi đắt đến hơn một dollar. Tôi không thể tiêu tất cả số tiền Lài kiếm được vào việc mua sữa tươi. Tôi đã nghĩ đến việc chỉ mua một bình sữa nhỏ rồi xoa lên da Tuấn những chỗ quan trọng, có lẽ chỉ hai bàn tay và phía trước mặt nó, bằng một cái khăn lau mặt. Nhưng nếu áp dụng không đồng đều như vậy, nó có thể sẽ lớn lên loang lổ như một con nhái hay một nạn nhân bom Napalm. Không đáng liều như thế.
Nhưng tôi là cái quái gì để có thể gọi bà Bưởi là một mụ nhà quê dốt nát? Rõ đạo đức giả. Tôi nên gãi những cái sẹo trên mặt tôi cho đến khi rướm máu để tạ lỗi vì đã gọi bà Bưởi như vậy. Hãy chỉ cho tôi một người Việt Nam, thậm chí những kẻ au courant nhất, kể cả c’est moi, có ai mà không cách đây một thế hệ, cùng lắm là hai, cũng chỉ là dân quê mùa dốt nát?
Đấy, chính các vị cũng có thể chỉ là những tên nhà quê dốt nát như thế. Có lẽ sáng nay còn đứng chỏng đít lên trời cấy lúa, bùn ngập đầu gối. Chẳng có gì phải xấu hổ cả. Có chết thằng quái nào nếu các vị chưa bao giờ ăn kẹo M & M hay chưa bao giờ mua một cuộn giấy đi cầu.
Hãy tự hào vì bạn là một con người tự nhiên, au naturel, thứ lỗi cho tiếng Pháp của tôi. Như một con diệc hay một con trâu nước. Bạn nên hãnh diện vì bạn là một gia tài của những bài ca dao không ai còn nhớ. Bạn nên hãnh diện vì bạn là một kho tàng của những kiến thức kỳ bí mà một tên thị thành như tôi chẳng có chút ý niệm gì cả. (Nói như lão Trương, Hà Nội ngày càng trở nên giống như New York và ngày càng trở nên ít giống phần còn lại của Việt Nam). Nếu tôi coi bạn không ra gì, bạn có thể thư tôi với một cái bụng đầy ốc sên hay đặt cả một con vịt sống vào đó. Bởi vì bạn giang nắng cả ngày, chổng đít lên trời cấy lúa, bạn tráng kiện, hơi khùng khùng một chút, và da rám đen. Bạn cũng biết màu da không phải là một cái gì tuyệt đối, không thay đổi được. Màu da là cái quái gì nếu không chỉ là những con vi khuẩn có thể tẩy sạch bằng hóa chất thích hợp?
Khi tôi đề ra ý kiến mở tiệm uốn tóc, Lài có vẻ bối rối, thậm chí có phần hoảng sợ. Khi bực mình điều gì, môi Lài hơi trề ra như thể nó đang sắp phải hôn một người mà nó không muốn hôn. Đầu nó hơi ngửa ra, mắt chớp nhanh. Một con jolie laid, con Lài của tôi. Tôi trấn an Lài: "Đừng lo, đừng lo, bố hứa là bố sẽ chẳng bao giờ chường mặt ra tiệm đâu."
"Bố nói gì thế?" Nó phản đối, đầu ngửa ra, mắt chớp nhanh.
"Ấy, thì đó là một chỗ đẹp đẽ. Ai lại muốn trông thấy một con quái vật xấu xí ở đấy?"
Sự thật là thế hệ trẻ có rất ít khoan dung đối với sự xấu xí, đối với tất cả những gì tồi tàn, thương tật hay không ăn ảnh. Tất cả những nhắc nhở về cuộc chiến tranh làm chúng bối rối. Cuộc chiến tranh chính nó là một sự xấu hổ. Một sai lầm khổng lồ. (Và chúng nó đúng, dĩ nhiên, nhưng chúng oán trách những người như tôi vì đã tham dự vào cuộc chiến đó như thể chúng tôi đã có thể chọn lựa). Bây giờ chúng thấy những người Mỹ thân thiện rủng rỉnh tiền bạc trên đường phố mà không thể hình dung ra rằng chúng tôi đã từng chiến đấu chống Mỹ.
Mỗi đêm mất ngủ nằm trong mùng cạnh thằng cháu, tôi thường nhớ lại quãng đời bình thường nhưng chông gai. Cho đến lúc này, ở tuổi 53, tôi mới biết thế nào là sự buồn chán, một thứ yên bình, nếu không muốn nói là hạnh phúc. Tôi thường nghĩ về vợ tôi, về bốn đêm ăn nằm của chúng tôi. Có những người đàn ông được số phận sinh ra để tận hưởng vô số đêm yêu đương. Số phận của tôi là bốn đêm yêu đương. Thịt đâm vào thịt nhớ nhau suốt đời, người ta nói như vậy. Mỗi đêm mỗi khác nhau. Trong những cách nào đó, có thể là một sự may mắn vì Thế Uyển, người vợ mà tôi chẳng biết bao nhiêu, đã qua đời được hai năm ngày tôi trở về từ cuộc chiến tranh. Tôi đã trở thành một của nợ, vô dụng, tàn phế.
Có lúc tôi nhớ về những ngày ngắn ngủi ở Huế, thành phố duy nhất ngoài Hà Nội mà tôi biết; hay về vụ tôi lừa quả thối một nhà báo Quân Đội Nhân Dân, bịa chuyện tôi đã ép một xe tăng của quân Cộng Hòa đâm vào chính lô cốt của chúng như thế nào - "Ôi, giá mà cô nghe được tiếng chúng nó kêu thét lên"; hay nhớ về vụ chúng tôi phát hiện một xe nhà binh Mỹ lật bên vệ đường với tên tài xế đã chết, và nỗi vui sướng của chúng tôi khi tìm thấy cả một thùng xe đầy thịt hộp và trái cây; hay nhớ về lần tôi dẫm lên một tên lính Mỹ nhưng đã không bắn hắn, và chuyện đó đã làm tôi mất ăn mất ngủ như thế nào cả mấy tuần liền; hay chuyện một két whisky mà tiểu đoàn tôi tìm được trong một căn cứ bị chiếm của quân Cộng Hòa.
Lúc mới ra trận, có lần tôi đã tưởng một dải thòng lòng vắt vẻo trên ngọn cây là ruột người. Màu xám hồng và ri rỉ máu. Tôi hoảng sợ đến nôn thốc nôn tháo. Khi tôi kể chuyện này với những người lính khác, tất cả bọn họ đều cười: "Đấy là một con rắn, thằng đần!"
Thường thì Lài không về nhà cho đến tám giờ sáng hôm sau. Những người nước ngoài và Việt kiều thích đi ngủ trễ, nó bảo. Và thường thì họ thích trò chuyện chút đỉnh khi thức dậy, dù có phải trả thêm chút tiền, nó nói thêm.
Thực ra tôi chẳng bao giờ vặn hỏi Lài về công việc của nó, nhưng đôi khi có những chuyện mà nó kể cho tôi. Chúng tôi đã thỏa thuận là Lài không bao giờ tiếp khách ở nhà. (Có mặt Tuấn, đó sẽ là một điều vô đạo đức).
Tuy vậy có lần một gã Việt kiều đến nhà vào một đêm Lài nghỉ làm và van nài khẩn khoản xin được vào. Mặc dù rất say, gã trai trẻ không hề tỏ vẻ vô lễ. Sau một lúc bàn bạc, chúng tôi quyết định, thôi thì nhằm quái gì, cứ để thằng con hoang khốn khổ vào nhà.
"Cám ơn bác, cám ơn bác lắm," gã Việt kiều nói bằng giọng Quảng Ngãi đặc sệt, cúi rạp xuống như một con rối, hai bàn tay múp míp chắp lại trước ngực.
"Chưa phải Tết, miễn lạy!"
"Cám ơn bác!"
"Cứ coi chúng tôi như người nhà!"
Thế, bốn mạng người chúng tôi ngủ trên hai cái giường trong căn nhà một phòng. Gã Việt kiều, quần áo nguyên trên người, nằm ôm lấy Lài như thể Lài là cái phao cuối cùng còn nổi bập bềnh trên biển Hải Nam, lũ cá mập trắng đang bơi lội dưới gầm giường. Hắn lầm rầm kể lể chuyện đời hắn, một chuyên gia đổ rác ở Miami, rồi bỏ đi trước lúc mặt trời mọc.
Sau khi gã Việt kiều ra về, thằng ranh con Tuấn hỏi: "Ông ấy là bố con phải không ạ?"
Mặc dù Saigon Pull cách nhà chúng tôi đúng một sải ném đá, thường thì Lài phải mất mười lăm phút để lái quanh hồ trên chiếc Dream của nó. Tôi luôn nhận ra mỗi khi nó về bằng vào tiếng sủa cuống cuồng của con chó cái Pekinese nhà lão Trương. Lài thường mang một vài món gì đó mua từ chợ, khi thì xôi lạp xưởng, bánh mì paté, khi thì bún thịt nướng. Thỉnh thoảng nó mang về mấy tờ báo hay tạp chí ngoại quốc.
Mặc dù tôi thưởng thức tất cả những bức hình trong các tạp chí, thậm chí cả những bức quái dị: như cảnh bài trí một căn phòng tắm trong một bức ảnh quảng cáo xà phòng, hay cảnh một cái đầu hươu lông lá treo bên trên lò sưởi, những bức hình hấp dẫn tôi nhất là những bức hình chụp tai nạn và thiên tai: hình một chiếc xe đua bốc cháy, một cuộc nổi loạn, một người bị còng tay... Đấy là chỉ để biết chắc rằng những người ngoại quốc cũng đau khổ, ở ngay trên đất nước họ, vì những người ngoại quốc ddến đây, năm 1995, không biết đau khổ là gì.
Trên hình bìa của tờ Bưu Điện Băngkok tuần trước là tấm ảnh chụp một người đàn ông đội beret đỏ, quần khaki, áo thun trắng, đang chỉa khẩu SA-93 của Bulgary vào một người đàn ông khác nằm trên mặt đất, trần truồng, ngoại trừ một đôi tất xanh ở chân. Tôi đã thấy chiến tranh, nhưng tôi chưa bao giờ thấy chiến tranh một cách trắng trợn như vậy. Tôi chẳng rõ đấy là ở nước nào. Nhưng cả hai người đàn ông đều da đen nên có lẽ là ở Phi châu. Người đàn ông trần truồng che hạ bộ bằng một tay trong khi cố gắng ngăn cái chết không tránh được bằng tay còn lại. Một chiếc tất tuột lủng lẳng nơi chân. Cạnh đó, năm thiếu niên núp sau một bức tường đang chứng kiến màn trình diễn công cộng này với những đôi mắt dè chừng.
Tôi chỉ thấy người da đen một lần duy nhất ở khoảng cách gần. Đó là trong một cánh rừng gần Pleiku. Chúng tôi vừa phục kích một toán tuần tra Mỹ và đang ra sức thu lượm vũ khí từ những xác chết trước khi trực thăng đến. Tôi dẫm lên một khúc cây đổ lên cái gì đó mềm mềm. Một cái gì đó rên rỉ dưới chân tôi. Đó là một người lính da đen bị thương khá nặng, máu chảy đầm đìa nhưng hãy còn tỉnh táo, cánh tay phải của anh ta đã văng mất. Cho đến bây giờ tôi hãy còn nhớ khuôn mặt của người lính: anh ta có những mụn nhỏ kỳ quặc phía dưới má và một chỏm râu dê lưa thưa. Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt cũng đang nhìn trừng trừng vào tôi. Không có ai ở gần kề. Tôi tiếp tục bước đi.
Khi Tuấn sinh ra, tôi lập tức nghĩ đến người lính da đen tôi đã không giết. Một trò đùa của thuyết luân hồi: tôi đã thích người da đen trước kia quá, thì đây, bây giờ tôi có thêm một đứa da đen nữa. Tôi cười như điên đến nỗi trong bệnh viện, người ta tưởng tôi điên.
Chuyện đó đã làm phiền tôi suốt mấy tuần, sự kiện tôi đã không thể bắn người lính đó. Tôi là một người lính như thế nào nếu tôi đã không kết liễu kẻ thù?
Nhưng khuôn mặt đó cứ trở đi trở lại, một khuôn mặt không biểu lộ sợ hãi hay thách thức, với những mụn nhỏ dưới má và một chỏm râu dê lởm chởm. Nếu có một biểu hiệu nào, thì đó là sự bối rối. Như thể anh ta chỉ vừa thức giấc và ngạc nhiên nhìn thấy tôi đứng bên cạnh. Một phản ứng khá nữ tính, tôi kết luận, để cảm thấy bối rối sau khi đã bị xâm phạm. Đấy là bởi vì anh ta đã bị bắt gặp trong một tình thế thỏa hiệp, một cách rõ ràng nhất, cũng như tôi vậy. Cứ như thể tôi đã bước vào nhà vệ sinh mà không gõ cửa và bắt gặp anh ta đang ngồi chồm hổm trên cái lỗ xi măng. "Xin thứ lỗi, thưa ngài." Nhưng tại sao hai chúng tôi đã phải ở trong cánh rừng tan hoang đầy muỗi đó trong một buổi chiều mùa hè nóng không thể tin được? Anh ta với một cánh tay đã biến mất và người vùi trong bùn? Còn tôi với hai chân sắp sửa bị thổi bay đi mãi mãi?
Jul 18, 2008
Chiều Nay Em Nhận Được Thư
Chỉ tờ thư mỏng, ơ hay !
Mà sao cặp nặng hơn ngày hôm qua ?
Sao hai tà áo la đà
Quấn bên chân cứ như là ... gió trêu ?
804
Jul 17, 2008
Chuyến xe thời gian
Một mùi lạ tạt qua mũi, anh tỉnh cơn gà gật. Mùi thơm son phấn. Nói đúng hơn, một thứ mùi son phấn ngầy ngậy, nồng nàn, tựa hồ trộn lẫn chút mùi mồ hôi mỡ màng beo béo hay sao ấy? Đầu vẫn gục trên cổ, anh nhướng mi, đỏ nhìn qua phía trái chỗ mình ngồi. Một cặp đùi đồ sộ căng bóng dưới lần xoa ngoại màu cánh trả, hầu như đen thẫm, xếp bên nhau song song như hai quả dưa hấu đập vào luồng mắt còn lơ mơ ngái ngủ. Anh khẽ cựa mình vì thấy một bên vai bị lấn ép. Vai anh liền được giải toả khi người ngồi cạnh vừa hơi xoay mình, duỗi cánh tay, rồi một bàn tay nung núc với những ngón chũn móng tô nhũ bạc óng ánh hơi xoè ra úp chụp lên một bên đùi, chiếc đùi béo nục với chiếc cầu gối cũng u lên tròn vo, càng nom càng giống hệt quả dưa hấu cỡ bự. Hai chiếc nhẫn vàng, mặt ngọc xanh ngọc đỏ cũng to bự, tôn thêm ở bà ta vẻ giàu sang phú quý.
Đầu vẫn cúi, gà gật, anh cưỡng lại ý muốn liếc ngang sang, chỉ cố đoán già đoán non bà mệnh phụ mà sự tình cờ đã đặt ngồi kề cạnh mình, tuổi phải ngót nghét năm mươi. Mu bàn tay đã sần sùi lên thế kia, phấn đóng thành vẩy trắng, nhìn kỹ mà xem. Bà ta lên xe từ lúc nào ấy nhỉ, chà chà, mình vừa chợp một giấc say quá thế.
Trong anh gợn lên một chút hổ thẹn với chính mình. "Phổi bò!". Hoá ra cái náo nức ban đầu của mình cũng chỉ là phổi bò, một cái gì vẫn như hời hợt giả tạo. Chiếc xe ca sơn xanh da trời với những vạch vàng vạch đỏ chạy dài, hầu như mới, trông đỏm dáng, khá sang trọng, khác hẳn cái dáng cũ kỹ bệ rạc của những chiếc xe miền Bắc từng trải qua bom đạn, sau chặng nghỉ ăn tối ở Đà Nẵng, đã khẩn trương lên đường lại, lúc ấy khoảng mười giờ đêm. Bon bon lướt trên con đường nhựa huyết mạch của chiến tranh được bảo dưỡng khá tốt, nó tiến nhanh với tốc độ đều đều về phía Nam. Dường như nó cũng muốn đáp ứng cái hào hứng của anh, người cán bộ " Bắc việt". muốn được sớm tận mặt thấy một nửa miền đất nước mà chỉ dăm ba tháng trước đây, đối với anh cũng như đồng bào miền Bắc, còn là nơi đất cấm không thể nào mơ ước đặt chân lên. Lúc bình minh vừa rạng, nhìn ra trước, chênh chếch về phía trái, một dải lụa mờ trắng lô xô tiến ập về phía chiếc xe. Chao ôi! Biển! biển! Những làn sóng bạc đầu kéo dài như dải lụa ấy, cung với cảnh hứng đông, càng lúc càng sáng trắng lên lấp lánh, sôi trào đồng thời, mầu nước biển ngoài kia chuyển nhanh từ tím thẫm sang mầu tím ngát rồi làm tím. Lần đầu tiên anh thấy con đường quốc lộ 1 đi sát gần biển Đông đến thế. Chao ôi, giá lúc này có nhảy ra khỏi xe, thở căng lồng ngực mà lao ra chạy như một lực sĩ điền kinh giữa khoảng trời thênh thang phóng khoáng! Hít thở cái bầu trời Nam vừa thoắt trở lại thanh bình! Nuốt tràn tim tràn phổi cái màu biển tím làm ngan ngát! Nhìn cho no mắt những rặng dừa, vườn dừa rừng dừa ken sít, những dòng sông xanh leo lẻo miền Nam Trung Bộ, những dáng thá Chàm ẩn hiện như trong mơ! Thế rồi, mệt nhoài vì bao cảm giác, ấn tượng dồn dập anh gục đầu thiếp đi lúc nào không biết.
Xe đã dừng đổ khách ở chỗ nào ấy nhỉ, anh tự hỏi. Ngồi cạnh anh lúc sáng sớm ở phía trái là một ông già cơ, ừ đúng, một ông già âu phục màu ghi là thẳng tặp diêm dúa, cùng đi với vợ, bà ngồi cạnh cửa sổ xe. Lúc này ngồi thay vào chỗ của ông là bà mệnh phụ to béo đồ sộ này. Phía bên trái bà ta, cạnh cửa sổ, cũng là một người khác mới, một phụ nữ, chắc hẳn trẻ hơn, anh đoán thế, căn cứ vào chiếc tà áo dài bằng crếp mịn màu thiên thanh. Trên tà áo dài ấy, anh thấy một chiếc làn đan bằng thứ sợi gì trắng ngà mềm óng (Sau này mới biết người ta gọi là lá buông). Nắm nhẹ nhàng lên quai làn là hao bàn tay nhỏ nhắn, các đầu ngón hồng hồng đan chớm lên nhau. Anh chú ý thấy móng tay để tự nhiên, không tô nhuộm. Chủ nhân hai bàn tay này - anh trở lại với cái thói quen hay xét đoán - phải là người trên dưới ba mươi tuổi, cầu cho cô ta không quá ba một ba hai! Cổ tay không tròn mọng nữa, nhưng da dẻ vẫn còn mịn màng. Và cái tư thế hai bàn tay khẽ ấp lên trước làn vẫn còn đượm một dáng vẻ yêu kiều gần như quý phái.
Anh khẽ cựa mình lần nữa bả vai của bà mệnh phụ lại lăm le lấn chiếm. Bà kia né vai, hơi quay mặt nhìn anh có cảm giác trong ánh mắt liếc nhìn ấy có một cái nguýt ngang. Xin lỗi, xin lỗi. anh trả lời thầm, tôi không hề có ý ganh tị hoặc bực bội với sự phì nộn, trời cho của bà. Lỗi tại chiếc ghế quá chật. Nhưng tại sao từ đầu bà không giành lấy chỗ ngồi cạnh cửa sổ, vắt cánh tay lên thành xe, có phải thoải mái hơn không . Bà là thế nào với cô ta, mà lại phải chen vào giữa, cách li cô ta với tôi. Một bảo vệ hoàn toàn không cần thiết, cam đoan với bà thế.
Lúc này xe lại đi qua một quãng đường giáp biển. Trời, cái màu biển quê hương dưới một bầu trời Nam nhiệt đới sao mà biếc xanh da diết. Anh chợt nẩy ao ước, giá như xe lúc này tạm dừng, hoặc chết máy cũng được, cho mình xuống ngắm nhìn chốc lát. Hoặc giả như mình đổi chỗ cho người phụ nữ trẻ kia, ló cổ ra ngoài thành xe, hít thở khí lành. Cái mùi thơm nồng nàn mặn mà toả từ bà mệnh phụ ngồi cạnh quả là ngột ngạt. Đã thế, anh không dám quay đầu, cựa mình lần thứ ba, sợ gây phản ứng. Cổ anh cứng ngắc.
Một lúc nào đó, đến lượt hai quả dưa hấu cụ cựa cụ cựa dưới lần xoa căng bóng bọc ngoài. Rồi chủ nhân của nó nặng nề, cẩn trọng cúi hẳn người quờ sửa cái gì đó nơi sàn xe, có lẽ bà ta nới bớt quai dép để giải phóng bàn chân ngồi lâu sưng thúng. Cơ hội ngàn năm có một! Anh ưỡn ngực, vươn người, quay lắc vai bên này bên kia. Cũng thừa dịp may hiệm có này, anh ném cái liếc nhìn về phía người phụ nữ trẻ mặc áo dài màu thiên thanh và có dáng điệu thanh cao quý phái. Thốt nhiên trán anh thoáng một luống lạnh toát. "HIền!"
Có đúng là lúc bấy giờ miệng anh đã cất lên tiếng gọi hâu như thảng thốt? Giờ đây, mười mấy năm sau, anh vẫn còn băn khoăn vật vã với câu hỏi ấy. Giây phút ấy sống lại trong anh như một cơn mơ. Trong mơ, ta nói chuyện với người khác, có lúc to tiếng tranh cãi nữa, mà vẫn cảm giác như không hể mở miệng. Cả người đối thoại với mình nữa, ta nghe họ tranh cái với những lời nói rành rọt, những giọng điệu bổng trầm biểu hiện tình cảm hết sức rõ ràng mà thật ra không hề thấy người kia máy môi lấy một chút.
Còn người phụ nữ trẻ kia, có đúng là Hiền. Trang Hiền của anh chăng? Có đúng là cô ta đã lặng lẽ đáp lại tiếng kêu thảng thốt của anh bằng một tiếng "chào anh" bình thản, thản nhiên không nhỉ?
Giấy phút ấy thoáng qua rất nhanh. Một ánh chớp. Một cơn mơ. Trầm lặng và khắc nghiệt. Và mệnh phụ đã trở về với từ thế cũ, ngồi ngay ngắn, đồ sộ, tạo một bức thành cách ngăn vững chắc giữa quá khứ và hi
ện tại.
Hiền, Trang Hiền, anh kêu thầm trong đầu óc nóng bừng dưới làn da trán lạnh băng, có phải chính em là Nguyễn Thị Trang Hiền đó chăng. Em ngồi bên tôi, cách nhau trong gang tấc mà biệt xa vời vợi, nhự bị phân cách bởi cả một đại dương. Có phải chính Trang Hiền, người từng biết cho tôi những dòng tha thiết: "Em yêu anh mãi mãi, không bao giờ thay đổi", những dòng thư mà tôi đã thả trôi trên một dòng sông xanh, với bao ý nghĩ buồn vui nào đấy không rõ rệt?
"Chào anh". Phải chăng Hiền đã đáp lời anh như vậy. Đó là tiếng chào gặp mặt hay tiếng chào giã biệt.
Thản nhiên, không âm sắc, không vui không buồn. Thà như Hiền lạnh lùng, hoặc giận dỗi, uất hận, hoặc thậm chí căm ghét tôi đi. Mà có phải chính Hiền ngồi đó không đã. Hay tôi trông nhầm, một ảo ảnh. Hay tôi nghe nhầm một khuyết tật của thính quan, chung quy cũng chỉ là ảo giác.
Hai bên giã biệt nhau từ lúc nào ấy nhỉ. Và giã biệt cách thế nào, nhiều năm tháng rồi, anh hầu như không còn nhớ. Dường như tình yêu cứ phai nhạt dần, thời gian như một chất nước không màu sắc không mùi vị, pha cho những tình cảm mê say nhất cũng loãng dần, loãng dần. những cuộc gặp gỡ, thừ từ qua lại ngày càng thưa thớt, rồi một lúc nào đó ngừng hẳn, lua nào, anh cũng chẳng để ý. Mà chắc phía Hiền cũng vậy. Một thứ thoả thuận ngầm, một quy ước không thành văn.
Cựa quậy. Lần này thì chính bà mệnh phụ cựa quậy vai trước, cứ như bị người đàn ông gầy gò ngồi cạnh là anh xâm lấn. Anh ngồi thẳng lên, hơi cứng người lại, coi như mình có lỗi. Mặc dù vậy, vẫn không ngăn được cái quay đầu khẽ. Để tránh gây ấn tượng mình quay nhìn, để tỏ ý khó chịu và như thế là không lịch sự, anh đưa luồng mắt ra phía cửa sổ xe, làm như đang ngắm cảnh. Anh thấy một cánh tay thon thả trong ống màu thiên thanh chuồi ra vắt ngang lên thành sổ xe. ý chừng Hiền cũng đang bị chèn ép như mình. Bà ta là gì với Hiền ấy nhỉ. Mẹ đẻ hoặc chị, chắc không phải rồi. Chẳng cần nhìn thẳng mặt, anh hình dung bà béo ị có một khuôn bán diện rất thô, mũi cà chua, cằm bạnh nục nặc. Vậy thì mẹ chồng chăng? Hay chỉ là bạn đường ngẫu nhiên, cùng lên một chuyến xe?
Mu bàn tay Hiền đã thoáng nổi gân xanh, anh nhận xét. Có thể nào khác được. Mười mấy năm rồi. Thời gian và cả những thăng trầm cuộc sống. Có mỏng đi chút ít, nhưng cổ tay hiền vẫn trắng trẻo mượt mà, móng không tô nhuộm gợi một vẻ đẹp tinh khiết. Giá mình được nắm lại bàn tay ấy, dù là một lần cuối, đặt nhẹ môi lên những ngón tay thân thuộc yêu thương chứa đầy kỷ niệm.
Hồi bấy giờ hiền còn là một nữ sinh học trường miền Nam, mười bảy tuổi. Hay nói hay cười. Có vẻ thích bàn cãi để làm ra vẻ người lớn. Chuyện xẩy ra tại căn phòng nhỏ gia đình dành cho tôi, trước là phòng học, nay là phòng làm việc tại nhà (tôi viết bài cho một chuyên san). Hiền đến chơi, trả sách, lao vào một cuộc tranh luận. Về nội dung cuốn truyện tính cách nhân vật, hay, to tát hơn, về ý nghĩa và triết lý cuộc đời? Không còn nhớ nữa. Tôi ngồi yên lặng nghe, thỉnh thoảng chêm câu bình luận thoáng ý châm biếm hoặc phản bác, với tư thế một người anh lớn tuổi - mình hơn Hiền mười tuổi chứ ít à, ấy là chưa kể đã từng trải nghiệm tình yêu, từng biết một người phụ nữ - chỉ cốt kích thích thêm cuộc bàn cãi. Tôi thích nghe giọng nói của Trang Hiền, trẻ trung trầm bổng, đượm màu xanh biếc của biển Nha Trang quê Hiền như trong trí tôi tưởng tượng.
Cái chân lý được tuổi mười bảy hết lòng bảo vệ, chẳng hiểu nó chính xác vững vàng được đến mức nào, chỉ biết là đầy tự tin, hào hứng. Càng nói, Hiền càng có vẻ tin chắc ở lý lẽ của mình, gò má càng ửng lên, mặt lóng lánh, có lúc Hiền khua cả hai tay làm điệu bộ để thêm sức mạnh cho lời nói. Một lúc nào đó, thấy hiền vừa đặt tay lên bàn, tôi liền ép bàn tay cô gái. Cô muốn hiểu thế nào thì hiểu! Phải, có lẽ tôi chỉ muốn làm dịu cái hăng tranh cãi của cô thôi. Cô nói nhiều rồi, hãy cho phép tôi có ý kiến lại chứ. Đang đà nói, Hiền không dừng lại. Tôi ép mạnh tay hơn. Và kìa, chẳng biết tại sao, giọng nói cô gái tự dưng bổ xiêu. Cứ như thế, những lý lẽ của cô, đang vững vàng là thế, bỗng nhiên bị hẫng mất chân đứng, đổ nghiêng dần. Giọng Hiền yếu ớt hẳn đi, rồi im bặt. Tôi lặng lẽ nhìn thẳng vào mặt Hiền. Dưới làn mi cong cô gái, tôi nhận thấy một ánh phân vân lưỡng lự. Tôi cầm nâng tay Hiền lên, dùng cả bàn tay kia của mình ép chặt. Khoé miệng Hiền chợt nhếch khẽ rung rung như cười, mắt mở tròn ngó thẳng vào mặt tôi. ý nói: Anh làm cái gì kỳ vậy. Cho anh thiệt là táo tợn.
Những đường phố Hà nội rợp bóng cây hoặc ủ bóng đêm trở thành những con đường thân thuộc đi về của tình yêu. Tình yêu với mọi miền hạnh phúc và mọi nỗi băn khoăn dần vật của nó, thổ lộ ra hay phong kín...
Đường Lý Thường Kiệt. Giêng hai năm ấy, tôi còn nhớ, rét nhiều. Mùa xuân còn chần chừ, chỉ mới đăng ký trên tờ lịch. Tiếng động thành phố trầm hẳn, như bịt bùng trong chăn. Lá cành run rẩy. Tôi và Hiền lặng lẽ sóng bước. Hiền cất tiếng:
"Anh coi, cây hai bên đường cũng chụm vào nhau để đỡ rét".
"ồ nhỉ".
Hiền đứng dừng, ngắm một chút, rồi bằng cái giọng Nha Trang nhẹ nhàng trầm bổng:
"Nó lại nghiêng mình nữa, anh thử nhìn coi".
Náo nức như vừa phát kiến điều gì mới, Hiền kéo tôi ra mép vỉa hè. Quả thật, hai dẫy cây hai bên đầu ngả chênh ra phía đường chút ít, vươn cành lá mịt mùng giao trộm vào nhau. Tôi ngạc nhiên: mình qua đường phố hàng trăm lần, chưa bao giờ để ý hiện tượng đó.
"Dễ thường người ta dụng ý trồng nghiêng ra một tý. Để lấy bóng mát cho mặt đường".
"Nếu vậy, phải cho nghiêng vào trong này mới phải chớ. Người đi đường cần bóng mát hơn xe cộ".
"Hiền nói đúng". Tôi bật cười. Giọng tôi ẩn ý trêu cợt: "Hiền bảo anh mắc cái thói tật trí tuệ, hay suy nghĩ lật ngược vấn đề. Chính em cũng hay "lật ngược". Nhưng lần này em hoàn toàn có lý".
Hiền quay sang, hai má đỏ hửng. Mắt Hiền nhìn tôi tha thiết:
"Em muốn thấy anh cười như vậy. Em, muốn giữ hình ảnh anh vui, khi anh ở xa em... anh có thấy gốc sầu to bự đằng kia không? Tán lá xùm xoè gục xuống, như cái đầu nặng trĩu, mấy cành to tự như cánh tay nâng đầu, mệt nhọc dữ!".
Mắt ánh tìa ranh mãnh, Hiền tiếp luôn:
"Nghĩ ngợi là hại người lắm đấy! Em nói vậy có đúng không? Em thấy anh hay buồn. Anh đang nghĩ gì vậy? Chắc anh lại sắp nói ra câu hỏi: Vì sao em yêu anh? Chán chết đi được ấy!".
"Hứa với em, từ rày anh sẽ không bao giờ lật lại câu hỏi "chán chết" ấy nữa. Tôi ôm một bên vai Hiền, kéo vào mình, khẽ thì thào. Miệng tôi ghé sát tai Hiền, tôi nghe hơi ấm của làn má hây hây đỏ, cảm thấy lớp lông tơ mượt mà trên bầu má ấy mơn man da mặt mình.
Bao nhiêu mùa xuân đã qua đi. Còn chăng lớp lông tơ óng mượt trên đôi má. Hồi nãy, trong con mơ thoáng gặp, anh có ấn tượng nước da Hiền, nếu đúng đó là Hiền, chưa hề có dấu hiệu gì khô ráp. Giá mình đặt lại được một cái hôn nhẹ, dù chỉ bằng tưởng tượng, trên bầu má vẫn còn vẻ mịn màng tươi tắn ấy. Anh rướn người ra trước thêm tí chút, làm như muốn nhìn rõ hơn phong cảnh bên ngoài. Bà béo bên cạnh bất thần cựa quậy, cũng rướn người ra, cái đầu tóc to sù uốn quăn của bà che lấp hẳn khuôn mặt thiếu phụ trẻ. Cái bà này, bà là ai mà kỳ cục. Con đáng mặt mệnh phụ không, hay chỉ là loại dân phê buôn bán tầm thường. Sao bà vô lý vậy. Mẹ chồng hay chị chồng mà nỡ bảo vệ cô ta kỹ càng đến thế.
Thốt nhiên, toàn bộ cái khối thịt của bà ta hung tợn xô ngang vào anh, mạnh không thể tưởng tượng được. bị đẩy bật, anh suýt ngã ngồi ra sàn xe, chỗ lối đi. Đến lượt anh ta lại xô mạnh vào khối thịt bà ta. Trong xe, mọi người nhốn nháo. Lát sau mới hoàn hồn. Chiếc xe khách muốn tránh vật cản gì đó, hình như một chiếc xe ngựa đột nhiên dở chứng, đã lái ngoạch qua ngoạch lại như điên. Suýt nữa xẩy ra tai nạn. Bình tĩnh lại, một ông hành khách nào đó, giọng Quảng Ngãi nặng chịch, oang oang kể chuyện có chuyến xe khách muốn tránh một con trâu vọt ngang đường đã đâm thẳng vào một cặp vợ chồng trẻ đèo nhau bằng xe máy. Cả xe bàn tán lao xao.
Một đêm tôi đi cùng Hiền trên đường phố vắng. Lúc tạt qua một ngã ba, bất thình lình có chiếc xe con lao tới. Tôi chỉ kịp lôi Hiền trở lại. Hú vía! vành chắn bùn phía sau gạt ngang qua hai người, cái gì đó móc rách toạc túi áo Hiền. Hiền chỉ cho tôi xem, vẻ như thú vị, ghé tai tôi thì thầm: "Có chết thì chúng mình cùng chết cả hai".
Lúc bây giờ, tôi còn nhớ như in, đầu tôi choáng vàng. Một kỷ niệm xót xa, chưa cũ gì lắm, vút xuyên qua cái dùi nung cháy bỏng. Từng có lần nào đó, một người con gái khác, trong một tình huống tương tự, đã nói với tôi y hệt như những lời nói ấy. "Có chết thì cũng chết cả hai". Chỉ khác, giọng cô ta réo rắt hơn, như còn run rẩy vì xúc động và sợ hãi. Đó là mối tình đầu của tôi. Tôi nghĩ rằng với cô ta cũng vậy. Bất ngờ, một thời gian sau, tôi nhận được bức thư chia tay của cô ta. Lời lẽ hết sức điềm tĩnh, tỉnh táo. "Em đã suy nghĩ kỹ. Xét thấy rằng chúng ta không hợp nhau. Thôi vĩnh biệt". Một tháng sau, cô ta lấy chồng. Hiểu rồi, hiểu rồi, cô em bé nhỏ của tôi ạ, đối với cô, tôi chỉ là vật đối chứng trong một trò thí nghiệm tình cảm lạnh lùng.
Cuộc trò chuyện lao xao trên xe vẫn chưa dứt. Có lẽ mọi người đã bị cái lắc xe đột ngột làm tỉnh táo hẳn lên. Bà mệnh phụ sửa lại chỗ ngồi, có cảm tưởng bà cố dán chặt người thêm vào lưng ghế và đệm ghế. Phía bên kia, Trang Hiền của anh cũng đã ép chiếc làn trắng ngà vào bụng mình, hai bàn tay ôm lấy nó. "Có chết chúng mình cũng chết cả hai". Trong đầu anh chợt nẩy một giả thiết vui vui. ừ, giá như lúc nãy đã xẩy ra tai nạn thực, xe đổ nhào xuống ruộng hoặc đâm sầm vào gốc cây, câu nói của Hiền mười mấy năm về trước, một ước vọng, một lời nguyền, bỗng dưng thành sự thực, thì sao nhỉ. Mình sẽ vui hay buồn. Hiền sẽ buồn hay vui. Ôi, ngớ ngẩn. Chết cả hai rồi, còn gì nữa mà nói chuyện vui buồn!
Giây phút này Hiền đang nghĩ gì. Hiền có sực nhớ đến cái lời nguyền đó không, nếu người ngồi đó đích thực là Trang Hiền của anh. Lúc nãy Hiền có hồi hộp sợ hãi lắm không ấy nhỉ. Dù sao cơn nguy hiểm cũng đã qua rồi. Hai bàn tay Hiền lúc này đan nhau bình thản, đoan trang, mấy ngón còn tròn mọng trắng hồng bên cạnh màu ngà chiếc làn và màu thiên thanh tà áo.
Cái đêm đầu thu không thể nào quên ấy, tôi ngồi cạnh Hiền bên hồ nước, ánh sáng rọi xuống khiến làn nước đêm xanh thẫm càng lung linh. Thốt nhiên tôi cảm thấy Hiền khẽ rùng mình.
"Em lạnh hay sao?" Tôi ân cần hỏi.
"Không ". Hiền đáp. "Nhưng từ nhỏ em đã có tật vậy. Mỗi khi chợt thấy một vệt sao băng, em đâm bồi hộp. Cứ nghĩ cái chấm sáng nhỏ nhoi ấy rớt vào giữa mung lung bầu trời, em hơi sở sợ, cảm thấy cô đơn, như là ớn lạnh nữa ấy".
"Cả giờ nữa, lúc có anh bên cạnh?" Tôi hỏi, hơi có tí trêu chọc.
"Em chẳng hiểu làm sao nữa. Biết đâu chẳng càng ớn lạnh hơn ấy chứ". Hiền đáp, đùa trêu lại. "Vì có ai thăm dò được hết cái mung lung tình cảm con người".
Tôi lặng im. Hiền liền có một cử chỉ làm lành.
"Anh coi, trống ngực em còn đập đây nè".
Hiền cầm tay tôi đặt lên phía tim mình. Dưới làn áo lụa, ngực cô gái căng vồng. Tim tôi hồi hộp. Từ lúc nào không biết, Hiền để nhẹ nhàng cởi cúc áo của mình, hơi thót người lại, tôi cảm thấy tay mình tiếp xúc với làn da mát rợi trên mỏm đồi xuân mơn mởn. Nghe rõ cả tim mình đập mạnh, thình thịch, trong trái tim cô gái. Hồ nước bỗng chao nghiêng, nghiêng ngả.
Bà mệnh phụ. Lại bà mệnh phụ. Nhưng lúc này tôi thông cảm. Bà chẳng hề có ý định phá ngang dòng mơ tưởng loăng quoăng rối rắm của tôi, chắc thế. Chẳng qua phần ghế quá chật đối với cái khối lượng quá cỡ của bà. Tôi đã tự nguyện dịch gần một nửa người của tôi ra khỏi chiếc ghế của tôi rồi đấy. Mong bà đừng quá lấn ép người ngồi cạnh, phía bên kia, tội nghiệp.
Tôi và Hiền ngồi trên vệ cỏ lẳng lặng ngắm mặt hồ như vậy có lẽ rất lâu. Mắt Hiền đen huyền, dường như cũng có ánh sao lung linh trong ấy. Dưới bàn tay ấp ôm mơn trớn, tấm ngực trẻ thanh tân càng nhô cao, căng nhọn, tựa hai hòn núi đá thuở hoang sơ. Trống ngực tôi phập phồng. Tôi nẩy ý liều lĩnh táo tợn, lần tìm đến những miền hoàng dã thâm u khuất vắng hơn.
"Đừng, đừng anh, em sợ".
Nghe Hiền thì thào, giọng đứt quãng. Vai Hiền khẽ rung lên như hồi nãy. Bỗng khắp người cô gái nổi cơn run rẩy dữ dội, khi tôi cố đẩy tới cuộc phiêu liêu mạo hiểm, Tôi đâm hốt hoảng, có cảm giác như Hiền có thể sắp choáng ngất vì sợ hãi. Vội đưa cả hai cánh tay giữ ghì lấy thân hình cô gái. Cơn run rẩy dịu dần. Trán tôi từ lúc nào cũng toát mồ hôi lạnh.
"Ta về thôi, em nhé. Sương xuống nhiều rồi". Tôi nghe mình nói, giọng lúng búng chen xấu hổ và hối hận.
Hiền vịn vào vai tôi yếu ớt đứng dậy.
Trưa hôm sau, ở cơ quan về, tôi tìm thấy mẩu giấy nhỏ luồn qua khe cửa. Tôi hồi hộp mở xem. Nét chữ của Hiền. Vẫn thoáng, đẹp, nhưng dường như có in vết run rẩy, tôi hình dung thế. Hiền nói Hiền viết cho tôi mấy chữ này lúc bốn giờ rưỡi sáng, sau một đêm không hề chớp mặt. Hiền muốn tôi thông cảm và tha thứ (Ôi, chính tôi phải ngàn lần xin Hiền tha thứ cho tôi mới phải). "Đêm nay anh hãy đến với em, anh nhé".
Đêm hôm ấy tôi không đến. Vì lý do gì, cũng chẳng còn nhớ thật rõ. Sau này hai ba lần Hiền vặn hỏi, hai ba lần tôi đáp là mình tự dưng nổi một cơn đau đầu dữ dội. Điều đó nếu không hẳn là sự thực, ít ra cũng là sự thực do tôi mường tượng sau nhiều lần nhắc đi nhắc lại.
Tôi không còn giữ một bức thư nào của Hiền. Tất cả đều đã được thả trôi theo dòng nước. Vì sao vậy, chính tôi cũng không hiểu nổi. Hiền viết cho tôi khá nhiều thư, khi chỉ mấy dòng ngắn, khi ba bốn trang liền. Hiền khoe học tốt, trái với điều tôi lo lắng là Hiền có thể sao nhãng việc học tập. "Em cảm thấy như dạo này trí óc mình ngày càng minh mẫn láng hơn. Toán giải khá nhanh. Cô giáo văn còn khen em làm bài hết sức tình cảm". Hiền kể một vài kỷ niệm chạy giặc hồi thơ ấu ở quê hương, chuyến đi tàu biển ra Bắc tập kết cùng ông chú. "Em muốn anh thuộc lòng từng chi tiết cuộc đời em. Anh đừng cười là nó còn quá ngắn, chẳng có gì đáng kể. Em vui thích mà nghĩ rằng tâm hồn anh". Hiền đòi tôi cũng phải "trả nợ", kể cho Hiền nghe quá khứ của mình, những buồn vui, những cuộc tình duyên cũ "nếu có", mà chắc là phải có. Hứa với anh, em không ghen đâu, chỉ muốn anh kể để vơi bớt nỗi buồn mà em đoán nguồn gốc sâu xa là ở đó". Tiếp đến những bức thư nồng nàn táo bạo hơn "Em từng nói em muốn anh thuộc rõ cả cuộc đời em. Em muốn anh cũng thuộc toàn bộ thân thế em, vì tất cả em là của anh, của riêng anh tất cả". "Ôi, cái ngày sinh nhật kỳ diệu! Em đã bước sang tuổi mười tám với một kỷ niệm không bao giờ quên. Đêm qua chúng mình đã có được cả một đêm cho nhau trọn vẹn. Suốt ngày hôm nay em lười biếng nằm dài, ngửa mặt lên trần suy nghĩ, nhớ lại và ước mơ. Lúc này ước gì có một đứa con của anh nằm gọn trong bụng mình. Một đứa con trai giống hệt anh. Nó sẽ là cái cầu nối, một lời thề nguyện gắn cả cuộc đời và linh hồn hai chúng ta mãi mãi, một trăm năm, một nghìn năm, một triệu năm ánh sáng".
Những lá thư dài ngắn ấy, tôi đọc đi đọc lại hầu như thuộc, với niềm xúc động khi êm ái, khi bừng bừng mãnh liệt. Tôi áp mảnh thư vào ngực, nhắm mắt thầm nhớ lại những giây phút êm đềm. Nhưng khi xúc cảm trào lên quá mạnh, khiến hai thái dương đập phập phồng, tôi cảm thấy bất chợt xen vào một nỗi lo âu buồn bã, thậm chỉ bàng hoàng, một phản ứng tâm lý mà tôi không thể giải thích nổi, lại càng không thể nào nén nổi. Một buổi sáng xuân đẹp trời, nhân đi công tác bằng ca nô trên sông Bạch Đằng, tôi đã thả tập thư của Hiền từng tờ từng tờ một cho bay theo gió rồi rơi xuống nước. Dòng nước mùa xuân này xanh trong leo lẻo, đẹp quá chừng, hy vọng nó sẽ đưa những lời thư ấy ra biển rồi ra tận đại dương. Tôi dõi nhìn những vuông giấy trắng trao nghiêng như cánh chim bập bềnh trôi nhanh ra phía sau lái với một tâm trạng hầu như thanh thoát, tuy vương chút bùi ngùi. Cái gì diễn ra trong tôi vậy. Dường như tôi đã e sợ và muốn ngăn ngừa trước một sự ràng buộc hoặc trách nhiệm nào đó, hoặc một sự dang dở; chia lìa, thậm chí cơn vỡ mộng mà cái tạng, cái khí chất của tôi sẽ không thể nào chịu đựng nổi. Yêu tôi nồng nhiệt, biết đâu Hiền chẳng có thể cắt đứt phũ phàng. Nói gì một triệu năm hoặc một trăm năm. Mọi sự ở đời cái gì chẳng qua đi như ngày đêm dưới cầu nước chảy, mọi điều tất phải biến đổi, nhàm chán, nhạt phai. Hiền yêu tôi thật sự hay chỉ là yêu tình yêu, yêu chính mình qua một mối tình. Tôi đã có gì đặc biệt, có gì xứng đáng. Những lời lẽ bồng bột say sưa ấy Hiền viết cho tôi hay viết để say sưa với chính mình. Tôi chẳng qua chỉ là cái cớ.
Lại bà mệnh phụ. Lần này thì cái bà béo ị ấy không còn làm sao chịu đựng được nữa nồi. Bà xoay người, thúc cả cùi tay vào hông anh, đột ngột đứng dậy. Bà nhoài người nhìn ra phía cửa sổ, bỗng quay lại hét toáng về phía người lái xe: "xuống! xuống! Cho tôi xuống đây! Dừng lại! Cho tôi xuống!" Giằng cái hông đồ sộ lên đùi anh, bà cúi quơ cái túi giả da to kềnh màu hồng khá đẹp dưới chân ghế, rồi chẳng cần xin lỗi, lăm le định len ra. Anh vội nhổm dậy, đứng tránh ở lối đi. Bà ta vừa lách khỏi, thốt nhiên anh thấy mình đứng đối mặt với thiếu phụ áo thiên thanh. Hiền! Trời ơi, Hiền cũng xuống đây sao? Cái thị trấn này là đâu vậy? Quê chồng hay chính quê Hiền?
Thoáng giây hồi hộp, Hình như hơi thở của anh, nóng hổi, phả cả vào cổ và gáy người thiếu phụ, mấy sợi tóc dài khẽ phơ phất trên làn da trắng mịn. "Có phải đúng Trang Hiền của anh đấy không ?". Tiếng kêu ấy vang vang trong đầu óc anh, tuy anh không hề mở miệng. Hiền cũng đã nghe thấy chăng? Người thiếu phụ khẽ quay đầu, nhìn thẳng vào anh. Đôi mặt mở to, vẻ bỡ ngỡ, y như mắt Hiền ngày nào khi anh làm cái việc táo bạo ép bàn tay mình lên bàn tay cô gái. Nhưng lúc này ánh mắt ấy dường như thoáng buồn, thoáng nghiêm lạnh. Đôi môi, vẫn còn hồng mọng, nhưng mím mím, lặng yên, hoàn toàn xa lạ. "Nếu đúng là Hiền, sao Hiền không nói ví tôi một lời nhỉ. Hiền hãy trách cứ tôi đi, nói thẳng sự thật vào mặt tôi đi. Tôi đã quá tính toán chăng, đã hèn yếu đến mức độ trở nên hèn nhát vị kỷ chăng. Sao Hiền vẫn cứ câm lặng lạnh lùng như vậy?"
Đầu anh choáng váng. Tiếng đập thình thình vào thành xe của người lái phụ ngồi phía sau giục đi, anh tưởng như tiếng đập của trống ngực mình dội lên tận óc. Chiếc xe ca lại khởi động, anh lặng người, vội bám hai tay vào thành ghế hai bên lối đi. Tuy nhiên vẫn cố ngoái nhìn ra phía sau, qua khung kính ở lưng xe, cố tìm lại hình bóng chiếc áo màu thiên thanh. Lúc đầu không thấy gì. Sau đó hiện ra trong khung kính dáng thanh mảnh nhỏ nhắn của người thiếu phụ, toàn một mầu tím sẫm, nó nhỏ đi nhanh rồi mất hút.
Cho đến bây giờ, thêm mười mấy năm nữa, anh vẫn chưa nhớ được cái màu tím sẫm lạ lùng ấy là do ánh mắt mình đã mờ đi, thẫm lại hay đó là do màu tấm kính.276
Jul 16, 2008
Giống Y
Còi hụ trong trại chữa lửa, ông đại úy chỉ huy bảo một người lính đem lại đôi giày da vừa đánh bóng. Người này chạy đi lấy ngay. Ông đại úy vừa mặc quần áo vừa quát:
Tại sao mày lấy chiếc ống cao, chiếc ống thấp?
Người lính đáp:
Dạ thưa đại úy, hai chiếc kia cũng giống y như vậy, tôi biết lấy đôi nào bây giờ?
2865
Giống Y
Còi hụ trong trại chữa lửa, ông đại úy chỉ huy bảo một người lính đem lại đôi giày da vừa đánh bóng. Người này chạy đi lấy ngay. Ông đại úy vừa mặc quần áo vừa quát:
Tại sao mày lấy chiếc ống cao, chiếc ống thấp?
Người lính đáp:
Dạ thưa đại úy, hai chiếc kia cũng giống y như vậy, tôi biết lấy đôi nào bây giờ?
2865
Thổi Sáo
Tác giả: Nguyễn Duy Cần
Thổi Sáo
Tuyên Vương nước Tề thích nghe thổi sáo, và lúc nào muốn nghe, bắt ba trăm người cùng thổi một loạt. Trong ba trăm người ấy có Đông Quách tiên sinh không biết thổi, nhưng cũng tạm dự để kiếm cơm.
Đến khi Tuyên Vương mất, Mẫn Vương nối ngôi, cũng thích nghe thổi sáo, nhưng chỉ muốn nghe riêng từng người, Đông Quách thấy thế, tìm đường trốn trước.
Lời bàn:
Thời nào, và ở đâu chẳng có hạng người như tiên sinh Đông Quách nầy. Có điều Đông Quách tiên sinh của Hàn Phi Tử có ít nhiều liêm sỉ: Biết thân mà chuồn trước. Nhưng đó cũng là nhờ có người như mẫn vương biết nghe nhạc.557
Jul 15, 2008
Cả xã cùng dốt
Nhân ngày nhà giáo Việt Nam 20-11, ông chủ tịch xã đến thăm một trường cấp hai. Trong buổi gặp mặt các thầy cô giáo và các em học sinh, ông hỏi một học sinh lớp 9:
- Cháu có biết câu: “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” ý nói gì không?
- Thưa bác, nhất là một, tự là chùa, sư là thầy. “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” có nghĩa là “Một nhà chùa có một ông thầy, bán cái chùa thì còn lại ông thầy”.
Ông chủ tịch nghiêm nghị:
- Hỏng! Hỏng cả rồi! Học sinh, học trò vô lễ thật… các cháu có nghe nói: “Tiên học lễ, hậu học văn” lần nào chưa? Đấy, đấy!... Bà tiên trên trời còn học lễ nghĩa, bà hoàng hậu là vợ vua, uy quyền là thế mà còn phải học văn nữa là… là các cháu.
- ?!
1428
Hãy chọn nghề đúng!
Cuộc thi "Hãy chọn nghề đúng" của phường tôi, đến phần trả lời của vị thí sinh nọ thì ban tổ chức hết sức bối rối. Cụ thể như sau:
*Hỏi: Người nào miệng luôn gào thét, tay chỉ trỏ bắt người ta làm việc này việc kia? Trả lời: Sếp công ty tôi! (Đáp án của ban giám khảo là: Trọng tài bóng đá).
*Hỏi: Nghề gì mà công việc chính là đào bới khắp nơi? Trả lời: Giao thông công chính! (Đáp án: Nghề khảo cổ).
*Hỏi: Nghề gì mà mỗi năm lại in sách có nội dung luôn được sửa chữa so với những năm trước? Trả lời: Ngành Giáo dục và SGK! (Đáp án: Bưu điện và cuốn danh bạ điện thoại).
*Hỏi: Nghề gì mà lừa hàng ngàn, hàng triệu người vẫn được họ vỗ tay? Trả lời: Cầu thủ bán độ! (Đáp án: Nhà ảo thuật).
*Và câu hỏi cuối cùng là: Nghề gì luôn luôn ở ngoài đường, nhìn ngang nhìn dọc, thỉnh thoảng lại có người dúi tiền vào tay, vào mũ...? Mọi người hi vọng thí sinh sẽ đoán đúng là nghề hành khất, nhưng ông ta lại trả lời tỉnh queo: Cảnh sát giao thông! Bậy bạ thật!
1395
Vợ và người yêu của ta
Một anh mới lập gia đình nói với bạn:
- Ðời mình chỉ có một ngày vui nhất. Ðó là ngày cưới cô ấy.
Anh bạn trả lời:
- Còn mình thì có tới hai ngày vui lận.
- Ngày nào thế? - Người bạn hỏi.
- Ngày mình cưới vợ và ngày mình ly dị vợ.
Chàng trai nói với người yêu:
- Sắp tới là sinh nhật bạn thân nhất của anh, anh chẳng biết tặng quà sinh nhật gì nữa?
- Sao thế anh?
- Bởi nó quá đầy đủ rồi, giám đốc một công ty lớn đang ăn nên làm ra, đẹp trai, có du thuyền và cả chiếc xe thể thao xịn...
Người yêu thỏ thẻ:
- Hay anh tặng... số điện thoại của em cho anh ấy đi.
Jul 14, 2008
Khi Ngọn Nến Đã Tắt
Mùa đông 1973 ở Sài Gòn, trời lạnh căm. Hắn bước ra ngoài rạp chiếu bóng Rex, miệng phì phèo điếu thuốc. TH. khen hắn thở khói thuốc bay đẹp như một đám mây khiến hắn nở mũi và lòng rộn lên điệu valse của “Bài ca Lara”. Hắn vừa xem xong phim “Vĩnh biệt tình em”. Nói về cuộc tình của bác sĩ Zhivago và nàng Lara. Cuộc chia tay của hai người buồn não nuột giữa mùa đông tuyết phủ trắng mặt đất. Nhưng hắn không cảm thấy buồn và lạnh, vì bên hắn đã có TH - người tình đầu. Và bàn tay nàng ấm như một ngọn nến.
Bộ phim đã khiến hắn tìm đọc cuốn tiểu thuyết “Vĩnh biệt tình em” do Nguyễn Hữu Hiệu dịch. Hắn đã biết thêm cuộc đời gian truân của tác giả Boris Parternak - giải Nobel văn chương năm 1958. So sánh tiểu thuyết với bộ phim, hắn thích bộ phim hơn. Có lẽ nhờ tài diễn xuất của Owar Sharif trong vai Zhivago, Julie Christie trong vai Lara và nhất là nhạc phim của Maurice Jarra.
Mùa đông 1988. Hắn đọc cuốn “Boris Parternak - Con người và tác phẩm” (NXB TP. ****), qua bản dịch trọn vẹn của Lê Khánh Trường, hắn mới biết chương cuối cuốn tiểu thuyết “Bác sĩ Zhivago” là những bài thơ của Zhivago. Hắn rất thích bài thơ “Ðêm đông” ở điệp khúc:
Ngọn nến cháy trên bàn
Ngọn nến cháy.
Hắn nhớ lại những ngọn nến Zhivago đã thắp lên trong phòng khi gần gũi Lara, và những ngọn nến được thắp lên khi xa cách Lara. Những ngọn nến vẫn cháy như nhau, nhưng tâm sự người thắp nến lúc thì muốn “thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt”, lúc thì muốn “le lói suốt trăm năm”. Sự dằn vặt lựa chọn giữa cái “phút chốc” và cái “trăm năm”, đấy chính là bi kịch của một cuộc tình (của một đời người).
Ðọc đi đọc lại bài thơ, hắn cố đoán xem “Ngọn nến cháy” tượng trưng cho điều gì? Tình yêu? Niềm hy vọng? Hay đấy là đôi mắt ráo hoảnh của Thượng Ðế? Ngài thấy hết, ngài biết hết nhưng ngài vẫn im lặng như:
Ngọn nến cháy trên bàn
Ngọn nến cháy.
Hắn đóng cuốn sách lại, hắn tin chẳng bao lâu rồi hắn sẽ lại mở sách ra. Bởi một bài thơ hay là bài thơ có ma lực quyến rũ người ta luôn luôn muốn tìm đọc lại, để mỗi lần lại khám phá ra thêm một điều mới mẻ.
Ngọn gió mùa đông lùa qua cửa sổ bể kính vào phòng khiến hắn rùng mình. Hắn phản xạ quờ tay qua chỗ ngồi kế bên. Không còn có TH. Nàng đã xa hút ở một nơi tuyết bay mù trời, nhưng nàng không cảm thấy lạnh vì trong tay nàng đã có một bàn tay khác ấm như một ngọn nến. Cũng may ở chỗ trống bên hắn còn có gói thuốc. Hắn quẹt một que diêm và chợt nhận thấy:
Ngọn nến cháy trên bàn
Ngọn nến cháy.
Mùa đông 1996. Hắn một mình ngồi xem lại bộ phim video “Bác sĩ Zhivago”, bản có phụ đề Việt ngữ. Hắn đã hiểu tại sao Zhivago và Lara chia tay nhau mà họ vẫn còn yêu nhau thắm thiết. Ðó là nhờ họ đã thắp cho nhau những ngọn nến cháy mãi trong tim, để giúp nhau vượt qua những đêm đông của một đời người.
Còn người tình của hắn khi chia tay, đã mau chóng quên lãng hắn. Bởi vì keo kiệt, hắn đâu có bao giờ dám thắp lên cho mình và cho nàng:
Ngọn nến cháy trên bàn
Ngọn nến cháy.
Tuyết rơi phủ đầy chiếc xe ngựa của Lara trên màn ảnh nhỏ. Hắn cố gắng hát theo bài ca “Lara’s Theme”: Somewhere my love... Người yêu tôi ở chốn nào... Chỉ được một câu rồi hắn nghẹn họng không thể hát tiếp. Ðể trả “thù vặt” người tình đầu đã bỏ hắn ra đi, hắn quyết định bỏ hút thuốc. Hắn không muốn thổi “những đám mây đẹp” bay về phía nàng. Giờ đây giữa đêm đông, trên đôi môi lạnh giá của hắn, thật thảm thương, chẳng bao giờ còn lập lòe một đốm lửa nhỏ nhoi.