Oct 24, 2008

LỜI ƯỚC THỀ TRĂM NĂM








Cánh đồng cát nắng cháy rộng mênh mông và dường như kéo dài đến vô tận. Những con người đang lếch thếch nhấc từng bước,  kéo lê chân mệt mỏi thành những vệt dài đâm xiên chéo vào nhau như những đường chỉ rối.

 
Dưới những chiếc nón sắt loang lở  vết sơn màu xanh, những cái vai áo kaki đẫm ướt mồ hôi, muối đọng thành những quầng trắng bạc, lưng người lính còng  xuống vì sức nặng của những chiếc ba lô căng cứng, lẫn lộn xen kẻ với những tấm áo vải bạc màu và quang gánh tội nghiệp của đám dân chúng chạy loạn. Một hàng đoàn dài thườn thượt quân lẫn dân lặng im, kiệt lực đi về phía mặt trời mọc, mà bây giờ nó đang đứng ngay trên đỉnh đâu. Những tia nắng chói chang của một ngày đầu hè dội lên bãi cát những cơn nhiệt nóng tưởng chừng thể nung đỏ cả đá. Những con mắt mất thần dõi trông về phía trước, bên trái hay bên phải tìm kiếm dấu vết của nước. Những đôi môi thâm đen, khô nứt đang liếm chất mồ hôi mặn chát chảy từ chân tóc xuống, lạn sạn bụi cát. Chỉ toàn cát với cát. Lác đác nhũng bụi cỏ vàng úa, những thứ bụi cây gai cứng, nhọn thấp lè tè, hay một vài cây dương cằn cỗi oằn oại dưới cơn lửa nhiệt mùa hạ. Bọn trẻ con phá vỡ cái im ắng dị thường đó bằng những tiếng kêu khóc đòi sữa, đòi nước và đòi được cho ăn. Tiếng khóc nấc nghẹn của chúng dậy lên những âm thanh đau thương, thống thiết vang dội cả một khoảng trời trong xanh.


Những người lính đi lẫn lộn trong đám dân chúng, bị chìm ngập bởi những cánh tay đen, gầy như một rừng cành cây khô héo, một khi họ phân phát những giọt nước cuối cùng trong những cái bình tong nhựa, hay những gói gạo sấy, những hộp thức ăn ít ỏi còn sót lại dưới đáy ba lô. Chỉ mới một vài khoảnh khắc trước, một đại đội lính xông lên được an toàn trên cái đồi cát mênh mang này, sau khi đã chạy qua một cái vũng sình lầy, mà cứ mỗi thước vuông có không biết là bao nhiêu trái đạn pháo dội xuống. Bỗng nhiên từ mọi phía trên dãi cát, đám dân chúng ẩn nấp trong lùm cây bị cỏ từ trước ùa ra reo hò nắm lấy những người lính :”Lính mình, lính mình, lính cộng hòa...”. Đồng bào đông quá. Không biết họ đã lên đến cánh đồng cát này từ bao lâu, họ từ đâu tới và họ muốn đi về đâu. Đồng bào mừng quính, khi nhiều đại đội lính khác xông qua được cái trũng tử thần phía dưới. Họ ôm chầm lấy lính khóc òa :”Anh lính cộng hòa ơi...”. Lính cũng khóc. Đối với người dân hiền lành mộc mạc ở những nơi đồng khô cỏ cháy và trong nỗi chết chóc kinh hoàng đến tận cùng này, thì những chiếc áo kaki của lính đồng nghĩa với hy vọng và sự sống. Nhưng con đường vẫn còn dài thăm thẳm. Đi về hướng mặt trời mọc ra hướng biển rồi quặt xuống phía Nam, mức đến cuối cùng sẽ là một con sông được gọi tên là Mỹ Chánh, mà ở đó dân chúng nghe nói có “lính mình” nhiều lắm.


Đói, khát, kiệt sức, những người yếu đuối nhất, ông gia,ụ bà lão, đàn bà và trẻ con, lác đác dừng chân ngồi phệt xuống giữa con đường cát bỏng đưa những đôi mắt lờ đờ khô quánh nhìn theo đám dân chúng còn đứng vững trên hai chân lê lết bước qua . Những khuôn mặt hốc hác sạm đen ngước lên chăm chăm, đôi mắt mờ đục, tuyệt vọng ánh lên sự cầu xin cứu giúp. Một bà lão tóc bạc lơ thơ, bụi cát đã nhuộm thành màu xám xịt, chiềc áo vải cũ vá chằng vá đụp, mặt mũi bà nhăn nheo, sâu đậm như những vết nứt trên đồng khô đang ôm trong lòng một ông già ốm yếu nằm hấp hối bên đường. Cái miệng móm mém đã hết răng của bà phát ra những âm thanh áo não không thành tiếng. Bà lão đang khóc, nhưng itếng khóc của bà chỉ là một chuỗi tiếng kêu rên tắt nghẹn. Có lẽ rồi cũng đến lượt bà hấp hối như ông lão thôi. Chợt trông thấy hai người lính đi gần sát bên, bà lão đưa cánh tay gầy đen đủi chỉ còn xương bọc da níu lấy chân một người. Rồi bà nhoài người ra dùng cánh tay còn lại ôm luôn cái ống chân của anh lính khóc lóc :


- Cậu ơi cậu, tui lạy cậu, cậu cứu giùm ông già...

Anh lính sững người đứng chết lặng. Anh cúi đầu xuống nhìn bà lão, đôi mắt anh ánh lên vẻ xót thương :


- Ông ngoại làm sao vậy bà ngoại ?

Bà già ngước mặt lên, bà chấp tay trong tư thế sắp sửa cúi xuống lạy anh lính, lắp bắp những lời chắp nối đứt  đoạn:


- Tui lạy...làm ơn cứu...  ổng bịnh, ổng ...đói, khát... tui lạy mấy cậu...

Anh lính vội khuỵu chân  xuống đỡ lấy tay bà lão :


- Bà ngoại ơi...

Anh xốn xang nhìn vào đôi mắt kèm nhèm mờ đục của bà lão, rồi anh nhìn xuống khuôn mặt hốc hác của ông lão. Ông lão vừa rên hừ hừ vừa đờ đẫn nhìn anh lính, đôi môi khô nứt của ông mấp máy không thành tiếng. Anh lính thở dài rút lấy cái bình đông nước, anh đưa cao lên lắc lác. Hình như chỉ còn một chút xíu ở tận đáy. Anh mở nắp trút những giọt nước quí giá cuối cùng ấy vào. Anh lính buồn rầu nhìn cái nắp chỉ lưng một nửa nước. Anh chậm rãi nâng đầu ông lão lên và nghiêng cái nắp rót nước vào miệng ông. Ông già nhắp nhắp nước, ông đưa mắt nhìn anh lính với vẻ biết ơn. Anh lính ngước lên kêu người bạn :


- Ê, Tư , mày còn nước rót cho bà ngoại một miếng.

Người lính được gọi là Tư lắc đầu nói trống không :


- Còn đâu mà còn !

Bà già đưa cái càm móm nhóp nhép đôi môi thâm đen :


- Tui không dám...

Tư ngồi xuống nắm lấy tay bà lão :


- Con cháu đâu hết rồi mà để cho ông ngoại bà ngoại lang thang như thế này ?

Bà già đưa đôi mắt u sầu nhìn người lính :


- Chết hết rồi, chỉ còn một đứa, nó đi đâu mất. Mấy cậu người ở đâu nói tiếng nghe lạ rứa?

- Tụi con ở miền Tây ra bà ngoại ơi !

Bà già nheo mắt nhìn anh lính lạ lùng :


- Miền Tây là ở mô, có phải trong nước Việt mình ?

Tư không khỏi không mĩm cưới trước câu hỏi ngộ nghĩnh của bà già :


- Miền Tây ở tận trong xa lắm bà ngoại ơi.

Hai người lính đứng lên muốn đuổi theo toán quân, bà già hoảng hốt ôm chặt lấy chân anh lính kêu khóc. Hai người bạn nhìn nhau. Mãi một lúc sau Tư buồn buồn nói với bạn :


- Thôi mình đi Hậu, biết làm sao...

Hậu bất nhẫn cúi xuống nhìn cái đầu tóc bám đầy bụi đất lơ thơ chỉ còn có  mấy sợi của bà lão thở hắt ra :


- Tư, mày chịu khó vác thêm cái ba lô của tao !

Tư trố mắt nhìn bạn :


- Mày muốn cõng ông già hả ?

- Ừ, nhìn ông bà cụ này tao chợt nhớ ông ngo2707

No comments:

Post a Comment