Jan 5, 2013

TRỞ LẠI HOANG THÔN - 10

Sái Tuấn
TRỞ LẠI HOANG THÔN
Người dịch: DUNG LÊ
NGÀY CUỐI CÙNG
Sáng sớm
T
ôi tin.
12 giờ đêm là thời khắc phán xét cuối cùng trong ngày.
Ai sẽ bị phán xét có tội?
Có lẽ là tất cả mọi người.
Đêm của Hoang thôn.
Giờ là 0 giờ 01 phút của ngày thứ 8 sau khi trở về, tôi nghe thấy linh hồn trong thân ác mình đang hỏi: “Tôi có còn không?”
Thân xác tôi đáp lại: “Đúng vậy, anh vẫn còn”.
Linh hồn nói: “Tôi không muốn rời xa anh”.
Thân xác nói: “Tôi cũng vậy”.
Linh hồn hỏi: “Phán xét kết thúc chưa?”
Thân xác đáp: “Phán xét vĩnh viễn không bao giờ kết thúc”.
Linh hồn hỏi tiếp: “Phán xét bắt đầu chưa?”
Thân xác đáp: “Phán xét bắt đầu từ lâu rồi”.
Linh hồn tiếp tục hỏi: “Ngày cuối cùng đã tới chưa?”
Thân xác đáp: “Không có ngày cuối cùng, bởi vì không có ngày đầu tiên”.
 
Vậy là, linh hồn nhặt lấy một bông hoa, đặt lên môi hôn, nói: “Cảm ơn bạn, tôi sẽ mãi mãi yêu bạn”.
Đêm nay không phải là ngày cuối cùng.
Đột nhiên, một cảm giác rất dị thường truyền lên ngón tay tôi, chiếc nhẫn ngọc dường như đã tự sống lại, từ từ trôi tuột trên ngón trỏ của tôi.
Hình như vùng đất Hoang thôn có sức mạnh mời gọi mãnh liệt với nó, khiến nó nhẹ nhàng rơi xuống mặt đất.
Giây phút này, vệt đỏ đun lóe sáng trong bóng tối, tôi chỉ cảm thấy ngón tay thoải mái hơn rất nhiều, rồi lập tức quỷ xuống nhặt chiếc nhẫn ngọc lên.
“Nó tự nhiên… tự nhiên rơi xuống rồi”. Xuân Vũ cũng hét lên vô cùng kinh ngạc, cô ấy không thể không chạm vào chiếc nhẫn, sua đó Xuân Vũ xúc động hỏi tôi: “Anh không sao chứ?”
Tôi nhẹ nhàng đáp lại cô ấy bằng giọng điệu tràn đầy sự biết ơn: “Yên tâm đi, linh hồn tôi vẫn còn đây”.
“Anh xem, mặt bên chiếc nhẫn là cái gì kia?”
Xuân Vũ soi đèn pin thẳng vào chiếc nhẫn ngọc, vừa vặn soi lên hoa văn mặt bên trong “Hoàn” – đây là những hoa văn vô cùng mảnh dẻ, giống như những khắc họa trên những đồ ngọc khác, và cũng chỉ có thể nhìn thấy khi ở trong bóng tối dùng đèn pin soi vào. Nếu như chiếc nhẫn ngọc đeo trên ngón tay người, thì chắc chắn không thể nhìn thấy những hoa văn này.
Dưới tấm bia đá “Trinh Liệt Âm Dương” trong thời khắc nửa đêm này, tôi nhìn chăm chú vào những hoa văn trong chiếc nhẫn ngọc, rồi lại ngẩng đầu nhìn lên bầu trời sao, không biết đó là chòm sao hay hệ sao gì, cảm giác giống như một “Hoàn” khổng lồ.
Có lẽ từ góc độ thần bí hơn mà nói, “Hoàn” tượng trưng cho hành tinh nào đó chưa được biết tới ngoài giải ngân hà, và tổ tiên của Âu Dương gia ở Hoang thôn, cũng chính là vương tộc sáng tạo ra văn minh Cổ Ngọc quốc Lương Chử, nghe nói chính họ là “người ngoài hành tinh” đầu tiên đổ bộ lên bờ biển này, tôi nghĩ có khả năng họ đến từ thế giới “Hoàn” đó, trải qua chẳng đường đăng đẵng gian khổ vượt hành tinh, từ hành tinh “Hoàn” xa xôi ngoài giải ngân hà đến với hoang nguyên của Trái Đất.
Dưới đây là những suy luận của bản thân tôi – người của hành tinh “Hoàn” vốn có nền văn minh cao độ, vốn dĩ đã sở hữu những sức mạnh nào đó mà người Trái Đất cảm thấy đó là những sức mạnh thần kỳ. Họ dựa vào sức mạnh này để sáng lập ra nền văn minh Cổ Ngọc quốc huy hoàng rực rỡ tại vùng Giang Nam sáu nghìn năm trước, còn mỏ ngọc giấu trong lòng đất của Trái Đất đã được họ chọn làm tải thể tin tức văn minh. Nhưng họ rút cuộc cũng chỉ là nạn dân rơi xuống và ở lại Trái Đất, hy vọng sớm muộn tới một ngày nào đó có thể trở về cố hương, vậy là họ chọn ra một miếng ngọc thạch thần kỳ nhất, chạm khắc thành hình dạng chiếc nhẫn rồi khắc bản đồ đường đi và số liệu hành tinh vào mặt bên trong chiếc nhẫn, hoặc là biểu thị vị trí của hành tinh “Hoàn” xa xôi. Thông qua chiếc nhẫn ngọc thần bí này, có thể chỉ đạo hậu duệ của “Hoàn” xuyên qua vũ trụ mênh mang, tìm thấy đường trở về nhà trong hàng tỷ năm ánh sáng.
Lẽ nào “Hoàn” là một loại bản đồ chòm sao? Bởi vậy nó mới ở trong văn minh Lương Chử cổ xưa, chiếm hữu địa vị cao thương và thần bí tối cao, cũng chính bởi vậy mà nhẫn ngọc mới đeo trên ngón tay của nữ vương thần thánh nhất, sau này lại trở thành thánh vật truyền đời của gia tộc. Trải qua thời gian hàng ngàn năm trôi đi, “Hoàn” giờ đây đang ở trong tay tôi và cũng trở về dưới chân tấm bia tiết hạnh của Hoang thôn.
Vậy là, tôi lại lần nữa giơ cao “Hoàn” lên, nhắm thẳng nó về phía bầu trời sao, trôi dạt trên trái đất hàng ngàn năm qua, nhà của nó rút cuộc ở đâu đây?
0 giờ 30 phút.
Giới hạn bảy ngày đã qua rồi, nữ vương phục sinh có còn sống không?
Tôi nắm chặt chiếc nhẫn ngọc trong lòng bàn tay, đi xuống một dốc núi bên ngoài thôn.
Xuân Vũ đi theo tôi hỏi: “Anh đi đâu?”
“Đưa nó về nhà”.
“Anh nói ai?”
Trong bóng đêm đặc quánh, tôi từ từ quay đầu lại: “Hoàn”.
Tôi cầm đèn pin tiến về phía trước, cẩn thận dò dẫm trên con đường nhỏ trên núi, Xuân Vũ cũng đành miễn cưỡng đi theo tôi lên núi.
Ánh sao rực rỡ trên bầu trời, nhưng đất trời Hoang thôn vẫn thê lương tiêu điều. Chúng tôi vất vả trèo lên dốc núi cao, gần như không còn nhìn thấy thôn xóm dưới chân núi, chỉ còn lại một vùng mênh mông tối đen khắp bốn bề, phía xa xa chính là đại dương vô bờ bến.
Lần theo ký ức nửa năm trước, tôi mên theo một dốc núi còn hoang vu hơn, chiếc nhẫn ngọc bị tôi nắm trong tay gần như nóng ran lên, gió đông buốt giá lướt qua bên tai, phát ra những âm thanh hun hút đáng sợ.
Thời khắc này tôi không còn sợ hãi bất cứ điều gì nữa, hình như cả Xuân Vũ cũng bị tác động bởi tôi, cô ấy bước nhanh hơn theo tôi.
Cuối cùng, tôi dò dẫm lên được một vách núi dựng đứng cheo leo, chỉ cần bước thêm một bước nữa là sẽ rơi xuống đáy vực thăm thẳm, biển đang gào thét thẳng đứng dưới chân vài chục mét, sóng biển trong đêm tối phát ra âm thanh khiến người ta khiếp sợ.
“Thật ra anh muốn làm gì thế?”
Xuân Vũ kéo chặt lấy vạt áo tôi, cô ấy lo lắng sợ tôi lỡ chân rơi xuống dưới.
Khóe miệng tôi mỉm cười: “Đừng sợ, tôi có thể tự lo được, cô cũng cần phải lo cho bản thân chứ”.
Sau đó, tôi đứng thẳng người, đối diện với biển đêm đen sì. Ngân hà “Hoàn” vĩnh hằng không bao giờ đổi thay đang lấp lánh trên đầu tôi, giống như gõ ra một nhóm mật mã trên bầu trời sao, mang theo cả vị mặn mòi của gió biển thổi vào mắt tôi, khiến cho nước mắt tôi như sắp tuôn trào.
Tôi hít một hơi thật sâu, giống như có cảm giác bay lên. Tôi giơ cao tay trái, chiếc nhẫn ngọc cuộn chặt trong lòng bàn tay tôi.
“Về nhà thôi, Hoàn”.
Sau khi khẽ thốt lên câu nói này, tôi dồn lực ném chiếc nhẫn ngọc trong lòng bàn tay về phía bên dưới vách đá.
Một ngôi sao băng lướt qua trên bầu trời tối đen.
Biển dưới vách núi lóe lên một ánh sao.
Vĩnh biệt nhé, Hoàn.
Biển hung tợn mở rộng lồng ngực khổng lồ, tức khắc nuốt chửng lấy chiếc nhẫn ngọc nhỏ bé.
Nó sẽ chìm sâu dưới đáy biển cạnh Hoang thôn hoặc là bị sóng cuốn xô đập vào bờ đá vỡ vụn, thịt nát xương tan hay là bị thủy triều đưa tới bến bờ nào đó cùa Thái Bình Dương?
Không một ai biết nơi trở về của nhẫn ngọc, nhưng tôi tin rằng hủy diệt chính là điều nó mong muốn.
Đúng vậy, tôi nhìn thấy chiếc nhẫn ngọc cười lạnh lùng trong nước biển, tôi nghe thấy nó hát trong bóng đêm…
Sinh ra bao nhiêu lần thì chết đi bấy nhiêu lần. Sinh một lần không dư, chết một lần không thiếu. Tử chính là diệt sinh, sinh chính là diệt tử.
Trong đêm tối, tôi không nhìn thấy rõ khuôn mặt của Xuân Vũ, chỉ cảm nhận được cô ấy tóm chặt lấy tôi, như bị cảnh tượng này làm cho sững sờ chết lặng. Nhưng chẳng mấy chốc Xuân Vũ đã trấn tĩnh trở lại, khẽ thì thầm bên tai tôi: “Anh làm đúng đấy”.
Khi tôi gật đầu ngước nhìn lên bầu trời sao, hình như có tiếng sáo du dương vọng lại từ rặng núi phía xa xa…
Tôi quay đầu lại hướng về phía dãy núi hoang vu, tất cả đều bị bao phủ bởi bức rèm đêm tối dày đặc, nhưng tôi tin rằng tiếng sáo đó tồn tại, tôi cũng biết rằng u hồn đó đang vẫy gọi kết cục này.
Nhất định nó đã nhìn thấy rồi.
Tiếng sáo tiếp tục bay bổng trong đêm tối Hoang thôn, nhưng vẫn chưa tới lúc tàn cuộc.
Quay đầu lại đối diện với biển lớn, lần nữa từ biệt chiếc nhẫn ngọc.
Sau đó, tôi và Xuân Vũ cẩn thận leo xuống vách núi, dùng đen pin soi đường, cảm giác dễ chịu hơn lúc leo lên rất nhiều.
1 giờ sáng.
Rút cuộc cũng đã về tới dưới chân tấm bia tiết hạnh, trong lòng lại cảm thấy mông lung và trống rỗng lạ thường, Xuân Vũ giục nói: “Ây, không tới nỗi ngủ lại ở Hoang thôn chứ?”
Đúng rồi, trưởng thôn không phải mời chúng tôi tới nghỉ đêm ở nhà ông sao? Quả nhiên, tôi nhìn thấy ánh đèn duy nhất còn sáng ở Hoang thôn, đó chắc là nhà của trưởng thôn rồi?
Chúng tôi vội vàng chạy vào Hoang thôn, lần theo ánh đèn trong đêm tối tìm thấy một khoảnh sân. Trưởng thôn quả nhiên đã để hè cửa cho chúng tôi. Sau khi vào sân, chúng tôi gõ cửa ngôi nhà nhỏ, trưởng thôn khoác áo đi ra dẫn chúng tôi vào nhà, ông xếp cho tôi ngủ ở căn phòng tầng một, vợ trưởng thôn dẫn Xuân Vũ lên căn phòng trên tầng hai.
Trong căn phòng thoang thoảng mùi đất của trưởng thôn, tôi vừa nằm xuống gối là liền ngủ thiếp đi, hình như vẫn còn tiếng sáo đang bay lượn trong mơ màng.
Ngủ ngon, các bạn…
Sáng
Tôi cứ ngỡ rằng mình sẽ mơ thấy “Hoàn”, nhưng tôi lại không mơ thấy cô ta (nó), thậm chí là cả Tiểu Chi mà tôi kỳ vọng cũng không xuất hiện.
Đây là đêm đầu tiên trong mấy tháng nay tôi không nằm mơ.
7 giờ sáng, tôi mơ mơ màng màng mở mắt, hình như ngửi thấy một mùi mằn mặn, đây là mùi thường ngửi thấy gần biển.
Lúc này tôi mới ý thức được mình đang ở Hoang thôn, nằm trong phòng nhà trưởng thôn, những gì xảy ra đêm qua lại hiện lên rõ nét trước mắt tôi.
Đột nhiên, tôi lo lắng sờ lên tay trái mình, trên ngón trỏ chẳng còn gì cả, chiếc nhẫn ngọc đã thật sự rời xa tôi.
Sau khi ngủ dậy tôi phát hiện trưởng thôn đã chuẩn bị bữa sáng cho chúng tôi từ sớm, cháo nóng bốc hơi nghi ngút ăn kèm với dưa muối của người dân Hoang thôn khiến tôi húp lấy húp để sau cả đêm đói bụng.
Sắc mặt Xuân Vũ xem ra cũng khá hơn nhiều, hình như cô ấy đã thay đổi quan điểm về Hoang thôn.
Sau khi ăn sáng xong, chúng tôi tạm biệt vợ chồng trưởng thôn, vội vàng rời khỏi ngôi làng cổ kính này, khi ra tới đầu thôn, tôi khẽ hỏi Xuân Vũ: “Đêm qua cô có nằm mơ không?”
Cô ấy sững sờ một lúc, sau đó lạnh lùng đáp: “Có mơ”.
Chắc là không phải mơ thấy “Hoàn" đâu nhỉ? Nhưng tôi vẫn thử hỏi thăm dò: “Cô mơ thấy ai?”
“Cao Huyền”.
Câu trả lời này nằm ngoài sự tưởng tượng của tôi, nhưng trong tình hình và tâm lý lúc này, tôi không biết nên nói gì, chỉ biết gật gật đầu.
Ra khỏi tấm bia đá tiết hạnh, phía đông chính là biển đen mênh mông. Bờ biển lúc sớm mai mịt mù trong sương khói, những dốc núi phía tây kín mít những ngôi mộ. Trong bóng tối đêm qua vốn không nhìn thấy bia mộ, giờ thì đã rõ nét dị thường, tiếng sáo lúc nửa đêm chắc cũng được vọng ra từ những ngôi mộ này.
Buổi sáng không có xe tới Hoang thôn, chúng tôi chỉ biết dựa vào đôi chân. Đi trên con đường núi trơ trọi không có lấy một ngọn cỏ, quay đầu nhìn lại Hoang thôn và ngón tay trỏ trống trơn, đột nhiên thấy buồn man mác, tận sâu đáy lòng còn buồn rầu hơn.
Tạm biệt Hoang thôn, tạm biệt “Hoàn”, tạm biệt Tiểu Chi.
Trong sương khói mịt mùng sớm mai, tôi và Xuân Vũ cực nhọc đi bộ hơn một tiếng đồng hồ, chân của chúng tôi giống như sắp gãy cả ra, cuối cùng thì cũng có thể leo lên một chiếc xe hướng tới thị trấn Tây Lãnh, lắc lư chở chúng tôi về thị trấn.
Cuối cùng cũng đã trở lại thị trấn Tây Lạnh, cái tên này thật nên thơ, chỉ cách Hoang thôn một dãy núi, mà giống như từ địa ngục trở lại nhân gian vậy.
Có độc giả đoán rằng cái tên “thị trấn Tây Lãnh” lấy từ trong tiểu thuyết Salem’s Lot(1) của Stephen King, trên thực tế tôi chưa từng đọc qua cuốn sách này (kể cả xem phim). “Tây Lãnh” vốn là một cái tên Trung Quốc hóa, nguồn gốc đến từ Chiết Giang, nếu mọi người có hứng thú thì có thể đoán xem.
Chiếc nhẫn ngọc đã bị tôi ném xuống biển. Bây giờ đối với tôi mà nói, nghi hoặc lớn nhất chính là A Hoàn (Lâm U) – giới hạn bảy ngày đã qua, cô ta còn sống hay đã chết? Tôi có thể tìm thấy tung tích của cô ta không nhỉ? Tất cả những điều này rút cuộc là vì cái gì?
Tôi bắt buộc phải nhanh chóng trở về Thượng Hải, chúng tôi đành phải ở lại thị trấn Tây Lãnh đợi đến buổi chiều.
Giờ là 9 giờ sáng, tôi và Xuân Vũ đi loanh quanh trong thị trấn, không ngờ vừa mới rẽ một cái trên đường là đã nhìn thấy một cảnh tượng hoàn toàn khác.
Đây là một con đường cổ được lát đá xanh, hai bên đều là những ngôi nhà cũ kĩ quét vôi với mái ngói màu xanh đen, có những quán trà, quán rượu, quán cơm cổ kính, chắc là dáng vẻ của thị trấn Tây Lạnh 100 năm trước.
Chúng tôi đi vào một quán trà cổ, gọi hai chén trà nóng. Vừa mới ngồi xuống chưa được bao lâu, người trong quán trà đã càng lúc càng đông, đa số đều là những ông lão bà lão tóc bạc phơ, họ ngồi vây quanh những chiếc bàn, hình như đang chờ đợi điều gì đó xuất hiện.
Bỗng nhiên, một giọng nữ lanh lảnh cất lên từ sau tấm rèm trong quán trà, tiếp đó lướt qua một bóng phụ nữ mặc cổ trang, đó là chiếc áo gấp nếp thêu hoa thường thấy trong ca kịch Côn Khúc(2), phía dưới là một chiếc váy màu xanh, trên tay còn tung cả ống tay áo thướt tha. Hóa ra là hát ca kịch địa phương, tuy mặt cô ấy hóa trang nhàn nhạt, tóc được bới thành kiểu hoa trâm, nhưng tôi vẫn có thể nhìn ra tuổi tác của cô ấy không còn trẻ, chắc tầm ngoài 30 tuổi.
Những ông lão bà lão bên cạnh bắt đầu vỗ tay, trong quán trà này chỉ có hai thanh niên – tôi và Xuân Vũ hơi cảm thấy hơi ngại.
Tiếp đó người phụ nữ bắt đầu hát, nhưng ngay câu đầu tiên đã khiến tôi ngây người ra giống như gà gỗ.
Tôi nghe thấy tiếng hát của A Hoàn (Lâm U).
Không sai, miệng cô ấy hát ra chính là giọng hát này, nói chính xác hơn là ca kịch của một địa phương nào đó, đằng sau còn có vài bô lão kéo đàn nhịn đệm cho cô ấy, tiếng sáo và tiếng tiêu cất lên du dương, tôn lên giai điệu bay ra từ miệng cô ấy.
Đây chính là tiếng hát trí mạng của A Hoàn (Lâm U). Ngay từ lần đầu tiên nghe thấy trong DV của Tô Thiên Bình, nó đã khắc sâu trong trí não tôi. Lần thứ hai nghe thấy tiếng hát này trong phòng Tô Thiên Bình, tôi gần như hồn xiêu phách lạc. Tôi tuyệt đối không thể nghe nhầm.
Trong đầu tôi vừa nhớ lại tiếng hát của A Hoàn (Lâm U), bên tai vừa văng vẳng ca kịch cổ xưa của thị trấn Tây Lãnh. Người phụ nữ vừa hát kịch vừa bước những bước khoan thai ngón tay hoa lan trang nhã uyển chuyển, và cả ánh mắt, cả sự biểu cảm đó cũng đậm vẻ cổ điển. Tuy nghe không hiểu ca từ của cô ấy, nhưng tôi tin rằng cô ấy đang hát về một truyền thuyết cổ xưa nào đó…
Màn ca kịch này biểu diễn khoảng một tiếng đồng hồ, người phụ nữ hát kịch liền vội vàng lui vào cánh gà, các bô lão trong quán trà dường như vẫn còn ngay ngất, có lẽ đây chính là thú giải trí quan trọng nhất của họ.
Tôi không thể không hỏi một ông lão ngồi bên cạnh: “Thưa bác, đây rút cuộc là kịch gì vậy ạ?”
“Tử dạ ca”.
Ông lão trả lời tôi bằng giọng Chiết Giang đặc sệt, thần thái lúc nói chuyện thật rạng rỡ, dường như vẫn đang đắm chìm trong ca từ cổ xưa.
Cái tên này đã từng quen thuộc với tôi, tôi cúi đầu lẩm bẩm nói: “Tử dạ ca – Đúng rồi, tôi còn nhớ hình như Lý Bạch cũng đã từng viết Tử dạ ca”.
“Thực ra ‘Tử dạ ca’ vốn không phải là thơ, mà là tình ca của một cô gái”.
Xuân Vũ đột nhiên nói thêm vào, ánh mắt có chút buồn bã.
“Sao cô lại biết?”
Cô ấy hình như đã thuộc lòng về nó: “’Tử dạ ca’ xuất hiện đầu tiên trong các Nhạc phủ thời Nam triều, cái tên này được đặt theo tên của cô gái Tử Dạ đời Tấn, giai điệu ca khúc rất bi ai, đến nước ma quỷ trong gia đình giàu sang quyền thế Vương Kha Phù thời Đông Tấn cũng phải cảm động mà hát câu ca này. Ngoài ra còn có ‘Tử dạ từ thời ca’… đều là một thể loại của ‘Giang Nam ngô thanh’ trong ‘Nam triều thanh thương khúc’. Không chỉ có Lý Bạch, Nam Đường Lý Hậu Chủ cũng đã lấy ‘Tử dạ ca’ làm tên ca khúc”.
Tôi thốt lên: “Oa, Xuân Vũ cô giỏi thật đấy”.
Đến cả ông lão của thị trấn Tây Lãnh cũng vô cùng ngạc nhiên trước Xuân Vũ, ông không ngừng gật đầu tán thưởng.
“Không có gì, gần đây tôi đang đọc ‘Nhạc phú thi tập’, nghe thấy ba chữ ‘Tử dạ ca’ này tự nhiên thấy rất quen. Đáng tiếc, bất luận là Ngô thanh ca, Tây Châu khúc hay là Giang Nam thần huyền khúc’ đi nữa, thì giai điệu của chúng đã thất truyền từ lâu rồi, chúng ta chỉ biết ca từ nhưng lại không biết hát thế nào”.
Tôi lập tức hỏi ông lão bên cạnh: “Bác ơi, bác có biết ‘Tử dạ ca’ ở đây bắt đầu có từ khi nào không ạ?”
“Tử dạ ca lâu đời lắm rồi, không một ai biết về niên đại khởi nguồn của nó, truyền thuyết kể lại rằng cô gái Tử Dạ đời Tấn chính là tổ sư của loại kịch này, còn có chuyên giai mệnh danh rằng nó chính là hóa thạch sống trong lịch sử ca kịch Trung Quốc”. Bô lão này rõ ràng cũng rất am hiểu văn hóa, thảo nào Chiết Giang vốn là nơi xuất thân của nhiều văn nhân, chỉ là khẩu âm của ông thực sự rất khó nghe, “Nhưng do tiếng địa phương của các vùng Chiết Giang khác nhau, rất nhiều thể loại kịch nhỏ chỉ có thể lan truyền trong địa phương, rời khỏi bản huyện là không ai nghe hiểu cả, bởi vậy ‘Tử dạ ca’ chỉ mãi mãi như cô con gái lớn lên trong khuê các thâm sâu, không ai biết đến”.
Xuân Vũ gật gật đầu nói: “Rõ ràng là di sản văn hóa rồi”.
“Sau Dân Quốc, ‘Tử dạ ca’ đã bị suy thoái, đến năm 1949 thì chỉ còn lại một lớp ca kịch, được chính phủ cải tạo thành đoàn kịch huyện. Mấy chục năm trước đoàn kịch xảy ra hỏa hoạn, đa số diễn viên đều bị chết cháy, ‘Tử dạ ca’ cơ bản cũng tuyệt chủng rồi”.
“Thế kịch bản nãy chúng cháu vừa xem thì sao ạ?”
“Do còn lại đĩa hát lưu lại từ những năm 60, sau đó có người dựa vào dĩa hát và ca từ trước đây học theo, đáng tiếc là đã không còn chính tông nữa”.
Nghe tới đây lòng tôi bỗng bừng sáng, có lẽ nút thắt cuối cùng cũng đã được tháo gỡ rồi. Tôi lập tức cảm ơn bô lão, kéo Xuân Vũ ra khỏi quán trà đông đúc.
Cô ấy khẽ càu nhàu: “Anh làm cái gì thế?”
Tôi không trả lời ngay, mà tìm tới một nơi yên tĩnh, móc điện thoại ra gọi vào số của Lâm U, nhưng tôi chỉ nghe thấy “Xin lỗi, thuê bao quý khách vừa gọi hiện đang tắt máy”.
Xuân Vũ nghi ngờ nhìn tôi: “Anh tìm Lâm U?”
Tôi “ừm” qua loa một tiếng.
“Không, anh không thể tìm thấy cô ta nữa đâu”.
Câu nói này đè nặng lên tim tôi, giống như mây đen đang bao trùm lấy thị trấn Tây Lãnh.
Đợi mãi tới trưa, chúng tôi ăn bữa trưa trong thị trấn rồi lên xe khách đường dài trở về Thượng Hải.
Vẫn là ngồi phía sau xe, Xuân Vũ mệt mỏi nhắm nghiền mắt lại, tựa vào cửa sổ ngủ thiếp đi. Còn tôi thì lại lấy cuốn "Hủy diệt mộng cảnh" ra, tên tác giả Hứa Tử Tâm trên bìa sách đập vào mắt tôi.
Xe khách từ từ rời khỏi thị trấn Tây Lãnh, núi non xanh mướt hai bên đường dần dần lùi lại phía sau, sự trống trải trong lòng cũng càng lúc càng mãnh liệt.
Hành trình dài miên man lại bắt đầu rồi…
Tạm biệt, Tây Lãnh.
1.Salem’s Lot: Tiểu thuyết kinh dị nổi tiếng về ma cà rồng của nhà văn Mỹ - Stephen King, sau đó đã được dựng thành phim – ND.
2.Kịch côn khúc: ra đời từ thế kỷ 14 tại Côn Sơn, Tô Châu, Trung Quốc là một trong những loại hình cổ nhất của nghệ thuật ca kịch Trung Quốc – ND.
Đêm
7 tiếng đồng hồ sau.
Bên ngoài cửa sổ xe lại là bầu trời đêm rực rỡ đèn hoa xanh đỏ của Thượng Hải, núi non xanh mướt của thị trấn Tây Lãnh và biển của Hoang thôn dường như đã trở thành kí ức của một thời khắc khác, trước mắt chỉ có con đường Hằng Phong rộng thênh thang, và còn cả những tòa nhà cao to sừng sững phía xa xa.
Ra khỏi bến xe khách đường dài, tôi không ngừng co duỗi chân tay. Xuân Vũ ngủ trên xe cả buổi chiều, tinh thần hình như có tốt hơn đôi chút.
Chúng tôi ăn vội chút đồ ngoài bến xe, Thượng Hải trong màn đêm thôi thúc tôi nhanh chóng hành động, Xuân Vũ chán nản nói: “Thế rốt cuộc bây giờ anh muốn thế nào?”
“Chúng ta đi tìm Lâm U!”
Không đợi Xuân Vũ trả lời tôi đã gọi một chiếc tắc xi, đưa cô ấy tới căn hộ mà Lâm U thuê.
8 giờ tối, chúng tôi đã tới khu dân cư này, một lần nữa trở lại căn hộ có vẽ trên cánh cửa.
Xuân Vũ chưa từng tới đây, cô ấy cẩn thận quan sát mọi thứ xung quanh rồi thì thào nói: “Lâm U ở trong đó sao?”
Tôi vẫn không mở lời mà nhắc chậu hoa trước cửa, quả nhiên phát hiện ra khóa nhà dưới dáy chậu.
Sau khi dùng chìa khóa mở cửa thì thấy mọi thứ trong căn hộ đều chẳng có gì thay đổi, vẫn như lần trước tôi tới đây. Một bên là căn phòng màu đen của Lâm U, một bên là căn phòng mày trắng của A Hoàn – khi cô ta là Lâm U, cô ta sẽ ở trong căn phòng bên trái, khi cô ta là A Hoàn, cô ta sẽ ở trong căn phòng bên phải, giống như hai người bạn cùng thuê chung một nhà, chỉ có đều họ không bao giờ đồng thời xuất hiện, bởi vậy không biết gì về nhau.
Cô ta còn có thể ở đâu vậy?
Tôi cúi đầu đi đi lại lại mấy bước, rồi kéo Xuân Vũ ra khỏi căn hộ này, xuống dưới lầu gọi một chiếc tắc xi đi về hướng con phố nhỏ kín mít những quán bar.
Trên đường đi Xuân Vũ không ngừng hỏi tôi đang nghĩ gì trong lòng, nhưng vẻ mặt của tôi trầm tư giống như đêm đen vậy, không nói lấy một lời.
20 phút sau, chúng tôi tới quán bar có cửa kính sát đất, Xuân Vũ có vẻ không hề thích những chỗ như thế này, cô ấy không muốn vào nên đã đứng ngoài cửa đợi tôi.
Tôi lao như bay vào trong, tách những gã nửa say nửa tỉnh ra và tìm thấy trưởng ca mà tôi quen, cậu ta liền thu ngay lại nụ cười rẻ tiền, vội vàng hỏi: “Ê, tối hôm trước anh đưa Lâm U đi đâu vậy?”
Đúng rồi, tôi nhớ lại cái đêm mà Lâm U bỗng nhiên ngất xỉu trong quán bar khiến ở đây náo loạn hết cả lên, sau đó tôi đưa cô ta tới bệnh viện.
Tôi có chút bối rối trả lời: “Cô ấy không quay lại sao?”
“Không, từ sau cái đêm mà anh đưa cô ấy đi, cô ấy không xuất hiện thêm lần nào nữa, gọi điện thoại cũng toàn tắt máy”.
“ô, cảm ơn cậu”.
Tôi không thể nói thêm điều gì nữa, lập tức chui ra ngoài. Nhưng tay trưởng ca hình như vẫn chưa muốn buông tha nên đã đuổi theo tôi ra tới tận ngoài cửa.
Không ổn – Tôi lao ra khỏi quán bar, kéo Xuân Vũ chạy về phía bên kia đường, sau lưng vang lên tiếng gào thét chửi rủa của tay trưởng ca.
Xuân Vũ vẫn chưa hiểu đầu cua tay nheo gì cả nên hỏi: “Người đó định làm gì thế?”
“Hắn say rồi!”
Nói xong chúng tôi chạy vào một con ngõ nhỏ hẹp, con ngõ tối thui khiến Xuân Vũ trở nên lo lắng: “Anh muốn đi đâu?”
Trong bóng tối, tôi lạnh lùng trả lời: “Địa ngục!”
Xuyên qua con ngõ dài ngoằng thì chính là dãy phố vắng hoe lạnh lẽo đó, ki ốt bưu thiếp cá tính ở ngay trước mặt.
Xuân Vũ hiểu ra rồi: “Đây chính là nơi phát hiện ra u hồn bưu thiếp?”
“Đúng”.
Tôi nhìn ngó xung quanh, gió lạnh từ góc phố cuộn lại khiến người ta bất giác rùng mình. Tôi chầm chậm sang đường, mở cửa ki ốt bưu thiếp.
U hồn không có đây.
Ki ốt trống hươ trống hoắc, đến cả bưu thiếp trong kỳ vọng cũng không thấy đâu.
Tôi thất vọng ra khỏi ki ốt, quay đầu hướng về bầu trời đêm thành phố, mơ màng cảm thấy có gì đó đang nhảy múa.
“Cô ta rút cuộc ở đâu?”
Xuân Vũ đã bị tôi dày vò đủ rồi, cô ấy cười đau khổ nói: “Anh nhất định phải tìm thấy cô ấy sao?”
“Không vì lý do nào cả!”
(Nói ra tên một cuốn sách ở đây, thực sự là có chút nực cười, đừng mắng tôi nhé).
“Tìm một cô gái giữa Thượng Hải rộng lớn thế này, chẳng khác nào mò kim đáy bể”.
Đúng vậy, tôi nhớ tới kết thúc của một cuốn tiểu thuyết mình viết – Cô ấy giữa biển người mênh mông.
Dưới ánh đèn đường lạnh lẽo âm u, Xuân Vũ lắc đầu nói: “Xin lỗi, tôi đã quá mệt mỏi rồi, bây giờ tôi phải về trường đây!”
Tôi thở dài nói: “Về đi”.
Nhưng bỗng chốc hình như có gì đó đập lên tim tôi – về trường?
Trường của Xuân Vũ là đại học S.
Đúng, tôi bây giờ cũng nên tới đại học S, bởi vì vẫn còn một nơi đợi tôi đến xem sao.
Có lẽ đây là cơ hội duy nhất.
“Tôi và cô cùng về trường đi”.
Xuân Vũ vẫn chưa hiểu ra chuyện gì thì đã bị tôi kéo tới vệ đường, chặn một chiếc tắc xi hướng tới đại học S.
Xe tắc xi lao như bay trong màn đêm Thượng Hải, Xuân Vũ hỏi tôi tại sao lại muốn tới trường cô ấy, nhưng tôi lặng lẽ nhìn ra ngoài cửa sổ không nói lấy một lời.
9 giờ 30 phút, xe dừng lại trước cổng đại học S.
Tôi vẫn không nói gì cả, chỉ hộ tống Xuân Vũ tới chân ký túc xá nữ, trước khi lên lầu cô ấy lại hỏi tôi lần nữa, nhưng tôi vẫn lắc đầu không đáp.
Tuy Xuân Vũ không biết tôi muốn làm gì, nhưng chắc chắn là cô ấy đã dự cảm được điều gì đó, cô ấy chau mày nói: “Hai hôm nay, cảm ơn anh”.
Tôi ngốc ngếch hỏi: “Cảm ơn tôi cái gì?”
“Cảm ơn anh đã đưa tôi trở lại Hoang thôn lần nữa”.
“À, vậy thì tôi cũng phải cảm ơn cô vì đã đi cùng tôi”.
Xuân Vũ gật gật đầu với tôi rồi vội vã lên cầu thang ký túc xá.
Gió lạnh trong đêm tối cuồn cuộn thổi qua sân trường, tôi một mình đứng giữa khoảnh đất trống, ngẩng đầu lên chỉ nhìn thấy vầng trăng lạnh lẽo đang lấp ló sau tầng mây.
Vầng trăng lạnh lẽo cũng là một “Hoàn”.
Đáng tiếc “Hoàn” thế này mỗi tháng chỉ có một lần.
Vậy là, tôi đọc nhẩm một câu trong “Bướm yêu hoa” của Nạp Lan Tính Đức: “Tân khố tối liên thiên thượng nguyệt, nhất tịch thành hoàn, tịch tịch đó thành quyết”.
(Nỗi đau khổ tột cùng lên tận vầng trăng cao, chỉ tròn trong một đêm, đêm đêm lại thành khuyết).
Sân trường đại học S tôi vốn đã quen thuộc từ lâu, dẫm lên ánh trăng sáng lóa, tôi đi xuyên qua con đường nhỏ mà thường ngày ríu rít những đôi nam nữ, cuối cùng cũng đến trước tòa nhà phủ đầy bụi bặm.
Đúng vậy, đây chính là nơi mà năm hôm trước Tôn Tử Sở đưa tôi tới, phòng thực nghiệm tâm lý học của Hứa Tử Tâm ở ngay trên chính tòa nhà này. Khi nghe thấy Xuân Vũ nói muốn về trường, tôi tức khắc nhớ ngay tới tòa nhà này. Tôn Tử Sở từng nói hội sinh viên thường đồn nhau rằng, u hồn Hứa Tử Tâm sau khi tự sát vẫn không muốn bỏ đi nên thường xuyên xuất hiện gần đây.
Tôi ngẩng đầu nhìn lên căn gác tôi đen trong tòa nhà thì phát hiện ra một ánh đèn leo lắt trong một ô cửa sổ.
Đây là cửa sổ tầng ba, đốm sáng giống ánh nến âm u khiến người ta khiếp sợ.
Hứa Tử Tâm đã thật sự quay trở lại rồi sao?
Không thể kìm chế được sự kích động trong lòng, tôi lao như bay vào tòa nhà, buổi đêm chẳng có ai trực ca ở đây, cả tòa nhà dường như đã ngủ say. Tôi vội vã chạy những bước dài lên cầu thang, cuối dãy hành lang chính là phòng thực nghiệm của Hứa Tử Tâm năm nào.
Tôi không biết công tắc đèn ở đâu, đành phải lấy đèn pin trong cặp ra, khó khăn lắm mới xác định được cánh cửa sắt đó. Đúng lúc tôi đang đau đầu vì không biết phải làm cách nào để vào bên trong thì đột nhiên ngeh thấy âm thanh khe khẽ từ bên trong vọng ra.
Quả nhiên trong phòng có người – hoặc là u hồn?
Tim tôi đập nhanh khủng khiếp. Tôi thử đẩy nhẹ cánh cửa sắt, không ngờ cánh cửa đã mở ra. Tôi nhớ lần đó, trước khi cùng Tôn Tử Sở ra về, rõ ràng là anh ấy đã khóa chặt cửa rồi mà.
Không để ý những thứ đó nữa, tôi cẩn thận, rón rén bước vào phòng thực nghiệm tâm lý học, ở đây sáng bóng đèn đỏ âm u, ánh sáng nhìn thấy từ dưới lầu được phát ra từ chính căn phòng này.
Giờ thì tôi đã nghe rõ âm thanh này, nó vọng ra từ trong phòng thực nghiệm. Một giọng nữ vừa thanh vừa sắc, yi yi a a hát lên trong tiếng sáo và tiếng tiêu làm nhạc đệm, hình như nó đã xông thẳng vào lớp da đầu tôi.
Tôi nhớ giọng hát này…
Tử dạ ca.
Trong phòng thực nghiệm tâm lý học của đại học S, tôi lại nghe thấy Tử dạ ca của thị trấn Tây Lãnh cổ kính. Tiếng hát đó giống như tiếng ai oán vĩnh hằng cổ xưa của u hồn dốc hầu tâm sự, cổ họng uyển chuyển cất lên những giai điệu du dương gần như khiến tôi say đắm trong căn phòng này.
Đúng, đây chính là âm thanh mà ba năm trước Tôn Tử Sở nghe thấy khi bước vào căn phòng này.
Lần đó anh ấy nhìn thấy Hứa Tử Tâm, vậy lần này tôi thì sao?
Tôi hy vọng có thể được nói chuyện với tác giả cuốn "Hủy diệt mộng cảnh".
“Trở lại Hoang thôn” và "Hủy diệt mộng cảnh".
Trong thời khắc Tử dạ ca xuyên suốt không gian, tôi đã lặng lẽ đẩy cửa phòng.
Ở đây chính là địa cung.
Tử dạ ca vẫn đang vang vọng…
Trong phòng không có Hứa Tử Tâm, nhưng tôi đã nhìn thấy con gái ông.
Lâm U màu đen đang ngồi thẫn thờ trong một căn buồng đầy sách. Cô ta sững sờ nhìn vào mắt tôi, hoàn toàn không ngờ rằng tôi có thể xuất hiện trong thời khắc này và tại chính nơi đây.
Tôi vẫn nhìn thấy trên bức tường trước mặt.
Lâm U mím chặt môi tựa vào tường, tiếng hát u hồn vẫn đang ngân nga bay bổng.
“Là ai đang hát ‘Tử dạ ca’?”
Đột nhiên, tôi phát hiện ra tiếng hát vang lên từ phía sau giá sách, tôi lập tức ké giá sách nặng sang một bên, thì nhìn thấy phía sau có giấu một chiếc máy phát nhạc cổ.
Đây là một chiếc máy phát nhạc vừa tròn vừa dẹt, bên trong là chiếc đĩa hát cổ đang chuyển động, hai bên còn có hai chiếc kèn nhỏ, “Tử dạ ca” được phát ra từ chính chiếc máy này.
Lâm U đang hát trong đĩa nhạc.
Cuối cùng thì cũng đã phát hiện ra bí mật này, tiếng hát mà Tôn Tử Sở nghe thấy ba năm trước trong căn phòng này trên thực tế được phát ra từ chính chiếc máy phát nhạc sau giá sách. Tôi khẽ nhấc thanh chạy đĩa lên, giọng hát đột nhiên im bặt, phòng thực nghiệm tâm lý học lại trở về trạng thái tĩnh mịch như đã chết.
Lâm U vẫn nép trong góc phòng, ánh mắt cô ấy phức tạp nhường vậy, tôi thực sự không biết dùng từ ngữ nào để hình dung nữa.
Tôi lấy đĩa hát trong máy phát nhạc ra, đây là đĩa hát cổ ra đời từ những năm 60, bên trên có đề tên kịch Tử dạ ca là “Tử dạ quỷ thê”.
Hóa ra, đây chính là đĩa hát “Tử dạ ca” mà bô lão ở thị trấn Tây Lãnh đã nói với tôi chiều này. Lúc đó tôi đã phát hiện ra nút thắt này, chỉ có điều không ngờ là nó lại được tháo ra ở đây?...
Tôi quay đầu lại nhìn thẳng vào mắt Lâm U nói: “Chắc cô không thể ngờ đúng không? Cuối cùng, tối nay tôi lại mò được tới đây?”
Cô ta nhìn tôi như người câm, hoặc là thuần túy chỉ có thể dùng mắt nói chuyện.
Nhìn đôi mắt đáng thương này, tim tôi bỗng mềm nhũn ra, nhưng sự việc đã tới mức này rồi làm sao tôi có thể rút lui đây? Tất cả những gì xảy ra trong những ngày qua luôn lởn vởn trong đầu tôi, một bí mặt vừa được phát hiện ra thì lại kéo theo một bí mật mới khác, sự nghi hoặc giống như chiếc vòng liên hoàn lôi cuốn tôi, tôi luôn cho rằng bản thân mình thực sự đã xâm nhập vào một thế giới khác.
Nhưng, kể từ đêm qua tôi đã dần dần hiểu ra. Một vài những manh mối đả được tôi sắp xếp lại trong hỗn loạn, trong bóng tối mịt mùng đã lóe lên một tia sáng, chỉ ra cho tôi chìa khóa để phá vỡ mê cung.
Trong vài tiếng gần đây, đầu óc tôi tức tốc tính toán, bởi vậy vốn chẳng bận tâm tới những câu hỏi của Xuân Vũ, nhìn tôi rất giống một chiếc máy im lặng.
Đúng, chân tướng luôn dưới mí mắt bạn.
Các bạn độc giả, tôi quyết định không kéo dài thời gian nữa, đã đến lúc nói ra rồi…
“Để tôi đoán thử xem nhé. Ba năm trước, giáo sư Hứa Tử Tâm – cha cô, vốn đã nghiên cứu mối quan hệ giữa truyền thuyết cổ đại và tâm lý học từ trước đó rất lâu, một cơ hội tình cờ đã khiến ông biết được truyền thuyết Hoang thôn, vậy là ông đã tìm kiếm Hoang thôn trong vất vả khó nhọc, và trong dịp nghỉ đông, ông đã đưa cô cùng tới đó”.
Một thứ gì đó lướt qua trong mắt Lâm U, nhưng cô ấy bất giác gật đầu, thừa nhận sự suy đoán của tôi về ba năm trước.
Tôi cười nhạt nói: “Cô nói với tôi rằng cô biết Tiểu Chi, khiến người ta cho rằng cô có thể nhìn thấy u hồn. Không sai, cô thực sự có quen Tiểu Chi, nhưng đó là vào ba năm trước – cô và cha cô đã ở trong Tiến Sỹ Đệ, lúc đó hai cha con Âu Dương Tiểu Chi vẫn ở đó, các cô đương nhiên là quen biết nhau rồi”.
Quả nhiên không nằm ngoài dự đoán, Lâm U vẫn gật gật đầu.
“Tôi không biết quan hệ giữa cô và Tiểu Chi như thế nào, cũng không biết Âu Dương tiên sinh đã nói gì với cha cô, tóm lại, chuyến đi tới Hoang thôn lần đó đã để lại cho cô ấn tượng vô cùng sâu sắc. Nhưng, chịu ảnh hưởng nặng nề nhất e rằng lại chính là cha cô. Ông nhất định đã nghe kể về truyền thuyết cổ xưa của Hoang thôn, và cũng đã biết về lời nguyền vĩnh hằng đó. Tuy giáo sư Hứa là nhà tâm lý học nổi tiếng, nhưng có lẽ do ông đã nghiên cứu quá nhiều chứng bệnh kỳ lạ, bản thân ông cũng bị những chứng bệnh đó ảnh hưởng nên đã khiến ông bị tẩu hỏa nhập ma, sản sinh ra một dạng tâm lý biến thái kì dị. Và chuyến đi tới Hoang thôn đã cho ông ám thị tâm lý mãnh liệt và cuối cùng đã khiến ông trở thành bệnh nhân của chứng bệnh mà bản thân mình đang nghiên cứu – người bị mắc chứng hoang tưởng bức hại!”
“Không!”
Lâm U rút cuộc đã bộc phát ra, tiếng hét chói tai của cô ta gần như chọc thủng cả màng nhĩ tôi, nhưng sau đó cô ta lại lập tức cuộn người lại trong góc tường.
Tôi hài lòng gật đầu, cái tôi cần chính là trạng thái này của cô ta. Tôi bình tĩnh đáp: “Cô càng nói ‘không’, thì trong lòng càng đang thừa nhận. Ba năm trước, chuyến đi của hai cha con cô tới Hoang thôn, ngoài việc biết được truyền thuyết của Hoang thôn và quen biết gia đình Âu Dường ra, còn có một thu hoạch lớn nhất chính là có được đĩa hát này”.
Nói xong, tôi giơ chiếc đĩa cổ trong tay lên, đặt lên mũi ngửi ngửi nói: “Mùi thật cổ điển! Chiếc đĩa nhạc này đã ghi lại Tử dạ ca những năm 60, loại nhạc kịch đại phương lâu đời này đã thực sự nhiễm vào cha cô, đối với ông nó có một sức mạnh thôi miên, hủy hoại dây thần kinh kiên cường cuối cùng của ông. Ba năm trước, sau khi ông trở lại Thượng Hải, cả ngày chỉ trốn trong căn phòng này nghe đĩa hát, hồi tưởng lại tất cả những gì nhìn thấy, nghe thấy ở Hoang thôn, trải qua những suy tưởng và khủng hoảng về cái chết nên cuối cùng ông đã để lại di thư”.
“Đúng, tôi hận ông”.
“Ba năm trước cha cô để lại di thư, sau đó bặt vô âm tín, cô dĩ nhiên rất đau lòng. Trong lúc thu dọn di vật của ông, cô đã phát hiện ra chiếc đĩa nhạc cổ đến từ Hoang thôn. Cha cô đã để lại cho cô chìa khóa của căn phòng thực nghiệm, cô thường xuyên tới đây lúc nửa đêm rồi bất chiếc đĩa nhạc này lên nghe. Bởi vậy mới có chuyện những sinh viên đồn nhau rằng tòa nhà này có ma và ban đêm nhìn thấy ánh đen sáng trong ô cửa sổ ở đây. Loại ca kịch này có sức mạnh thôi miên tới nỗi khiến cô nghe tới mức nghiện nó. Cô lại là một cô gái lạnh lùng thông minh, nên nghe trong vòng ba năm qua tự nhiên cũng học được cách hát ‘Tử dạ ca’”.
Đủ cho trong lòng tôi đang tự hào với thành tích suy đoán của mình, nhưng sự buồn bã trống trải còn xâm chiếm nhiều hơn. Tôi nhìn căn phòng chất kín sách cũ nói: “Cô không những học thuộc được cách hát ‘Tử dạ ca’ ở đây, mà con đọc những cuốn sách và tài liệu mà cha cô để lại. Với sự thông minh của cô, cộng thêm thời gian ba năm qua, chắc hẳn là cô đã “gặm” hết đống sách đó, và cũng được coi là nhà tâm lý học và nhà khảo cổ học bán chuyên nghiệp rồi. Cô biết được kí hiệu Lương Chử thần bí và hàm ý của mật mã, cũng biết được ám hiệu tâm lý và phương pháp sử dụng thôi miên, điều này khiến cô trở thành một cô gái đáng sợ, tiềm ẩn sức mạnh thần bí giống như nữ thầy mo”.
Lâm U lần nữa gật đầu, ánh mắt lạnh lùng nhìn tôi nói: “Không sai, tôi cảm thấy mình đã trở thành nữ thầy mo từ lâu rồi”.
“Thật không may đây lại là một thế giới của đàn ông, cô vẫn chỉ là một cô gái yếu đuối. Ba năm qua cô gái cô độc không nơi nương tựa như cô đã phải chịu đựng rất nhiều sự xâm hại. Tất cả những gì cô học được ở đây, đều chỉ là để bảo vệ cho bản thân mình, để không phải chịu đựng sự xâm hại của cái thế giới tàn khốc này, thậm chí là để báo thù những người đã từng làm hại cô”.
Trong đêm tối tại phòng thực nghiệm tâm lý đại học S, Lâm U lại lần nữa bị tôi đánh trúng, cô gái đáng thương này vẫn tỏ ra kiên cường dị thường, trấn tỉnh kiên định nói: “Quả là suy diễn hoàn mỹ - đúng vậy, tôi trước đây vốn rất sùng bái cha mình, nhưng ông lại ích kỷ vĩnh viễn rời xa tôi. Kể từ đó tôi trở nên đau khổ khôn cùng, thậm chí bắt đầu cảm thấy hận cha mình. Ba năm qua một mình bôn ba trong cái xã hội này, tôi đã trải qua những khổ nạn mà người khác phải mấy cuộc đời mới phải gánh chịu, gặp phải biết bao con người có tâm hồn dơ bẩn độc ác, tôi…”
Nói tới đây Lâm U đã bắt đầu nghẹn ngào, tôi đành phải bổ sung tiếp cho cô ta; “Những điều đó khiến cô đầy rẫy sự bất an và thù hận, trong tiềm thức luôn tồn tại mong muốn mãnh liệt được bảo vệ bản thân, nhưng chũng chính sự thù hận mãnh liệt này đã khiến cô nảy sinh ra sự rạn nứt và biến hóa về nhân cách”.
“Đó là bởi vì anh”.
“Tôi?” Lời quở trách này khiến lòng tôi cũng trở nên bất an, “Là bởi vì cô đã đọc cuốn ‘Quán trọ Hoang thôn’?”
“Lẽ nào không phải sao? Anh có còn nhớ những lời cảnh báo anh viết trong phần mở đầu của cuốn truyện không?”
Dĩ nhiên tôi không thể nào quên.
“Các bạn độc gải thân mến, bất luận bạn kích động thế nào sau khi đọc cuốn truyện này, nhưng hãy luôn ghi nhớ lời cảnh báo của tác gải – nhất định không được tới Hoang thôn. Nếu như bạn không nghe lời cảnh báo này, hậu quả xảy ra tác giả sẽ không chịu trách nhiệm”.
Trên thực tế tôi đã không hề viết ra vị trí cụ thể của Hoang thôn trong sách, chỉ nói là tại thị trấn Tây Lãnh của thành phố K tỉnh Chiết Giang, nằm giữa biển và nghĩa trang. Tôi tinr ằng tuy có rất nhiều đôc giả muốn tới Hoang thôn, nhưng họ chắc chắn không thể tìm thấy địa điểm này.
Nhưng mà tôi đã bỏ sót một điều quan trọng, giả dụ có người trước đó đã từng tới Hoang thôn, vậy thì anh ta (cô ta) sẽ dễ dàng quay trở lại chốn cũ.
Lâm U cười đau khổ một tiếng: “Hôn một tháng trước tôi đã muốn cuốn ‘Quán trọ Hoang thôn’ của anh, cuốn sách này đã gợi lại cho tôi kí ức về Tiểu Chi, và cũng đã thôi thúc ham muốn trở lại Hoang thôn của tôi. Vậy là tôi lần theo ký ức của ba năm trước, quay trở lại Hoang thôn lần nữa, thậm chí ngay tại cổng thôn còn gặp lại trưởng thôn đã tiếp đón chúng tôi ba năm trước. Nhưng trong Tiến Sỹ Đệ cổ kính đã không còn bất cứ ai, theo như miêu tả của anh trong sách, quả nhiên tôi đã phát hiện ra mật thất dưới lòng Tiến Sỹ Đệ. Tôi lấy hết dũng khí xâm nhập vào địa cung thì phát hiện thấy tất cả những gì anh viết trong tiểu thuyết đều là sự thật, quả thực có một chiếc nhẫn ngọc thần kỳ”.
“Cô đã lấy chiếc nhẫn ngọc đi!”
“Đúng, nhưng tôi không đeo nó lên, tôi biết một khi đã đeo nó lên là sẽ không thể nào tháo ra được, bởi vậy tôi đã đeo chiếc nhẫn ngọc trước ngực”.
“Tại sao không nghe lời cảnh báo của tôi? Tại sao lại phạm sia lầm to lớn lần nữa? Nhưng điều khiến tôi không thể nào chấp nhận được chính là – tại sao cô lại phóng hỏa đốt Tiến Sỹ Đệ?”
Mặt Lâm U hơi biến sắc: “Tôi không phóng hỏa! Tối hôm đó khi tôi rời khỏi Tiến Sỹ Đệ mọi thứ đều vẫn ổn mà, nhưng tới nửa đêm khi tôi đang trên núi, quay đầu lại nhìn thì thấy Hoang thôn đang bốc cháy, lúc đó tôi vẫn chưa biết là Tiến Sỹ Đệ xảy ra hỏa hoạn. Tôi nghĩ, chắc là một u hồn nào đó ẩn nấp trong Tiến Sỹ Đệ đã bị tôi đánh thức, có lẽ nó vô cùng thù hận ngôi nhà cổ này nên đã đốt cháy rụi Tiến Sỹ Đệ”.
Tôi không biết nên nói gì, chỉ biết chán nản lắc đầu nói: “Có lẽ vậy, có lẽ nó vốn là một ngôi nhà tội ác, mấy trăm năm nay chắc là có không ít oan hồn của vợ thế”.
“Anh đã nhận được thẻ biên nhận bưu kiện của người mê sách tôi gửi cho anh chưa?”
“Ừm, mấy hôm trước cũng đoán được là cô gửi cho tôi rồi. Trên phong bì không có têm cũng chẳng có ngày tháng gửi, chắc là cô nhờ người đưa thư tới phải không?”. Lúc này tôi đã lục cặp lấy tấm thẻ đó ra, chỉ vào họ tên và địa chỉ trên tấm thẻ nói, “Những kí hiệu cổ đại mà cô vẽ trên phong bì này, đều được cô nhìn thấy trong sách và tài liệu của cha cô phải không? Họ tên của cô là ‘Hoàn’, địa chỉ là ‘Kim tự tháp và cung điện cạnh Thái Hồ, còn có cả địa cung của lăng mộ người thống trị’. Nhưng, khiến tôi cảm thấy ngạc nhiên nhất lại chính là mặt sau của tấm thẻ…”
Tôi lật mặt sau của tấm thẻ lên, lộ ra tấm ảnh của Tiểu Chi.
Lâm U giơ tay ra vuốt tấm thẻ này nói: “Đây thực ra là ảnh của ba năm trước. Tôi và cha tới Tiến Sỹ Đệ của Hoang thôn, đêm đó tôi đã ngủ trong phòng Tiểu Chi và chụp cho cô ấy một tấm ảnh”.
“Tôi hiểu rồi, cô đã in tấm ảnh đó lên mặt thẻ, cô tin rằng một tấm thẻ như vậy gửi cho tôi, nhất định sẽ khiến tôi thực sự rung động, nhưng tại sao cô lại làm thế?”
“Bởi vì có lẽ tren thế giới này, anh là người duy nhất có thể hiểu Hoàn”.
“Lẽ nào tất cả những điều này, chỉ là để cô ra cho tôi một câu đố?”
Có lẽ tôi đã tiếp cận được mật mã cuối cùng.
“Lúc ban đầu là như vậy, nhưng kể từ sau khi tôi gặp Tô Thiên Bình thì đã thay đổi”.
“Đúng vậy, hãy nói xem tại sao cô lại muốn trở thành u hồn bưu thiếp?”
Lúc này ánh mắt cô ấy lại biến đổi, cô ta lườm tôi nói: “Anh tin không? Thân xác tôi quả thực vẫn còn có một linh hồn khác – A Hoàn”.
Sao lại quay lại nhỉ? Tôi lập tức lắc đầu hỏi: “Cô vẫn cho rằng A Hoàn tồn tại? Cô ta không phải là tầng nhân cáh thứ hai của cô sao?”
“Không, tôi không chia tách nhân cách. Trong căn hộ tôi thuê thực sự có hai người ở, chỉ có điều họ cùng chung một thân xác mà thôi”.
“Lâm U màu đen và A Hoàn màu trắng?”
Thực ra trong lòng tôi vẫn nhận định rằng cô ta có hai tầng nhân cách, chẳng qua là loại người này thông thường không bao giờ tự thừa nhận mà thôi.
“Đúng vậy, A Hoàn là một u hồn lo sợ bị mọi người lãng quên. Cô ấy tin rằng mình là nữ vương Lương Chử phục sinh, hơn nữa thời gian sống lại chỉ có thể kéo dài trong bảy ngày, bắt buộc phải đoạt được linh hồn của một người khác mới có thể kéo dài thêm bảy ngày nữa. Vì thế mà cô ta mới ngày ngày chạy tới ki ốt bưu thiếp, chụp ảnh rồi quăng lại trên sàn, chờ đợi ai đó phát hiện ra”.
“Bất hạnh ở chỗ, người đó hóa ra lại là Tô Thiên Bình!”
“Tô Thiên Bình phát hiện ra u hồn bưu thiếp hoàn toàn là do ngẫu nhiên, cho dù là tôi hay là A Hoàn đều không thể ngờ tới… Anh ta mang theo DV bám theo A Hoàn, mãi cho tới tận khi đối thoại với A Hoàn. Tô Thiên Bình nói rằng anh ấy đang quay một bộ DV phóng sự tên là ‘U hồn bưu thiếp’, sau đó còn đưa A Hoàn về căn hộ của anh ấy, để A Hoàn đối diện với ống kính tự thuật lại câu chuyện của mình”.
Tới đây, thì tôi cũng đã gật đầu: “Còn cô – nói cách khác là A Hoàn, vẫn đối dện với ống kính của Tô Thiên Bình hát ‘Tử dạ ca’, có lẽ kể từ giây phút đó cậu ấy đã tiếp nhận một loạt ám thị tâm lý nào đó, thậm chí còn tin vào những điều hoang đường mà cô vẽ ra nên đã sảnh sinh ra hoang tưởng bức hại giống cha cô”.
“Nhưng đây không phải là lí do anh ta phải chịu sự trừng phạt”.
“Đủ rồi, tôi biết lí do anh ta biến thành người thực vật!” Tôi phẫn nộ định nói ra hết, nhưng đối diện với đôi mắt đáng thương của cô ta lại khiến tôi không còn chút tức giận nào nữa cả, chỉ có thể cố gắng kìm chế sự kích động trong lòng nói, “Bởi vì cái đêm tám ngày trước, khi cô trở lại thành Lâm U, cuộn tròn khóc thút thít trong phòng của cậu ta, lúc này Tô Thiên Bình đã lộ ra nguyên hình là một con dã thú, và đã muốn dùng vũ lực để làm ô nhục cô”.
Lâm U tức khắc cuộn tròn lại, cô ấy lùi lại vào góc tường, mắt khép hờ, miệng lẩm bẩm: “Đừng nói nữa! Đừng nói nữa!”
“Để tôi nói tiếp…”. Được rồi, bây giờ hãy để Lâm U và các bạn độc giả cùng nghe những suy luận của tôi nhé: “Trong thời khắc tội ác đó, cô đã nhớ lại tất cả sự xâm hại mà mình đã phải chịu đựng suốt ba năm qua, mọi nỗi đau khổ mà một thiếu nữ phải chịu đựng đã chất đống lại, trở thành khát vọng trả thù to lớn. Vậy là, bản năng tự vệ này sinh trong lòng cô, tức khắc biến thành nhân cách của A Hoàn. Đúng vậy, vì A Hoàn là nữ vương phục sinh, cô ấy nắm trong tay sức mạnh thần bí, cô ấy là một cô gái đủ lớn mạnh để bảo vệ cho Lâm U khi bị xâm hại. A Hoàn lôi chiếc nhẫn ngọc trong lòng ra, và lúc đó đã khiến cho Tô Thiên Bình sợ tới nỗi hồn xiêu phách lạc… xảy ra chuyện gì tiếp theo thì chắc là phải tới lượt cô kể cho tôi rồi”.
Trong lúc tôi thuật lại những suy luận này, Lâm U thở dốc từng hơi từng hơi lớn, giống như từng cảnh tượng đó đang diễn lại lần nữa: “Sói… hắn là sói… Tử dạ ca… thêm cả chiếc nhẫn ngọc… đem linh hồn dơ bẩn của hắn đi… đáng bị trừng phạt… trừng phạt…”
“Nhưng cô không có quyền trừng phạt một con người như thế! Cho dù linh hồn của cậu ta thực sự dơ bẩn. Tôi nghĩ, đây có lẽ không phải là sức mạnh gì của chiếc nhẫn ngọc, mà là do sự kích thích thần kinh được tích lũy lại mà cậu ấy phải chịu đựng hơn nửa năm qua, cuối cùng thì đã bộc phát trong cái đêm đó. Và cô đã giơ chiếc nhẫn lên trước mặt cậu ta, đó là ngọn cỏ cuối cùng đè chết lạc đà”.
Lâm U lại trợn ngược mắt lên, hình như bị tôi vạch trần ra sự giả tạo cuối cùng, cô ta run rẩy nói; “Đêm hôm đó, tôi đã lấy chiếc nhẫn ngọc ra, cuối cùng đã hát một lần ‘Tử dạ ca’, sau đó thì chạy ra khỏi phòng Tô Thiên Bình. Tôi đi loanh quanh bên ngoài nửa tiếng đồng hồ, tôi không biết anh ta rút cuộc thế nào, tôi lo sợ anh ta bị hoảng loạn mà chết. Vậy là tôi đã trở lại căn hộ của Tô Thiên Bình thì phát hiện ra anh ta đã mất đi nhận thức, trng tay vẫn đang nắm chặt điện thoại”.
“Đúng, lúc đó cậu ta vừa mới nhắn tin ‘Cứu tôi với’ cho tôi”. Tôi rùng mình một cái, giống như đang trở lại cái đêm trước khi trở về, trên cầu Ngân Đính ở Hậu Hải Bắc Kinh, “Theo như tình tiết cô miêu tả, tôi nghĩ Tô Thiên Bình lúc đó đã sợ hãi cao độ, tới nỗi thần kinh nổ tung chỉ trong mười mấy phút. Những gì đã trải qua ở Hoang thôn nửa năm trước vẫn ảnh hưởng nặng nề tới cậu ấy, sự khủng hoảng bên trong và bên ngoài kết hợp với nhau khiến choc ậu ấy bị sốc. Và mấy tiếng đồng hồ não thiếu oxy cũng đủ để làm tổn thương nghiêm trọng tới vùng trung tâm thần kinh của con người, Tô Thiên Bình vì thế đã biến thành một người thực vật không có linh hồn”.
“Tôi không biết – lúc đó tôi rất sợ hãi, tôi nhớ lại những cuốn sách mà cha tôi để lại, trong sách nói về rất nhiều những nghi thức cổ đại. Vậy là, tôi đã làm theo những ghi chép của cổ nhân, xếp thành hình ‘Hoàn’ trong phòng ngủ rồi dìu Tô Thiên Bình đang hôn mê vào chính ‘Hoàn’ đó. ‘Hoàn’ trong phòng khách cũng là do tôi bày ra, ngôi sao màu trắng cũng là do tôi vẽ ra để lừa gạt người khác mà thôi”.
Tôi rút cuộc cũng gật gật đầu nói: “Hoàn trên kính cửa sổ cũng là do cô vẽ ra phải không?”
“Đúng, tôi thừa nhận đều do tôi làm. Tôi biết tin nhắn cuối cùng mà Tô Thiên Bình gửi đi chắc chắn là gửi cho anh, bởi vậy tôi có thể đoán được, ngày hôm sau anh sẽ tới tìm anh ta – tôi bắt buộc phải bày ra những nghi thức đó, để đánh lạc hướng anh, để anh tưởng rằng linh hồn của Tô Thiên Bình là do một vu thuật nào đó cướp mất”.
“Cuối cùng thì cũng nói ra rồi, nhưng tôi vẫn phải bổ sung thêm – tối hôm đó cô còn kiểm tra máy tính của Tô Thiên Bình, bởi vì cô biết trong căn nhà cậu ta lắp rất nhiều camera, và còn quay cả DV về cô nữa. Cô đã xóa gần hết những DV không có mật mã, chỉ còn vài tập file do có mật mã nên không thể động tới được. Những dữ liệu trong hệ thống giám sát cũng đều bị cô xóa hết, nhưng cô vẫn để lại một đoạn quan trọng nhất – cũng chính là đoạn mà Tô Thiên Bình định xâm hại cô trong cái đêm cuối cùng đó, và cô còn giấu nó trong một tập file cực kỳ khó tìm thấy”.
Lâm U vẫn thở hổn hển từng hơi lớn: “Bởi vì, đây là đoạn chứng cứ ghi lại tội ác của Tô Thiên Bình”.
“Tối hôm trước, không, là sáng sớm hôm qua, sau khi tôi bị ‘Tử dạ ca’ của cô làm cho hôn mê đi, cô đã bật máy tính của Tô Thiên Bình, do cô biết trong đó có phần mềm hẹn giờ nên đã hẹn giờ tới lúc sáng để đoạn hình ảnh đó tự động bật lên, như vậy là đã có thể để tôi biết được tội ác của Tô Thiên Bình rồi”.
Cô ta đau khổ chau mày: “Đúng thế, anh hài lòng chưa?”
“Để tôi nói tiếp. Còn nữa, trong mấy hôm đầu tiên, tôi luôn cảm thấy có u hồn xuất hiện trong căn phòng của Tô Thiên Bình, trong camera ban ngày cũng có thể nhìn thấy một cái bóng – tôi nghĩ người đó đang đứng trước mặt tôi. Cô có được chìa khóa nhà của Tô Thiên Bình, buổi tối khi tôi ngủ trong phòng khách, cô vẫn có thể lặng lẽ vào trong căn hộ này. Thực ra kể từ khi đó tôi đã bị rơi vào bẫy của cô, cô có thể mở máy tính trong phòng ngủ lúc nửa đêm, thông qua camera có thể nhìn thấy nhất cử nhất động của tôi trong phòng”.
Nói tới đây, tôi thở hắt ra như trút được gánh nặng. Sự suy luận hoàn mỹ này cuối cùng cũng đã được tôi hoàn thành – mối quan hệ giữa Lâm U và A Hoàn, lai lịch của chiếc nhẫn ngọc, còn cả Tô Thiên Bình mất đi linh hồn, tất cả đều được giải thích hợp tình hợp lý, tôi tin rằng đây chính là chân tướng.
Thực ra, việc Tô Thiên Bình mang theo DV là hoàn toàn ngẫu nhiên, cậu ta xảy ra chuyện cũng hoàn toàn là do thân làm thân chịu, còn tôi thì lại chủ định cuốn vào trong đó. Chỉ vì Tô Thiên Bình mà đã khiến tôi xâm nhập vào thế giới của Lâm U (A Hoàn) bằng một cách hết sức đặc biệt, và sau khi xâm nhập vào đó đã khiến bản thân tôi cũng điên cuồng theo.
Còn về nữ vương phục sinh của năm nghìn năm trước, và cả chuyện cứ bảy ngày lại phải cướp đi một linh hồn, có lẽ đều là do Lâm U (A Hoàn) tự mình tưởng tượng ra.
Sự việc đã tới ngày hôm nay, biểu hiện của Lâm U cũng không còn căng thẳng nữa, cô ấy khẽ thở dài: “Anh cho rằng anh đều đã biết hết rồi sao?”
Đã gần tới thời khắc nửa đêm, tôi dường như đã trút bỏ hết tất cả những bức bối trong lòng những ngày qua, tôi kề sát lại gần cô ta hơn nói: “Tôi tin vào trí tuệ, và sự suy đoán của bản thân”.
Cuối cùng, ánh mắt Lâm U lại lộ ra sự buồn bã âm thầm: “Được thôi, tôi không đôi co với anh nữa”.
“Tôi cũng không muốn đôi co gì với cô cả, chỉ là sau khi phát hiện ra tất cả chân tướng của sự việc thì tôi thật sự không biết nên làm thế nào nữa”.
Cô ấy dửng dưng nói: “Tùy anh làm thế nào thì làm, nhưng tôi vẫn có một việc muốn hỏi anh”.
“Xin mời”.
“Anh đã làm gì với chiếc nhẫn ngọc rồi?”
Hóa ra cô ấy đã chú ý tới tay trái của tôi từ lâu, trên ngón trỏ không có chiếc nhẫn ngọc, vậy là tôi bình tĩnh trả lời:
“Tôi đã ném chiếc nhẫn ngọc xuống biển Hoang thôn rồi”.
Lâm U hơi sững sờ một chút, gật gật đầu: “Anh làm rất tốt. Có lẽ tôi vốn không nên quay trở lại Hoang thôn, càng khôn nên lấy chiếc nhẫn ngọc từ dưới địa cung lên, nếu không thì Tiến Sỹ Đệ đã không bị thiêu cháy”.
“Đây chính là nguyên nhân mà cô muốn lấy chiếc nhẫn ngọc rồi để tôi đeo nó lên? Thực ra cô hy vọng tôi sẽ đem chiếc nhẫn ngọc đi và để tôi quyết định nơi trở về của nó”.
“Không sai!”
Tôi gật đầu nói: “Giờ thì chiếc nhẫn ngọc đã chìm sâu dưới đáy biển, hoặc là đã thịt nát xương tan, vậy thì cô hài lòng rồi chứ?”
“Có lẽ vậy, ai biết được tiếp theo sẽ xảy ra chuyện gì?”
“Mọi thứ đều đã kết thúc rồi, cô có còn muốn nói gì với những độc giả của ‘Quán trọ Hoang thôn’ không?”
Nếu như bây giờ là trong phim, cô ấy sẽ quay người lại ống kính, rầu rĩ nói: “Để tôi hát một bài nhé”.
Vẫn chưa đợi tôi kịp phản ứng, Lâm U đã hé môi, thốt ra những cao âm dài thườn thượt, tiếp đó là giai điệu trầm bổng thê lương.
Tôi lập tức trợn tròn mắt: “Tử dạ ca…”
Đúng vậy, lần này thì không cần phải dùng tới máy phát nhạc nữa, mà là Lâm U tự mình hát.
Trong không gian thần bí “Tử dạ ca", giai điệu của Tử dạ ca như luồng điện xuyên suốt cơ thể, nhẹ nhàng vuốt ve linh hồn tôi.
Muốn giãy giụa nhưng không kịp nữa rồi, trước mắt chỉ còn lại đôi mắt của Lâm U, còn có cả trên tường nữa.
Cuối cùng thì mọi thứ đều đã mất hết, chỉ còn lại duy nhất vùng biển đen sì, nuốt chửng lấy đầu óc tôi.
Giai điệu “Tử dạ ca” ngập tràn thế gian.
Đại dương của Hoang thôn.
Dưới đáy biển sâu thẳm lạnh giá đó, tôi nhìn thấy chiếc nhẫn ngọc đang tỏa sáng…

No comments:

Post a Comment