Sep 17, 2005

Cát Trắng



Tôi gặp nàng ở đây vào một buổi chiều mùa hạ.

Nàng vừa leo lên tới đỉnh đồi. Trên cái đỉnh đồi nhỏ bé chật hẹp, ngoài phiến đá lớn mà tôi đang ngồi thì chẳng còn chỗ nào để ngồi được nữa. Thấy nàng có vẻ thất vọng, tôi nín cười giở nón chào nàng "Peace" rồi đổi chỗ ngồi, nhích ra để chừa một khoảng rộng cho nàng. Nàng ngồi xuống, cởi túi ba-lô đeo trên lưng đặt xuống bên cạnh, lấy bình nước mở ra uống. Tôi vẫn tiếp tục ngó xuống khu rừng xương rồng mọc trơ trọi trên bãi sa-mạc phía dưới chân đồi. Trời chiều hoang vu, lặng gió, nắng vàng đỏ như muốn thiêu đốt tất cả vạn vật chung quanh. Bỗng nhiên nàng hỏi:

-Why peace?

-I'm... not sure... but... you seem to need it.

-Who are you ???

-Tôi là người Việt! (nghe qua giọng nói và khuôn mặt của nàng tôi đoán chắc là người Việt).

Trời đất lại chìm trong vắng lặng. Nắng đỏ màu ngập tràn giữa mênh mông vô tận. Buổi chiều cháy lan dần tới tà dương. Nàng khoác túi ba-lô lên vai để sửa soạn leo xuống đồi. Nàng nỉn cười vẫy tay chào tôi, ngó xuống vực đá trước mặt và nói "Anh đừng có nhảy xuống đó nha" rồi quay lưng đi xuống. Tôi nói vói theo:

"Chờ anh đi xuống với!"

Nàng quay lại trợn mắt ... đứng chờ tôi. Đường xuống dốc quanh co sỏi đá. Sau mấy câu xã giao trao đổi tên tuổi v.v.. nàng bắt đầu hạch hỏi tôi lung tung đủ mọi thứ cho đến khi về tới bãi đậu xe, đợi nàng đi rồi, tôi mới lái xe trở về tu viện.

Tu viện nằm trên sườn đồi, chung quanh là nông trại do các cha, các thầy dòng đảm trách. Ở nơi đây đón nhận miễn phí tất cả những ai đang bị khủng hoảng tâm thần hay chứng mẫn cảm do bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Họ về đây sống tự lập trong thinh lặng, chia nhau làm những công việc trồng tỉa vườn nho, vườn rau, gặt hái, nấu nướng. Các cha, các thầy dòng cũng là những bác-sĩ tâm-lý-học chuyên nghiệp, hướng dẫn họ đi tìm lại sự bình an trong đời sống, và họ rời tu viện khi cảm thấy đời sống tinh thần đã được ổn định. Số tôi may mắn nên quen được một cha người Việt ở đây trong một chuyến đi công tác. Cha cho tôi địa chỉ của tu viện này và bảo "Thấy cậu mà tôi tội nghiệp, sống lang thang không nhà không cửa, cậu cứ nghé về chỗ tôi chơi, ở bao lâu cũng được, cứ tự nhiên thoải mái, chẳng phải khách sáo gì cả". Tôi cám ơn Cha và đã không khách sáo, mỗi năm tôi về đây ít nhất là một lần...để tĩnh tâm. Ở đây, mỗi buổi sáng tôi thường lái xe chạy vào sa-mạc ngắm cảnh. Vùng này quy tụ nhiều linh địa của những bộ tộc thổ dân da đỏ. Điều tôi không dự đoán được là chiều nay ngặp nàng ở giữa vùng sa-mạc hoang vu, tịch mịch.

Buổi sáng hôm nay tôi đổi ý, lái xe về viện đại học chính của tiểu bang cách tu viện khoảng nửa tiếng đồng hồ. Viện đại học được kiến trúc theo lối cổ Mễ-Tây-Cơ vươn mình qua những tàng cây râm mát. Nắng buổi sớm mai bắt đầu tác oai tác quái. Vì là mùa hè nên sân trường chỉ còn lác đác vài ba sinh viên. Tôi bước vào thư viện của ngành Indian studies để tìm một vài bản đồ cũ của vùng núi sa-mạc. Đang mải mê ghi chép thì có người nhéo tai tôi một cái khá đau, tôi vừa nhăn nhó vừa quay lại để coi ai đã nhéo tôi thì gặp nàng.

-Tâm to gan nhỉ!

-Ai biểu anh lại chiếm chỗ ngồi của Tâm làm gì.

-Vậy mà cũng nhéo tai anh.

-Ơ, chắc tại duyên số đi đâu cũng đụng mặt anh nên nhéo tai cho đỡ tức. Anh đi chơi mà tại sao lại chui vào đây? Lại còn tính chuyện gì với mấy cái bản đồ cũ rích đó? Bộ anh đang đi tìm kho tàng hở? Chỗ này là chỗ luyện bài của Tâm mắc cớ gì anh lại chen vào?

-Ngang vừa thôi chứ, anh mà biết Tâm học ở đây thì có ..có chết cũng chẳng thèm bước chân vào, bộ anh có nợ nần gì mà Tâm cứ đi theo phá hoài.

Câu nói vô duyên của tôi làm nàng cụt hứng quay lưng bỏ đi.

Biết mình đã lỡ lời nên tôi vội vàng chạy theo xin lỗi. Con gái như nàng đã giận thì phải biết! Sau cùng nàng cũng chịu làm hoà với tôi. Hai đứa ngồi trên thềm đá nhìn ra sân trường. Hình như hôm qua nàng hạch hỏi tôi chưa đủ nên hôm nay nàng lại tiếp tục hỏi tôi đủ mọi loại chuyện, nhất là tại sao lại chọn về đây chơi. Tôi liếc sang nhìn nàng thăm dò rồi nhìn ra ngoài sân trường nói:

-Anh thích phong thổ sa-mạc, hễ ở đâu có sa-mạc thì mò đến, vả lại có cái gì đó xui kiến anh về đây. Còn Tâm tại sao Tâm lại ở đây? Vùng này đâu có thích hợp với Tâm!

-Tại sao anh biết sa-mạc không thích hợp với Tâm, bộ anh là thầy tướng số!

Tôi quay sang nhìn thật sâu vào đôi mắt nàng, và tôi chợt rùng mình, cảm thấy có một điều gì đó không ổn như lần đầu tiên tôi gặp nàng. Tôi cúi xuống nhìn những bậc tam cấp trơ trọi nói:

-Nơi đây sa-mạc quạnh hiu, Tâm về nơi khác ở sẽ vui hơn, để tâm hồn được bình an, Tâm không nên ở đây.

-Tại sao?

-Tâm suy nghĩ nhiều quá, ở nơi đây mà suy nghĩ nhiều quá sẽ làm Tâm điên.

-Làm sao anh biết là Tâm suy nghĩ quá nhiều. Nàng hỏi tôi sau một thoáng im lặng.

-Tâm biết là được rồi.

-Tại sao anh lại nói vậy?

-Nếu anh nói sai thì cho anh xin lỗi, nếu đúng thì khuyên Tâm dừng lại, cái mà Tâm dành nhiều thời giờ để nghiền ngẫm đang làm hại đến đời sống tinh thần và sức khoẻ của Tâm.

-Anh đoán nhiều thứ về Tâm quá, vậy anh có thể đoán vé số để Tâm mua trúng thành triệu phú đi.

Tôi chỉ còn biết cười, nhìn bâng quơ ra sân trường, quê quá không biết nói gì nữa. Nàng ngồi im lặng một hồi lâu rồi hỏi:

-Ngày mai anh tính đâu vậy?

-Anh muốn đi xuống Tularosa Basin rồi xuyên qua Chihuahan.

-Trời đất!!! Anh dự định đi hết mấy tuần?

-Khoảng hai tuần rưỡi.

-Anh ở lại đây ngày mai đi, Tâm muốn đưa anh đến một chỗ này, bảo đảm là anh sẽ thích.

-Bộ Tâm không bận học?

-Làm khó dễ vừa thôi nha, Coi chừng Tâm đổi ý bây giờ đó!

Tôi biết thân biết phận nên vội nhận lời mời của nàng.

Chiều xuống chậm, chan hoà ánh nắng. Những ngọn gió khô khan từ sa-mạc thổi vào, rát bỏng thịt dạ Chúng tôi chia tay nhau hẹn ngày mai gặp lại để đi leo đồi. Tôi lái xe trở về tu viện vừa kịp giờ kinh đêm. Ngồi trong một góc tối của nhà nguyện, tôi âm thầm đọc theo các cha các thầy lời kinh đêm:

......Lạy Chúa, xin nghe lời tôi khẩn nguyện, và tiếng tôi kêu cứu được thấu đến người! Xin chớ lánh mặt khỏi tôi vào ngày tôi lâm bỉ, xin hãy ghé tai lại với tôi ngày tôi kêu khấn, xin mau đáp lại lời tôi! Vì ngày đời tôi tan ra khói, xương cốt tôi bừng cháy như hỏa lò. Ví dường như cỏ ấy, lòng tôi đòi đoạn héo hon, làm tôi quên nhãng cả chút bánh ăn... Tôi nên tựa hồ con vọ trong sa mạc, tôi ra như con cú trong hoang tàn, tôi những thao thức và rên rỉ như chim thất ngẫu trên mái nhà. Suốt ngày địc
h thù thóa mạ tôi, những kẻ khen tôi xưa rày nguyền rủa tôi. Tro là bánh tôi ăn, của uống tôi hoà với lệ... ..


Tôi cầm trí không được, nhớ tới nàng, nghĩ chắc mình đoán không sai, và biết rằng niềm tin của tôi và nàng khác biệt nhưng tôi cũng âm thầm cầu nguyện cho nàng sớm tìm lại được bình an trong tâm hồn. Sau giờ kinh đêm tôi lặng lẽ đi về phòng mình để nghỉ ngơi. Đêm trôi qua trong thinh lặng, trong giấc ngủ tôi lại nằm mơ, giấc mơ như một thị kiến cứ lặp đi lặp lại từ mấy năm qua. tôi vẫn ngồi tựa lưng vào một khúc cây khô cằn cỗi, chòi lên từ một bãi sa mạc cát vàng mênh mông, những lằn cát soai soải như những lằn sóng trôi dạt tới tận chân trời, nắng vàng đỏ toả ra từ bốn mặt trời không bao giờ lặn trên bãi sa mạc. Một vũ trụ không có âm thanh, không có màn đêm u tối. Nhưng giấc mơ lần này lại khác, trong giấc mơ có nàng từ xa đi lại nơi tôi đang ngồi, dáng điệu thướt tha trong trong bộ quần đen và áo thung tím, mái tóc buông lơi theo chiều gió. Khi nàng nỉn cười chào tôi, trong vũ trụ không có âm thanh bỗng rì rào tiếng gió và gió mỗi lúc một mạnh hơn, thổi bay hết tất cả cát sa-mạc, mặt trời cũng không còn nữa, chồi cây khô cằn biến mất, chỉ còn lại một màu trắng xóa mênh mông vô tận không trời không đất. Tôi giật mình thức giấc, bước xuống giường, mở cửa sổ ngó ra ngoài trời. Đêm trở mình về sáng, ánh trăng đêm trắng xóa treo lơ lửng giữa đường trời, và vạn vật chìm đắm trong một màu sáng bàng bạc mông lung.

Trời bình minh tươi sáng, không khí trong lành phảng phất mùi cỏ cây, hơi sương đêm vừa tan trên những khóm xương rồng khẳng khiu. Nàng và tôi gặp nhau ở bãi đậu xe dưới chân đồi. Nàng nói sẽ dẫn tôi đến một thung lũng hoa dại phía bên kia lưng đồi. Trên đường đi tôi chỉ cho nàng mấy loài thảo dược, và rễ cây mà thổ dân đa đỏ dùng trong những nghi lễ của họ, những loài thảo dược và rễ cây này có tác dụng tới hệ thống thần kinh, đưa họ vào trạng thái mê man (alter-state), ở trong trạng thái mê man họ được thị kiến, v.v... Nàng rất thích thú khi nghe tôi nói về những lễ nghi tập tục của những bộ tộc thổ dân da đỏ từ alaska, canada, cho tới miền tây nam nước mỹ và nhất là vùng này. Tôi kể cho nàng nghe về thuật sống hòa mình vào thiên nhiên của thổ dân da đỏ tới trình độ mà tiềm thức của mình hòa nhập vào với vạn vật chung quanh, và khi đó mình sẽ linh cảm được sự tuần hoàn biến hóa của thiên nhiên, được thị kiến về sự giằng co tranh đấu giữa sự sống và sự chết chung quanh mình, và chính trong tâm hồn mình. Nàng cắt lời tôi:

-Tại sao anh hay chào Tâm bằng câu "peace" và còn nói Tâm về nơi khác ở sẽ vui hơn, để tâm hồn được bình an, có phải anh đã đọc được đời sống nội tâm của Tâm?

-Tâm có tin vào duyên số không?

-Anh chưa có trả lời thắc mắc của Tâm...

-Cả hai sự sống và chết đều có sức lôi cuốn mãnh liệt, nhất là nơi đây, ở vùng sa-mạc hoang vu này. Tâm thì lúc nào cũng nghĩ tới cái chết. Giữa cõi sống và chết, Tâm đang ở đâu, đi về đâu thì biết rồi.

-Tâm gặp phải nhiều chuyện chẳng ra đâu vào đâu, Tâm mệt rồi, đôi lúc thấy chết còn khoẻ hơn là sống, có lẽ Tâm điên thật rồi! Nàng nói nhỏ sau một thoáng im lặng. Tôi nói:

-Có lẽ trong đời sống có một ít cái cần thiết và rất nhiều những sự mong muốn, cái cần thiết rất khác với sự mong muốn, sự mong muốn không đạt được thì cũng chẳng sao, nhưng cái cần thiết mà không có được hoạc có mà bị tước đi thì làm mình cảm thấy mất mát, những thứ mất mát cho dù có chấp nhận hoàn toàn đi nữa cũng không làm cho đời sống được trọn vẹn, khi có quá nhiều mất mát thì tuyệt vọng.

-Anh là một medicine man của thổ dân da đỏ, vậy anh có liều thuốc gì để chữa căn bệnh tuyệt vọng đó không?

-Tâm nghĩ bệnh của Tâm có thuốc để trị không? Tôi hỏi lại.

-Bệnh Tâm không còn thuốc trị. Nàng nói nhỏ như nói với một mình mình vậỵ

Nàng lảng tránh sang chuyện khác, lại tiếp tục hỏi tôi về những tập tục của thổ dân da đỏ. Trời đã gần về trưa khi chúng tôi "hành quân" tới thung lũng hoa dại mà nàng nói, nàng dẫn tôi đến một phiến đá lớn, chung quanh là một thảm nguyên bao la được dệt bằng đủ loại màu sắc của các loài hoa xương rồng, cỏ dại, thảo mộc, v.v... Tôi giúp nàng cởi túi ba-lô đeo trên lưng xuống, nàng hỏi:

-Anh muốn ăn trưa chưa?

-Đói xanh mặt rồi đây, Tâm ăn trước đi, anh muốn đi hái một ít trái cây ăn thử đã.

-Tâm cũng đi theo luôn.

-Tâm không sợ rắn, rết và bò cạp?

-Sợ chứ, Tâm sợ anh bị chúng cạp hay anh ăn thử nhằm trái cây độc lỡ chết không có ai khiêng anh về nên Tâm phải đi theo để khiêng anh về chứ.

Tôi cười trừ, lắc đầu chịu thua vì biết rất có thể nàng có đủ sức để vác tôi từ đây về tới bãi đậu xe, nàng và tôi luồn lỏi đi trong khu rừng để hái những trái dâu dại và trái xương rồng, tôi chỉ nàng những bông hoa ăn được, giơ tay định hái một bông cho nàng ăn thử thì nàng kêu lên:

-Anh đừng hái nó, tội nghiệp, để nó trên cành đẹp hơn.

-Heheh...Bệnh Tâm cũng chưa có nặng lắm.

Nàng im lặng phớt tỉnh với câu nói của tôi, thò tay vào bọc lấy một trái xương rồng, chùi vào áo cho sạch bụi rồi đưa lên miệng cắn:

-Woah mama, biết vậy sáng nay Tâm mang đi một gói muối ớt

-Trong hộp first-aid kit salt tablet, nghiền nó ra chấm thử cũng được.

Hái trái cây một chốc đã đầy bịch, tôi với nàng quay trở về phiến đá ban nãy, trải tấm bạt để ngồi ăn trưa. Sức nóng hầm hập từ phiến đá bốc qua tấm bạt cách nhiệt đã gấp lại làm đôi, khiến tôi có cảm tưởng mình đang ngồi trên một cái vỉ nướng. Hôm nay trời có gió, nền trời xanh thẫm có một vài đám mây vẩy cá, báo hiệu nay mai sẽ có mưa. Tôi ngồi vừa ăn bánh mì vừa thả hồn vào một thế giới tuyệt diệu của màu sắc, xanh, vàng, đỏ, hồng, tím, trắng, và những loại mầu sắc chưa có tên của các loài hoa đang quyện lại với nhau, uốn éo, nhảy múa theo một điệu vũ man dại trong ánh nắng bát ngát vô tận. Nàng bỏ dở khúc bánh mì đang ăn, mấy trái dâu, trái xương rồng hấp dẫn hơn đối với nàng. Vừa ăn trái cây vừa xuýt xoa, nàng kể cho tôi nghe về những vùng đồi núi khác, và những bãi sa-mạc ở chung quanh vùng này, tôi lắng nghe nàng kể chuyện và lèo lái câu chuyện về đời sống ở đây, về sinh hoạt thường nhật của nàng, về những ngày tháng quá khứ của nàng ở Việt-Nam. Nàng liến thoáng, vô tư kể cho tôi nghe thật nhiều chuyện. Trời xế chiều, chúng tôi quay trở lại, leo xuống đồi để trở về bãi đậu xe. Trước khi ra về, nàng đề nghị tôi chỉ nên đi Tularosa Basin thôi rồi trở lại đây, nàng cười nói:

-Anh đừng đi qua Chihuahan tốn xăng mà chẳng có gì ngắm cả, về đây sớm Tâm sẽ dẫn anh đi một vòng quanh phố.

-Ừ, nếu anh còn sống để về tới đây thì chắc chắn sẽ nhận lời mời của Tâm.

-Còn không thì Tâm sẽ tụng kinh cho hồn anh được siêu thoát.

-Tâm tốt bụng quá.

Nàng cười thật thoải mái:

-Anh không biết chứ, Tâm là một người rất là chu đáo ...

Nhưng thôi Tâm đùa anh vậy thôi, Tâm mong anh đi bình an. Tâm biết anh dư sức vượt sa-mạc một mình, nên mới không cản anh, nếu không Tâm đã tìm cách cầm chân anh lại rồi.

-Tâm làm anh cảm động quá, nếu anh mà biết khóc thì cũng đổ lệ rồi.

-Vậy thì anh nên tập khóc.

Tôi nhìn nàng cười, nàng cười theo, lấy giấy viết xuống tên một quán ăn đưa cho tôi rồi bảo:

-Bẩy ngày nữa Tâm chờ anh ở quán cafe này sau 2:00 giờ trưa.

Tôi đến Tularosa Basin khi trời đã xế chiều. Nơi đây là một biển cát mênh mông trắng xóa. Nền trời xanh ngắt bao la. Gió bay lồng lộng. Vũ trụ chìm trong một màu nắng vô tận. Đêm về mịt mùng sâu thẳm, trên cao lấp lánh những vì sao, ánh trăng nửa mùa treo lơ lửng giữa đường trời, gió vẫn thổi miên man, và không gian tĩnh lặng, vắng cả tiếng côn trùng rả rích. Những đêm ngủ ở đây, tôi đều nằm mơ một giấc mơ: Tôi vẫn ngồi tựa vào một chồi cây giữa sa-mạc mênh mông vô tận, vẫn nắng vàng đỏ tỏa ra từ bốn mặt trời, vẫn nàng xuất hiện từ xa trong bộ quần đen áo thung mầu tím với mái tóc buông lơi theo chiều gió, nàng nỉn cười chào tôi và trong vũ trụ không có âm thanh bỗng rì rào tiếng gió và gió mỗi lúc một mạnh hơn, thổi bay hết tất cả cát sa-mạc, không còn bốn mặt trời, không còn chồi cây khô chỉ còn lại một màu trắng xóa vô tận.

Đêm cuối cùng tôi nằm mơ thấy cái máy GPS của mình bị hết bin.

Tôi tìm đến quán ăn nơi nàng đã hẹn. Quán ăn khá rộng, sáng sủa, được trang trí bằng nhiều cây kiểng trông thật tươi mát. Từ một góc bàn nàng giơ tay vẫy tôi, tôi bước về bàn ăn của nàng ngồi xuống, nàng trợn mắt bảo tôi:

-Trời đất, bộ anh tuyệt thực ở trong sa-mạc hở, mới có mấy ngày mà trông anh gầy hẳn đi

-Gầy thiệt không? Anh thì thấy người khoẻ hẳn ra...

Tôi bỏ lửng câu nói, bỡ ngỡ nhìn nàng. Hôm nay nàng diện một bộ quần jean đen và áo thung tím, với mái tóc buông lơị

Nàng đá chân tôi một cái điếng người:

-Anh làm gì mà nhìn Tâm đắm đuối vậy.

-Tâm ...hôm nay đẹp quá, anh vẫn quen thấy Tâm trong bộ đồ leo núi, giày đinh, mũ rộng vành, lưng đeo túi ba-lô trông chẳng thùy mị duyên dáng chút nàọ

-hìhì, cũng may anh chưa thấy Tâm diện áo dài, anh mà thấy thì chắc là rớt tim mất.

Nàng cười thật thoải mái, tôi cũng cười theo, trong đầu tôi, một khúc phim đang quay chậm chiếu lại: Tôi, thế giới sa-mạc, nàng, tất cả đều tan biến, chỉ còn lại một khoảng không trắng xóa mênh mông vô tận. Tôi lèo lái câu chuyện về nàng, nàng bảo vẫn mất ngủ thường xuyên, cũng ăn uống thất thường. Nàng kể cho tôi khá nhiều chuyện làm cho nàng mệt mỏi và muốn buông xuôi, không tập trung vào chuyện học được.... Tôi ân cần nghe nàng nói, và trong lòng cảm thấy xót xa cho nàng. Sau bữa ăn chiều, nàng nói làm tour guide đưa tôi đi dạo phố. Chúng tôi đi lang thang dưới phố, thành phố về chiều đìu hiu, chúng tôi nghé vào một số phòng triển lãm hội họa xem tranh, rồi dạo quanh một khu chợ phiên, nơi đây bầy bán các thứ rau cỏ trái cây được đem đến từ những nông trại ở ngoại ô. Nàng và tôi dừng lại ở cuối chợ nơi có bày bán nhiều đồ thủ công của thổ dân da đỏ, nàng táy máy nghịch nghợm những món đồ bày bán rất là tự nhiên! Hoàng hôn xuống chậm, khu chợ phiên thưa dần, nắng cuối ngày rực rỡ chói chang, vạn vật như chìm trong một biển lửa vô hình, những ngọn gió nóng như muốn đốt cháy cỏ cây từ sa-mạc thổi qua đường phố. Tôi và nàng trở về chỗ đậu xe. Trước khi chia tay, tôi hỏi:

-Tâm nuốn khỏi mất ngủ không?

- Dĩ nhiên

-Tâm mang trà này về pha uống để dễ ngủ.

Tôi đưa cho nàng một túi lá cỏ đã phơi khô mà tôi hái trên đường đến Tularosa Basin. Nàng cười:

-Anh không sợ Tâm pha hết uống một lần để ngủ luôn hay sao.

-Tâm có sắc hết lá trà một lượt rồi uống vào cũng chẳng sao, trà Tâm đang uống còn có hại hơn trà này.

Nàng thôi đùa, sắc mặt nàng trở nên u ám buồn bã, nàng nói:

-Xin lỗi anh, Tâm nhiều lúc không được bình thường nên hay nói chuyện chết chóc. Hy vọng không làm anh sợ. Thật ra Tâm đâu có muốn vậy, Tâm đang cố gắng hết sức để ổn định lại đời sống tinh thần. Tâm vẫn còn yêu đời, muốn được sống bình an như những người chung quanh.

Tôi áp nhẹ tay lên má nàng và nói:

-Anh cũng hy vọng cho tâm sớm được như vậỵ

-Tâm phải về nhà bây giờ để mẹ Tâm khỏi phải lo lắng, ngày mai Tâm đưa anh ra phi-trường nhé.

-Cám ơn Tâm, nhưng anh đi một mình tiện hơn, nhớ gửi email thường xuyên cho anh.

-Vậy chúc anh đi bằng an, Tâm cũng không thích cảnh chia tay đưa tiễn. Tâm sẽ gửi email cho anh thường xuyên.

Tôi trở lại Boston để hoàn tất một công tác dở dang. Những ngày tháng kế tiếp, nàng giữ lời hứa và gửi điện thư đều đặn cho tôi. Nàng báo cho tôi rằng nàng đã lấy lại được giấc ngủ mỗi đêm, nàng kể đủ mọi thứ chuyện vui, buồn, thời tiết nóng hay lạnh, cho tôi nghe. Tôi ân cần đọc thư nàng nhiều hơn là đối đáp lại, tôi chú ý nhiều tới căn bệnh của nàng, một chứng bệnh mẫn cảm trầm trọng. Nàng đã cố gắng nhiều trong việc chữa trị và dần dà bệnh nàng có phần thuyên giảm. Nàng bắt đầu thay đổi, trở nên lạc quan hơn, yêu đời hơn. Nàng khoe với tôi chuyện học tiến triển rất tốt đẹp, và nàng đang sửa soạn đi tu nghiệp ở Seattle.

Thời gian qua mau, nàng vẫn gửi điện thư đều đặn mỗi ngày cho tôi, nàng nói viết cho tôi cũng như là viết nhật ký, vả lại nàng muốn biết tôi sống chết ra sao. Nàng viết lan man kể cho tôi nghe cuộc sống ở Seattle. Nàng tá túc ở nhà người dì em ruột của má nàng. Ở đây ngoài giờ đi làm trong sở, nàng tham gia vào những sinh hoạt thiện nguyện ở cộng đồng, nàng bảo quen nhiều bạn bè vui lắm, không chừng học xong Tâm dọn về đây ở luôn, Tâm sợ ở sa-mạc rồi. Nàng hỏi tôi bao giờ mới thôi sống theo nghề, lang thang đầu non cuối bể. Tết Việt nam đến nàng gởi cho tôi ít kẹo mứt nàng làm để tôi ăn tết, nàng cũng không quên nhắc nhở tôi tục lệ tết, lớn phải lì xì nhỏ. Tôi mừng thầm cho nàng, tôi âm thầm cầu trời mong sao bệnh cũ của nàng tuyệt chứng, sẽ không bao giờ tái phát. Tôi mong cho nàng có một cuộc sống bình an như bao người chung quanh. Nhưng đời sống có quá nhiều những chuyện chẳng ra đâu vào đâu, có một khung cảnh nào đó, một sự tình cờ nhỏ nhoi nào đó đã khơi lại sự hụt hẫng trong ký ức của nàng, bệnh cũ của nàng tái phát. Lời thơ của nàng càng ngày càng trở nên u ám. Giữa mùa hè, tôi đổi công tác với một người đồng nghiệp để chuyển về Seattle. Ngày gặp lại, nàng lái xe chở tôi ra công viên Gas-work, chúng tôi leo lên đỉnh đồi, ngồi ngó thành phố lên đèn. Hoàng hôn ngả bóng, gió miên man, trăng lên, trên mặt hồ Washington lác đác một vài chiếc thuyền đang dong buồm về bãi. Bên kia bờ hồ, những binđinh cao ốc vừa lên đèn, nàng ngồi lặng im bên tôi không nói gì. Tôi bảo nàng:

-Tâm khóc đi, khóc được sẽ làm Tâm dễ chịu.

Nàng vẫn ngồi bó gối trong im lặng một hồi lâu và rồi úp mặt vào đầu gối. Nàng khóc âm thầm thật lâu.

Đêm về lặng lẽ, ánh trăng bàng bạc nằm treo lơ lửng giữa đường trời, gió bay lồng lộng, phía dưới chân đồi, trên những băng ghế đá có một vài đôi nhân tình đang ngồi tựa vào nhau, ngó qua bên kia bờ hồ, nơi thành phố lộng lẫy ánh đèn. Tôi lay khẽ bờ vai nàng:

-Cả ngày bận quá anh chưa ăn cái gì hết, đói lắm rồi, anh mời Tâm đi ăn cơm tối.

Nàng ngước mặt lên, đôi mắt còn long lanh ngấn lệ, quay sang lấy tay áo tôi ... để lau mũi. Tôi nhăn mặt phản đối. Nàng nhéo tôi một cái đau thấu ruột rồi nỉn cười nói:

-Tâm bao anh một chầu ăn tối

Chúng tôi ghé vào một quán ăn Việt Nam thì gặp ngay một nhóm bạn bè của nàng đang đứng lóng ngóng chờ bàn. Thế là lại một phen giới thiệu lung tung, náo nhiệt và tự dưng tôi được nàng phong chức làm anh họ của nàng. Tôi chỉ biết cười vui vẻ và chu đáo thi hành nhiệm vụ. Chúng tôi nhập bọn với nhóm bạn bè của nàng. Bữa cơm tối vui nhộn và thân mật kéo dài cho đến lúc tiệm đóng cửa. Đêm đã khuya nhưng vui quá nên chẳng ai muốn về, thế là cả bọn lại kéo nhau ra đồi Gas-work, mang theo đàn guitar, mấy cây đèn bin và mấy tập nhạc. Chúng tôi trải 1 tấm mền lớn trên thảm cỏ rồi ngồi đàn hát với nhau. Tôi nằm ngoài rìa tấm mền, gối đầu lên tay, ngó màn trời bàng bạc màu trăng, thả hồn vào lời hát Đừng Xa Em Đêm Nay của một cô bạn nàng mà quên hết mọi sự. Tới phiên nàng hát, nàng hát bài Nha Trang Ngày Về. Lời hát của nàng đưa tôi về miền Vũng Tàu, quê hương tôi, những kỷ niệm mong manh thời thơ ấu lại hiện về. Nàng hát xong, nốt nhạc cuối cùng vừa tắt. Mọi người vẫn trầm ngâm im lặng. Bỗng nàng phá lên cười nhẹ và hỏi: sao không có ai hát tiếp vậy. Một cô bạn khác cất tiếng hát bài Mẹ Hiền Yêu Dấu.

Những ngày ngắn ngủi còn lại ở Seattle vụt qua mau, tôi nhận công tác mới và đáp chuyến bay về Nevada. Lúc tôi rời Seattle nàng vẫn như cũ, bị khủng hoảng tâm thần khá nặng. Tôi áp tay lên má nàng và nói:

-Tâm hãy sống với hiện tại, những người thân yêu đều lo lắng cho Tâm, thương yêu Tâm.

-Em biết.

-Nhớ đi bác sĩ trị bịnh.

-Em biết.

-Thương nhiều. Tôi hôn nhẹ lên trán nàng.

Nàng mở túi school bag, trao cho tôi một gói quà, và nói:

-Tối hôm qua Tâm thức khuya làm bánh cho anh đó. Hy vọng anh ăn rồi không chê dở. Chúc anh đi bình an.

Những ngày hè vùn vụt trôi qua. Nàng vẫn gửi điện thư đều đặn cho tôi. Mùa thu vừa đến, căn bệnh của nàng có phần thuyên giảm. Nàng bắt đầu vui vẻ hơn, nàng khoe mùa thu ở Seattle đẹp lắm, núi đồi, thành phố rất thơ mộng và trữ tình, phong cảnh tuyệt đẹp giống như những cảnh trong phim tình cảm. Nàng bảo nhất định là sẽ ở đây luôn. Nàng viết con tim nàng đã vui trở lạị Nàng hỏi tôi có buồn không, có còn nhớ tới nàng không khi nàng có bạn trai và sẽ không còn siêng viết thơ cho tôi nữa? Tôi bảo nhớ thì dĩ nhiên là nhớ, còn buồn thì trên đời này chẳng còn gì để làm tôi buồn được nữa. Tôi khen nàng chung thủy như vậy thật là hiếm có. Nàng viết lại "rồi một ngày nào đó sẽ có một cô có đủ bản lãnh để làm anh biết buồn ... lại".

Mùa đông lặng lẽ trôi qua. Nàng không còn gửi điện thư đều đặn cho tôi nữa. Tôi thì mừng thầm cho nàng. Một ngày đầu mùa xuân nàng gửi tôi một điện thư bảo phải gọi cho nàng gấp. Tôi vội vàng gọi điện thoại cho nàng. Nàng nhấc điện thoại khi biết là tôi thì hét to lên:

-Tâm có tin vui.

-Huh?

-Yeah, tháng tám này Tâm làm đám cưới.

-Woah.. Chúc mừng Tâm, Chúc mừng hai người, vui quá, vui quá.

-Yeah, tụi em sẽ làm đám cưới vào tháng tám này. Anh phải về dự đám cưới tụi em, có nghe không!

-Về thì về, em làm gì mà ép dữ vậy. Tôi cười khì khì ..

-Em muốn anh phải về dự đám cưới của tụi em. Còn không Tâm sẽ rất giận anh.

- Dĩ nhiên là anh sẽ về dự đám cưới của Tâm. Anh mừng lắm!

-Tại sao?

- Dạo này anh thấy Tâm vui thật sự, chứ không như lúc trước.

Nàng phá lên cười, tiếng cười của nàng thật trong trẻo, rộn rã vui tươi. Tôi bật cười theo với nàng.

-Anh đừng lo nữạ em bây giờ thực tế hơn hồi xưa, không còn "tà mị" giống như lúc trước nữạ Nghĩ cũng lạ, hình như con gái tới khoảng hai mươi bảy, hai mươi tám tuổi thì trưởng thành hẳn ra, thực tế hơn.

-Thôi, vậy thì sắp già rồi.

- Đúng rồi! Em sắp già rồi nên mới trúng tuyển làm model cho teen fashion của công ty CK.

- Woaaahhh!!!!

- Anh làm gì mà hét điếc cả tai thế?

- Hét lên cho vui nhà vui cửa, thế bao giờ cuốn catalog mới phát hành vậy?

- hì hì hì, không bao giờ... em không thích làm model cho những loại quần áo đó ... và cũng sợ buồn lòng người yêu. Em chỉ đi thi dự tuyển chơi thôi, đâu ngờ được chọn.

-Anh vẫn nói em rất đẹp, rất có duyên, bây giờ thì tin chưa?

- Đẹp gì mà vẫn không làm rung động được người ta!

- Ai làm ai rung động hè, cho nói lại đó.

Nàng lại phá lên cười thích thú, rồi dịu giọng nói:

-Anh!

-Gì vậy?

-Cám ơn anh thật nhiều.

-Không có gì ...Bao giờ em mới về nhà lại.

-Em sẽ về nhà vào đầu mùa hè để chuẩn bị cho đám cưới...

Đêm đó nàng kể cho tôi nghe thật nhiều chuyện, và những ước mơ, những dự định tương lai của nàng. Nàng nói thật nhanh, thật vội vã như sợ không đủ thời gian để kể hết mọi chuyện.

Đầu mùa hạ, tôi nghe theo lời rủ rê của một người bạn đồng nghiệp đáp chuyến bay về đảo Santorini, Greece để thăm quê hương xứ sở của cô ta. Nắng sớm mùa hè thật ấm áp, mền mại tỏa lan trên đường phố. Phía dưới phố là biển Aegean xanh ngắt, nhấp nhô những lằn sóng bạc đầu mỗi khi trời nổi gió. Ở đây có những khu chợ nho nhỏ ở giữa lòng phố bán trái cây và các loài hoa đỏ, tím, trắng, vàng trưng bày thật rực rỡ và tươi đẹp. Một buổi tối hai chị em cô bạn đồng nghiệp và tôi đến dự một dạ tiệc đính hôn của bạn học cô ta. Buổi dạ tiệc được tổ chức trên sân thượng của nhà chú rể. Đêm đã quá khuya, phần đông đều đã ngấm rượi, họ choàng vai nhau và nhảy múa theo tiếng đàn, vừa hát vừa cười ầm ĩ dưới những ánh đuốc đang cháy bập bùng. Nhảy múa một hồi cũng mỏi cẳng, tôi đến ngồi ở một cái bàn nhỏ ở một góc sân thượng, ngó ra đại dương mênh mông sóng nước. Gió đêm mát dịu từ biển thổi vào lòng phố. Ngoài khơi từng lớp sóng bạc đầu nhấp nhô theo triền gió, ánh trăng tỏa sáng mông lung. Tôi ngồi ngắm biển mà ngủ quên lúc nào cũng chẳng haỵ Trong giấc ngủ ngắn ngủi tôi nằm mơ thấy mình đứng giữa một biển cát mênh mông trắng xóa, và đang ngước mắt lên ngó bầu trời xanh thẳm, rồi bỗng nhiên có một con quạ đen bay ngang trời kêu lên những tiếng bi thống, tiếng quạ kêu báo tử. Giấc mơ đứt quãng khi cô bạn đồng nghiệp lay vai đánh thức tôi dậy, dặn tôi chờ cô ta đi kiếm người em, trở lại đây rồi chúng tôi cùng về. Tôi chợt rùng mình, nghĩ tới Tâm. Tôi vội móc bóp lấy thẻ để gọi điện thoại cho nàng. Bên đầu dây kia là một người thân của nàng.

Tôi nói:

- Dạ thưa cho cháu gặp Tâm.

- Cháu nó mất rồi cậu.

- Dạ... cháu không biết, xin chia buồn với bác. Cháu xin phép gọi lại bác sau.

Tôi cảm thấy đầu óc mình trống rỗng. Tôi cố hình dung ra khuôn mặt nàng nhưng không nhớ được gì mấy. Tôi nhắm mắt lại cố nhớ tiếng cười thanh trong của nàng nhưng chỉ nghe thấy chung quanh ồn ào những tiếng cười, tiếng hát, tiếng đàn, tiếng dĩa sứ bị ném bể. Đêm đó tôi lái xe đưa hai cô bạn về nhà rồi phóng xe vượt qua những con dốc ngoằm ngèo khúc khủy, quay trở về khách sạn. Tôi về phòng trọ, cởi giầy, đi tắm, thay đồ, rồi mở tủ khuân hết những chai rượu nhỏ mang ra ngoài lan-can ngồi uống. Đêm sâu thẳm, hoang vu, rì rào tiếng sóng vỗ. Gió bay lồng lộng qua đường phố. Ánh trăng khuya, trắng xóa như tan vào mênh mông vĩ đại. Tôi nhắm mắt lại, cố hình dung ra khuôn mặt của nàng, tiếng cười thật trong trẻo của nàng nhưng tất cả vẫn trống rỗng, như một khoảng không trắng xóa vô tận.
236

No comments:

Post a Comment