๑ Chương 13: Gió thu se sắt lùa biên ải ๑
Y đặt mảnh
sọ còn sót lại của Vân Trạch xuống trước mặt mẹ. Luy Tổ chẳng hề khóc
lóc kêu gào, chỉ đờ đẫn nâng mảnh sọ lên ôm vào lòng, luôn tay ve vuốt,
miệng mấp máy, lắng tai nghe kỹ mới nhận ra bà đang hát ru, “À ơi, thỏ
chạy tung tăng, ngựa phi lộp cộp, ơi con cưng của mẹ, không đau đâu mà…”
Nóng lui lạnh tới, vắng thỏ bặt chim, chớp mắt đã cuối thu.
Như thường lệ, sau khi cùng dùng bữa tối, A Hành và Thiếu Hạo ở chung một phòng, ai làm việc nấy.
A Hành đang
đọc sách y, chợt ngẩng lên thấy Thiếu Hạo chăm chú nhìn mình, bèn gập
sách lại hỏi, “Sao thế? Chàng muốn đi nghỉ rồi à?”
Thiếu Hạo
đáp: “Du Võng đang tập kết đại quân, e rằng sắp tới sẽ tấn công Hiên
Viên. Theo thám tử Cao Tân báo về thì Du Võng muốn đòi lại vùng đất khi
xưa bị Hiên Viên lừa gạt chiếm mất. Nàng thấy sao?”
“Sao lại muốn nghe ý kiến của thiếp? Thiếp đâu có dẫn quân tác chiến!”
“Trên bàn cờ
gió mây vần vũ, hai người chúng ta chỉ là những con cờ bị lợi dụng mà
thôi, nếu không cam lòng làm con cờ thì phải cố gắng vươn lên, hơn nữa,
để được ta xem trọng, nàng buộc phải có năng lực khiến ta nể vì.”
A Hành lập
tức ngồi thẳng dậy, ngẫm nghĩ một hồi rồi hỏi: “Sao Du Võng vội vã động
binh với Hiên Viên thế? Y vừa đăng cơ được mấy tháng, vương vị còn ngồi
chưa vững kia mà.”
Thiếu Hạo đáp: “Chính vì ngồi chưa vững nên y mới buộc phải động binh.”
A Hành ngạc nhiên, liền khiêm nhường thỉnh giáo: “Xin rửa tai lắng nghe.”
“Hiên Viên
tộc sau khi lập quốc đất đai cằn cỗi nên vẫn luôn khuếch trương về phía
Đông, xâm lấn không ít lãnh địa của Thần Nông, Vương tộc Thần Nông nằm
giữa Trung nguyên, Hiên Viên chẳng xâm phạm được đến lợi ích của họ
nhưng các nước chư hầu của Thần Nông phải gánh thiệt hại nặng nề, đem
lòng căm hận Hiên Viên đã lâu. Chẳng qua khi xưa họ e ngại Viêm Đế đời
trước đức cao vọng trọng, không dám gây chiến, còn bây giờ họ có sợ gì
Du Võng, ắt hẳn đã liên kết với nhau xin phát binh, lại được mấy đại
tướng nắm giữ binh quyền như Chúc Dung, Cộng Công đứng bên thêm dầu vào
lửa, tát nước theo mưa nữa. Nếu thua trận, bọn Chúc Dung sẽ tha hồ đổ
tại Du Võng dốt nát vô dụng còn nếu thắng, chúng vừa được lòng quân sĩ,
lại được cả sự hỗ trợ từ các chư hầu. Lúc này Du Võng chưa ngồi vững
trên vương vị, lại thêm bản tính thiếu quyết đoán, dưới sự ép buộc của
quần thần, đành chịu để họ thao túng thôi.”
A Hành thở
dài, “ Mọi người đều cho rằng đế vương muốn gì làm nấy, mấy ai biết được
đế vương cũng luôn luôn bị kìm hãm, nhưng mà…”
“Nhưng mà làm sao?”
Để thăm dò
tin tức về Xi Vưu, A Hành đành nghiến răng làm bộ bình thản nói: “Nhưng
bên cạnh Du Võng còn có Xi Vưu hỗ trợ, bằng vào tính tình Xi Vưu, hắn
chẳng chịu để kẻ khác thao túng cắt đặt đâu.”
Thiếu Hạo thản nhiên đáp, giọng điệu vẫn điềm đạm như cũ: “Nàng nói phải, có điều bây giờ không đến lượt hắn làm chủ.”
Nghĩ đến Xi
Vưu hiện giờ chỉ có một chức quan hữu danh vô thực, chẳng thể khống chế
cục diện triều đình, A Hành không khỏi than thầm.
Thiếu Hạo
nói tiếp: “Du Võng hiện giờ chỉ giống được Viêm Đế đời trước ở lòng nhân
đức, chứ mưu trí và quyết đoán thì thua xa, hầu như cả đại hoang đều
cho rằng Viêm Đế phong Xi Vưu làm Đốc Quốc Đại tướng quân là để bổ sung
cho khiếm khuyết của Du Võng, nhưng ta lại thấy Viêm Đế còn có dụng ý
sâu xa hơn kia.”
“Dụng ý sâu xa hơn ư?”
“Mấy vạn năm
trước, thực lực Cao Tân vốn vượt xa Thần Nông, Viêm Đế đời thứ ba của
Thần Nông là người nhìn ra trông rộng, lại vô cùng quyết đoán, đã bỏ lệ
phong đất cho những người trong họ tộc, mà thi hành luật mới, bất kể có
phải người trong vương thất hay không, cũng chẳng cần câu nệ là thần hay
người, miễn lập công cho Thần Nông thì sẽ được phong vương, được toàn
quyền thu thuế trên đất phong của mình. Nhờ cải cách đó mà lớp lớp anh
hùng xuất hiện ở Thần Nông, vận nước càng lúc càng hưng thịnh, dần dần
áp đảo cả Cao Tân. Nhưng về lâu về dài, chế độ phong vương cho người
khác họ dần dà để lộ nhược điểm, các nước chư hầu cha truyền con nối rồi
kết mối thông gia với nhau, thế lực cũng đan cài vào nhau, khó tránh
chỉ tin dùng người thân của mình, con em các nhà quý tộc rất dễ trở
thành tướng quân hay quan lớn, còn những kẻ xuất thân bần hàn thì khó mà
cất mặt lên được. Kẻ tài hoa tuyệt thế thường ẩn giữa đám tiện dân,
nhưng vì thể chế hủ hậu nên chẳng những không có cơ hội thi thố tài năng
mà còn bị đám con cháu quý tộc làm nhục, trong lòng họ hẳn đã dồn nén
rất nhiều uất ức, một khi bị kích động sẽ trở nên vô cùng đáng sợ.”
Nghe tới đây
A Hành dần hiểu ý Thiếu Hạo, bèn tiếp lời: “Xi Vưu xuất thân tiện dân,
không có huyết thống quý tộc nhưng hắn chính là niềm hy vọng lập công
dựng nghiệp, thi thố tài năng của những người tài xuất thân hèn kém, họ
sẽ tự động tụ họp lại dưới cờ của hắn, để cho hắn dẫn dắt. Nhờ luồng
sinh khí mới này, Thần Nông quốc mới có thể tìm lại được phong quang
thuở trước, đây là dụng ý thật sự của Viêm Đế!”
Thiếu Hạo
gật đầu cười, chẳng hiểu là tán thưởng A Hành nhìn thấu sự việc hay khâm
phục tầm nhìn của Viêm Đế, “Xi Vưu tính tình ngông cuồng phóng túng,
xem thường quy tắc thế tục nhưng lại rất trọng tình trọng nghĩa, anh
dũng mưu trí, chính là bậc minh chủ của những con người nghèo khổ ấy,
sớm muộn sẽ có ngày bọn họ liều mạng vì hắn. Chừng đó hắn mới có thể trở
thành Đốc Quốc Đại tướng quân thật sự, vung kiếm chỉ huy thiên quân vạn
mã.”
A Hành nghe
đến chấn động cả tâm thần, vừa mừng vừa lo nói: “Thần Nông nằm giữa
Trung nguyên, đất đai màu mỡ, sản vật phong phú, dân chúng đông đảo, nếu
lại thêm một minh quân biết khai thác triệt để sản vật cũng như tận
dụng mọi khả năng của người tài thì chẳng kẻ địch nào dám động vào nữa
cả.”
Thiếu Hạo
nghiêm mặt, “Dân số Thần Nông gấp đôi Cao Tân, lại sẵn địa hình hiểm
trở, đâu đâu cũng là cửa ải dễ thủ khó công, trong khi Cao Tân toàn đồng
bằng bát ngát, chỉ có sông nước là bức bình phong thiên nhiên bao quanh
che chở, một khi Thần Nông tộc vượt sông thì ngày vong quốc của Cao Tân
đã điểm.”
Tâm trạng A
Hành cũng trở nên nặng nề. Hiên Viên tuy địa hình phức tạp, khí hậu đa
dạng, cũng có nhiều quan ải để chống giặc, nhưng tiếc rằng đất đai cằn
cỗi, sản vật nghèo nàn, dù bao năm nay phụ vương nàng dốc sức bù trì,
sửa đê khai khẩn nhưng vẫn chẳng bì được với mảnh đất Trung nguyên một
năm hai vụ mùa.
Thiếu Hạo
khẽ thở dài, “Thật ra những khuyết điểm đó đều khắc phục được cả, điểm
yếu chí mạng của Cao Tân chính là thể chế cứng nhắc đến bất di bất dịch
ngàn vạn năm nay, chỉ coi trọng dòng dõi và huyết thống, nghiêm cấm kết
hôn giữa những người không cùng giai cấp, triều chính thì bị con em
vương tộc cùng bốn bộ Thanh Long, Thường Hy, Hy Hòa, Bạch Hổ lũng đoạn,
khiến bao kẻ có tài trong Thần tộc, Nhân tộc hay Yêu tộc phải ôm hận bỏ
đi. Tri Mạt, đệ nhất công thần của phụ vương nàng vốn thuộc Yêu tộc Cao
Tân, vì xuất thân thấp kém nên bị người Cao Tân phỉ nhổ, ấy vậy mà y lại
có thể theo phò tá phụ vương nàng dựng nên hùng đồ bá nghiệp tại Hiên
Viên, được tôn xưng làm Đế sư.”
Nghĩ tới vận mệnh tương lai của hai đất nước, A Hành và Thiếu Hạo đều nghe lòng ngổn ngang trăm mối.
A Hành chợt hỏi: “Nếu bây giờ Thần Nông tuyên chiến với Hiên Viên, liệu Cao Tân có tham chiến không?”
Thiếu Hạo
bình thản đáp: “Không đâu! Ta rất muốn biết lực lượng tích lũy suốt mấy
ngàn năm nay của Hiên Viên ra sao, giờ đã có Thần Nông xung phong do
thám hộ, Cao Tân đương nhiên sẽ khoanh tay đứng nhìn. Dù Hoàng Đế tới
thuyết phục phụ vương tham chiến, ta cũng nhất định khuyên can!”
A Hành gượng cười: “Chàng có cần thẳng thắn đến thế không?”
“Khi nào cần
dối gạt, ta sẵn sàng nói dối không chớp mắt, nhưng chuyện này không cần
phải thế, dù sao nàng cũng nhận ra ngay ấy mà!”
A Hành chợt
hiểu vì sao Đại ca và Thiếu Hạo có thể thành bạn thân, hai người bọn họ
đều có thái độ thẳng thắn đến gần như tàn khốc. Nàng liếc đồng hồ nước
rồi đứng dậy gom sách vở lại, “Chúng ta đi nghỉ thôi!”
Thiếu Hạo cùng A Hành nằm song song trên giường, cách nhau ít nhất hai thước.
A Hành bỗng
lên tiếng: “Sáng mai thiếp định tới gặp phụ vương và mẫu hậu, xin hai
người cho phép xuất cung. Chàng nói giúp thiếp mấy lời được chăng?”
“E rằng khó
đấy. Cao Tân là Thần tộc từ thượng cổ, được xưng là dân tộc có lễ giáo,
phong tục cổ hủ, phép tắc nghiêm ngặt, đừng nói là vương tử phi, ngay
đến vương hậu cũng không thể tùy tiện ra ngoài.”
“Phụ vương
cho thiếp mang theo ba ngàn tằm giống, nghe nói vì không hợp thủy thổ
nên đã chết mất một nửa. Thiếp định nói rõ với phụ vương xin xuất cung
khảo sát thủy thổ dân tình các nơi, chọn ra giống tằm Cao Tân phù hợp.”
Thiếu Hạo
nghĩ ngợi một hồi đoạn nói: “Phụ vương tính tình nho nhã, chỉ thích thư
họa ca múa, lại rất dịu dàng chiều chuộng phụ nữ nên chủ yếu khó khăn về
phía vương hậu thôi, phụ vương đâu có để tâm chuyện hậu cung. Có điều
vải vóc của Cao Tân đều trông cả vào đó, nếu sản lượng thấp sẽ khiến
chất lượng vải kém đi, mặc lên người không thoải mái. Nguyên liệu dệt
nên tơ lụa cho vương thất quý tộc Cao Tân mấy ngàn năm nay đều phải mua
từ Hiên Viên, đây là khoản chi phí rất lớn, chúng ta cứ vin vào đó mà
thỉnh cầu, hẳn phụ vương sẽ ủng hộ nàng, vương hậu cũng chẳng thể không
nhượng bộ.’
“Cảm ơn chàng!”
Trong bóng
tối, cả hai người đều làm thinh, qua một hồi lâu, Thiếu Hạo mới nói khẽ:
“Cảm ơn nàng chịu dạy dân chúng Cao Tân chăn tằm dệt vải!”
“Chàng đừng quên chúng ta là đồng minh, hiện giờ thiếp đang là Đại vương tử phi của Cao Tân, đây cũng là việc nên làm thôi mà.”
A Hành trở mình quay lưng về phía Thiếu Hạo, Thiếu Hạo cũng trở mình, quay lưng lại phía A Hành.
Nhờ Thiếu
Hạo giúp đỡ, A Hành đã được Tuấn Đế cho phép ra vào Ngũ Thần sơn, tuy
nhiên phải có thị nữ và thị vệ đi cùng. Dù hiện tại chẳng được tự do như
lúc ở Hiên Viên, nhưng nàng cũng hài lòng với kết qủa này lắm rồi.
Ngày tháng thấm thoắt trôi đi sau vẻ ngoài yên ả.
Cuối năm đó,
Viêm Đế Du Võng phái sứ giả tới yết kiến Hoàng Đế, đòi Hoàng Đế trả lại
phần đất đã xâm lấn của Thần Nông, bị Hoàng Đế cự tuyệt yêu cầu.
Trước trăm
quan Thần Nông trên đỉnh Tử Kim, Viêm Đế tuyên bố chính thức khai chiến
với Hiên Viên, giành lại lãnh thổ đã bị Hiên Viên lừa gạt chiếm giữ.
Cả triều
đường sục sôi hào khí, các chiến sĩ trẻ chỉ mong được lấy máu mình rửa
nhục cho tổ tiên, dưới thời Viêm Đế đời thứ bảy, nguyện vọng này không
sao thực hiện được, nhưng đến thời Viêm Đế đời thứ tám, cuối cùng cũng
đã đạt thành.
Chúc Dung
được phong làm Chinh Tây Tường quân, dẫn năm trăm chiến binh Thần tộc,
ba ngàn chiến binh Yêu tộc cùng năm vạn chiến binh Nhân tộc tiến đánh
Hiên Viên, giành lại lãnh thổ bị xâm lấn.
Trận đầu
tiên là mấu chốt để củng cố sĩ khí toàn quốc gia, có thể nói chỉ được
thắng, không được bại nên A Hành đoán rằng phụ vương sẽ phái Đại ca
Thanh Dương thống lĩnh ba quân chặn địch, nào ngờ Đại tướng quân chỉ huy
quân đội Hiên Viên lại là Tam ca Hiên Viên Huy.
Hiên Viên Huy là con trai Tam phi Đổng Ngư thị, A Hành rất hiếm khi gặp vị ca ca này, cũng chẳng biết gì về năng lực của y.
Nàng liền
đem thắc mắc hỏi Thiếu Hạo: “Sao phụ vương không phái Đại ca nhỉ? Chúc
Dung hiệu là Hỏa thần, chuyên điều khiển lửa, tới lúc then chốt nhất
định sẽ bày Hỏa trận, lấy lửa đánh thành, mà băng tuyết của Đại ca lại
vừa khéo khắc chế được lửa của hắn.”
Đang đánh
đàn chợt nghe A Hành hỏi vậy, Thiếu Hạo vừa gảy tiếp vừa đáp: “Nếu bây
giờ Thần Nông tấn công Cao Tân, phụ vương cũng chẳng phái ta đi nghênh
địch đâu.”
A Hành nghĩ
ngợi một lát rồi nói, vẻ không muốn tin: “Sao phụ vương lại nghi kị Đại
ca chứ? Đại ca là do phụ vương một tay dạy dỗ kia mà!”
Thiếu Hạo
thản nhiên: “Khi con cái còn nhỏ, vẫn đang là con mình, Hoàng Đế thân
làm cha đương nhiên sẽ dốc tâm huyết dạy dỗ nên một đứa con tài giỏi,
nhưng dần dần con cái sẽ lớn lên, trở thành bề tôi, Hoàng Đế thân làm đế
vương, hiển nhiên không thể để một bề tôi thâu tóm tất cả được, ông ta
vẫn làm những việc nên làm ở từng địa vị khác nhau đấy chứ.”
A Hành dễ
dàng chấp nhận việc Tuấn Đế nghi kỵ Thiếu Hạo nhưng lại khó mà chịu được
cảnh phụ vương kiêng dè Đại ca, xem ra người ta chỉ có thể bình tĩnh
trước những sự việc không can hệ tới mình thôi.
Tựa hồ rất hiểu cảm giác của nàng, Thiếu Hạo chỉ chăm chú gảy đàn, mặc A Hành ngây người ngồi đó.
Một hồi lâu
sau, A Hành mới khó nhọc cất tiếng: “Chàng và Đại ca thật không hổ là
bạn bè đồng cảnh ngộ, người ngoài đều kính trọng hai người như tuyệt thế
anh hùng đời nay, còn người nhà lại chỉ chăm chăm đề phòng các vị hệt
loạn thần tặc tử!”
Thiếu Hạo
ngừng tay đàn, ngẫm lại lời A Hành vừa nói rồi bật cười: “Thật ra Thanh
Dương còn khổ sở hơn ta.” Thấy A Hành ngơ ngơ ngác ngác, y nói tiếp:
“Sau này từ từ nàng sẽ hiểu.”
Chúc Dung
chia quân làm hai ngả tấn công biên giới phía Tây của Hiên Viên, bao vây
ải Đồng Nhĩ, Hiên Viên Huy nhớ kỹ lời Hoàng Đế dặn dò, cứ giữ chặt
trong thành không ra ngoài.
Ải Đồng Nhĩ
dễ thủ khó công, Hiên Viên huy lại một mực cố thủ trong thành câu giờ,
cứ theo tính khí nóng nảy của Chúc Dung thì sớm muộn gì cũng sơ sảy, chỉ
cần hắn sơ sảy, Hiên Viên sẽ lập tức phản công.
Giữ thành
thoạt nhìn có vẻ dễ dàng nhưng trải qua bao triều đại, danh tướng thạo
công thành thì nhiều chứ giỏi giữ thành thì chẳng có mấy ai. Thủ thành
thực ra là tâm lý chiến, thời gian kéo dài, quân Thần Nông từ xa tới sốt
ruột đã đành, ngay cả quân Hiên Viên cũng thấy mệt mỏi. Để ép Hiên Viên
động binh nghênh chiến, quân Thần Nông đã giở ra đủ mọi thủ đoạn. Trước
sự khiêu khích của Thần Nông, binh sĩ Hiên Viên, hầu hết đều là những
trang nam nhi bừng bừng nhiệt huyết, chỉ hận không thể xông ra quyết một
trận sống mái với Thần Nông nhưng Hiên Viên Huy cứ lần lữa chẳng chịu
nghênh chiến, dần dà khiến lòng quân oán thán.
Ba quân bắt
đầu nảy sinh lời ong tiếng ve, nói Hiên Viên Huy hèn nhát, chỉ giỏi làm
rùa rút đầu trong thành, nếu đổi lại là Đại điện hạ Thanh Dương hẳn đã
đánh cho Chúc Dung tan tác từ lâu.
Hiên Viên
Huy vốn đã mất hết kiên nhẫn lại nghe được những lời xì xầm của thuộc
hạ, nhớ tới lời mẹ tha thiết dặn dò trước khi ra trận, lòng càng hoảng
loạn hơn.
Trước lúc ra
đi, Đổng Ngư thị mẹ y đã gọi y cùng Cửu đệ Di Bành lại bảo, “Có vài
chuyện xưa nay mẹ vẫn giấu các con, giờ đây hai đứa đã lớn cả, cũng nên
cho các con được biết. Ta và người đàn bà trên Triêu Vân phong kia sớm
muộn gì cũng có ngày phải sống mái với nhau, bà ta không chết thì ta
chết. Nếu Thanh Dương kế thừa vương vị thì ba mẹ con ta chỉ có đường tự
tử thôi.”
Di Bành bất
lực khuyên nhủ, “Mẹ à, mấy chuyện đó qua lâu rồi mà. Bây giờ Đại ca tốt
với chúng con lắm, mẹ cứ canh cánh bên lòng chuyện cũ làm gì?”
“Tốt lắm ư?”
Đổng Ngư thị giáng cho Di Bành một bạt tai, “Ta bảo con phải đề phòng
nó bao nhiêu lần rồi kia mà? Con cứ hồ đồ như thế, sớm muộn cũng có ngày
chết về tay nó cho xem! Nó đã thò lưỡi rắn vào miệng con mà con vẫn coi
nó là anh em tốt à? Nếu con giúp Tam ca con một tay thì Thanh Dương đâu
thể bành trướng thế lực như bây giờ?”
Dường như đã
hoàn toàn thất vọng với Di Bành, Đổng Ngư thị quay sang buồn bã nhìn
Hiên Viên Huy, “Huy nhi, lần này con ra quân nhất định phải thắng lợi!
Đây là thời cơ ngàn năm có một của mẹ con ta, chỉ thắng trận con mới có
thể được phụ vương trọng dụng, con nhớ nhé, nhất định phải chứng minh
năng lực của con không kém gì Thanh Dương, phải thể hiện với phụ vương
rằng con mới là đứa con trai ưu tú nhất của Người.”
Hiên Viên Huy chẳng biết đáp sao cho phải, đành quỳ xuống dập đầu, “Xin mẹ yên tâm, con nhất định sẽ dốc hết toàn lực.”
Lời hứa với
mẹ vẫn đè nặng trong lòng, từng giờ từng phút nhắc nhở y. Chuyện này
liên quan tới sự sống chết của ba mẹ con y nên y nhất định phải thắng,
nhất định thế!
Hai tên
thuộc hạ nôn nóng lập công đã nhận ra tâm tình xáo trộn của Hiên Viên
Huy, liền xúi y mở cổng thành nghênh chiến, “Chúc Dung bôn ba đường xa
tới đây, lại giằng co bao lâu nay, hẳn người ngựa đều mệt nhoài cả rồi,
chúng ta lấy nhàn chống mệt, nhân sĩ khí bây giờ đang vượng, thừa lúc
đêm khuya đánh úp một mẻ nhất định sẽ lập được công lớn.”
Hiên Viên
Huy đang cần lập công lớn để khẳng định bản thân, vừa nghe đến “nhất
định sẽ lập được công lớn” đã thấy nhiệt huyết trào lên, vội hạ quyết
tâm ngay.
Y liền triệu
tập các tướng lại bàn kế nửa đêm đánh úp Chúc Dung, tướng lĩnh thảy đều
đồng tình, duy chỉ có quan chủ quản vận lương là Ứng Long kiên quyết
phản đối, nhưng Hiên Viên Huy chẳng để vào tai, còn khiển trách Ứng
Long: “Ngươi chỉ là một tên Yêu tộc nhãi nhép, lấy tư cách gì nói càn
trước mặt các đại tướng Thần tộc bọn ta?”
Hết thảy tướng lĩnh Thần tộc trong phòng đều cười rộ lên, Ứng Long thấy vậy đành cúi đầu im lặng.
Nửa đêm Hiên
Viên Huy đích thân dẫn theo tinh anh Thần tộc đánh úp Chúc Dung, còn bố
trí mấy vạn đại quân Nhân tộc vây bủa bên ngoài sẵn sàng truy quét quân
Thần Nông trốn chạy.
Mọi chuyện đều nằm trong dự liệu của Hiên Viên Huy, đại quân Chúc Dung hầu như không hề đề phòng, vừa đánh đã bỏ chạy tán loạn.
Thấy ngọn cờ
Ngũ Sắc Hỏa Diễm của Chúc Dung chạy về hướng Bắc, nơi chỉ có một dải
đồng bằng bao la, hoàn toàn không thể phòng thủ, Hiên Viên Huy mừng rỡ
khôn cùng, thầm nghĩ nếu giết được Chúc Dung, hẳn sáng mai thôi là mình
nổi danh khắp đại hoang, rồi y lại lan man nghĩ tới Hiên Viên Thanh
Dương, nghĩ tới phụ vương, nghĩ tới mẹ… Vì quá hăng hái, y quên khuấy cả
thận trọng, chỉ lo tập trung tất cả quân đội Thần tộc đuổi giết Chúc
Dung.
Bọn Hiên
Viên Huy vừa đuổi tới nơi, đột nhiên lá cờ Ngũ Sắc Hỏa Diễm phân ra
thành năm ngọn lửa, bập bùng vờn quanh. Hiên Viên Huy cười nhạt, biết
Chúc Dung chuyên dùng hỏa công, y đã có chuẩn bị sẵn, bèn lệnh cho quân
đội Hiên Viên bày trận hô mưa.
Chúc Dung
cưỡi trên Tất Phương điểu lắc đầu cười, mỗi trận pháp không chỉ dựa vào
tinh lực của Thần tộc mà còn phải biết cách vận dụng linh hoạt, hiện giờ
đang giữa tháng Chạp đông giá, vùng này lại khô hạn lâu ngày, rõ ràng
là địa điểm tốt để bày trận hỏa công, chứ hô mưa làm sao nổi.
Thần Nông
thoạt nhìn như thể đang bỏ chạy tán loạn nhưng thực tế ai nấy đều đã ổn
định vị trí đâu vào đó, Chúc Dung ngồi giữa trận thúc động linh lực, chỉ
trong chớp mắt, ngọn lửa bắt đầu rần rật khắp vùng.
Hiên Viên
Huy cũng lệnh cho các tướng sĩ hô mưa, nhưng thế trận của Hiên Viên bị
vây giữa thế trận của Chúc Dung, linh khí trời đất ở đây lại hợp hỏa chứ
không hợp thủy, dần dà, mưa của họ càng lúc càng nhỏ lại, trong khi lửa
của Chúc Dung mỗi lúc một lớn, như muốn nuốt chửng quân địch.
Hiên Viên Huy bắt đầu hoảng sợ.
Hai bên giao
tranh, bên nào dũng cảm hơn thì thắng! Chủ tướng vừa hoảng hốt, lòng
quân lập tức hoang mang, binh lính bỏ chạy tán loạn, trận pháp liền tan
vỡ. Quân Hiên Viên bỏ chạy càng lúc càng đông, nhưng trên trời dưới đất
đâu đâu cũng có binh lính Thần Nông trấn giữ, thấy kẻ nào giết kẻ nấy.
Nhận ra mình
đang bị lửa đỏ bao vây, Hiên Viên Huy toan cưỡi tọa kỵ bỏ trốn, nào ngờ
Chúc Dung đã giáng Lôi Đình hỏa ép y phải đáp xuống đất.
Thế lửa càng lúc càng mạnh, tọa kỵ của Hiên Viên Huy thất kinh, giằng cương chạy trốn, chẳng buồn nghe lệnh y nữa.
Mất đi tọa
kỵ, Hiên Viên Huy chỉ biết chạy tới chạy lui giữa hỏa trận, vận linh lực
xua tan từng luồng hơi nóng, có điều hảo trận này do năm trăm Thần binh
của Thần Nông chung sức tạo thành, lại được Hỏa thần Chúc Dung dốc toàn
lực điều khiển, linh lực của Hiên Viên Huy làm sao chống nổi.
Dần dà y cạn
kiệt linh lực, bị U Minh hỏa xâm nhập thân thể, thiêu đốt ruột gan,
khắp người từ trong ra ngoài đều đỏ rực lên, phải gào thảm xin tha.
Chúc Dung đứng trên Tất Phương điểu nhìn xuống thấy hết mọi chuyện, đắc ý cười ha hả.
Từ xa trông
lại, thấy ánh lửa đỏ rực trời, Ứng Long biết đại cuộc đã hết cách cứu
vãn, lập tức lệnh cho một đội quân Yêu tộc thông thuộc địa hình dẫn theo
đại quân Nhân tộc rút lui. Còn y cùng hai ngàn quân Yêu tộc đóng ở hai
bên sườn núi, vừa bắn tên yểm trợ đại quân Nhân tộc vừa lợi dụng dòng
sông trong sơn cốc bố trí một trận thủy nhỏ, ngăn cản quân Thần Nông
truy sát.
Chém giết suốt một đêm, đến nỗi trời đất cũng thành ra u ám, binh lính phơi thây đầy nội.
Trời vừa sáng, tin ải Đồng Nhĩ thất thủ đã truyền về Hiên Viên thành.
Toàn bộ
tướng sĩ Thần tộc do Hiên Viên Huy dẫn đầu đều bị tiêu diệt, Yêu tộc
thương vong nặng nề, Nhân tộc nhờ trốn vào núi sâu nên chẳng tổn thương
một binh một tốt, quả là kỳ tích.
Hoàng Đế
nghe trình tấu mà run rẩy cả người, ngồi phịch xuống ghế, không nói nổi
một lời, hồi lâu mới trầm giọng ra lệnh: “Lập tức lôi tên Ứng Long lâm
trận bỏ chạy xử tử, tất cả lính đào ngũ đều biến làm nô lệ, bắt làm lao
dịch trong quân.”
Thanh Dương
biết Hoàng Đế vì mất con mà đau lòng quá độ, sinh ra căm phẫn nên chẳng
dám khuyên giải, chỉ đỡ lời: “Ứng Long chết không đủ đền tội, có điều
hắn đã tận mắt chứng kiến trận chiến, lời nói ra là đáng tin nhất, chi
bằng giải hắn về đây hỏi rõ tình hình quân địch rồi xử tử cũng chẳng
muộn.”
Hoàng Đế chẳng còn sức mà lên tiếng nữa, chỉ xua tay tỏ ý Thanh Dương cứ toàn quyền quyết xử lý.
Thanh Dương
nhận lệnh bước ra, bảo thị nữ Chu Du: “Ngươi lập tức tới biên giới cùng
các quan viên áp giải Ứng Long về đây, nhớ chăm sóc cho hắn tử tế, dọc
đường nhất định phải tôn trọng hắn, tuyệt đối không được thất lễ.”
Chu Du ngỡ ngàng, “Tại sao phải thế ạ? Chẳng phải hắn chết đến nơi rồi sao?”
Thanh Dương
giải thích: “Chúc Dung thần lực cao cường, được tôn làm Hỏa thần. Ứng
Long chỉ có hai ngàn quân Yêu tộc mà dám giao tranh với Chúc Dung, lợi
dụng địa thế bảo toàn được tướng sĩ Nhân tộc, để cho Yêu tộc thương vong
nặng nề, có thể nói là một viên tướng tài hiếm thấy, hội tụ đủ cả nhân,
trí, dũng, tuy hiện giờ phụ vương đau lòng quá độ thành ra sơ suất
nhưng khi bình tĩnh lại nhất định sẽ nghĩ thông mà trọng dụng hắn.”
Đang nói
chợt y trông thấy Tam phi Đổng Ngư thị tóc tai rũ rượi nhào xuống khỏi
xe loan, hai chân xỏ hai chiếc hài cọc cạch, hiển nhiên vừa nghe tin đã
chạy đến đây xác nhận ngay, chẳng kịp rửa mặt chải đầu.
Đồng Ngư thị
vừa chạy vừa gào lên thảm thiết, “Bệ hạ, bọn chúng nói láo, bọn chúng
phao tin đồn nhảm…” Trông thấy Thanh Dương, bà ta liền trợn tròn mắt,
căm hận nói, “Ngươi, nhất định là ngươi. Có phải là qủy kế của ngươi
không? Ta biết ngươi muốn hại chết chúng từ lâu rồi, ngươi muốn báo thù
cho Vân Trạch, là ngươi hại chết Huy nhi…” Bà ta vừa kêu khóc vừa lao
tới đánh Thanh Dương, đám thị nữ phải cản lại.
Chu Du tái mặt sợ hãi nhưng Thanh Dương chẳng lấy đó làm điều, chỉ cung kính hành lễ với Đổng Ngư thị rồi lập tức bỏ đi.
Tiếng khóc thảm thiết của Đổng Ngư thị còn văng vẳng sau lưng y, “Huy nhi không việc gì, Huy nhi sẽ không việc gì đâu…”
Những lời này sao nghe quen đến thế…
Hơn ngàn năm
trước, mẹ y cũng từng tái mét mặt khi đứng trước mặt y, luôn miệng lẩm
bẩm: “Vân Trạch không việc gì, Vân Trạch sẽ không việc gì đâu…”
Bà tuyệt vọng nắm chặt lấy tay y, như thể cầu xin y khẳng định với mình “Vân Trạch không việc gì đâu”.
Y cũng muốn
an ủi mẹ bằng câu “Mẹ yên lòng, Vân Trạch không sao đâu” biết bao, nhưng
chẳng làm sao cất nổi lời, chỉ biết lặng lẽ quỳ trước mặt bà dập đầu
thật mạnh, ra sức dập đầu.
Mẹ y nhũn người ra như bị rút hết gân cốt, ngồi phệt xuống đất.
Y đặt mảnh sọ còn sót lại của Vân Trạch xuống trước mặt mẹ.
Luy Tổ chẳng
hề khóc lóc kêu gào, chỉ đờ đẫn nâng mảnh sọ lên ôm vào lòng, luôn tay
ve vuốt, miệng mấp máy, lắng tai nghe kỹ mới nhận ra bà đang hát ru, “À
ơi, thỏ chạy tung tăng, ngựa phi lộp cộp, ơi con cưng của mẹ, không đau
đâu mà…”
Thanh Dương
còn nhớ thuở nhỏ Vân Trạch rất sợ đau, hễ trượt chân hay vấp ngã là khóc
òa lên, lần nào như lần nấy mẹ đều ôm Vân Trạch vào lòng khe khẽ ru
hời, Vân Trạch sợ đau như vậy mà lại bị thiêu sống đến chết.
Ánh mắt Thanh Dương buốt lạnh, khóe miệng càng lúc càng mím chặt.
Tin đại quân Hiên Viên bị tiêu diệt, một vị vương tử bỏ mình truyền đến Cao Tân, khiến triều đình nhốn nháo cả lên.
Quan viên
trong triều kẻ chủ trương phái binh chi viện Hiên Viên kẻo một khi Thần
Nông đánh bại Hiên Viên thì Cao Tân sẽ trở thành mục tiêu kế tiếp, kẻ
lại phản đối, nói Hiên Viên chẳng qua mới thua một trận, Cao Tân nên
nghe ngóng tình hình thêm đã, còn có kẻ đề nghị nên tặng mỹ nữ và lễ vật
cho Thần Nông để bày tỏ thiện ý, nếu kết nối thông gia được với Thần
Nông là hay nhất.
A Hành đang ở ngoài thành dạy đám phụ nữ quay tơ dệt vải, nghe tin này lập tức quay về Ngũ Thần sơn.
Về tới nơi, nàng cũng không dám xông vào giữa triều đường làm phiền các quan bàn luận, đành phải đứng ngoài đợi.
Hai vị vương
tử Quý Ly và Tam Thân đều chủ trương chi viện Hiên Viên, sát cánh cùng
nhau chống lại Thần Nông, còn mười mấy vị vương tử Yến Long, Trung Dung,
Hắc Xi, vân vân… lại cho rằng không nên giúp Hiên Viên, ai nấy đều
khăng khăng theo ý mình, tranh cãi rất găng.
Tuấn Đế bảo bọn họ yên lặng rồi hỏi Thiếu Hạo, “Con thấy thế nào?”
Yến Long và Trung Dung cười nhạt, Thiếu Hạo là rể Hiên Viên, cần gì phải hỏi nữa.
Vậy mà Thiếu Hạo chỉ đáp gọn: “Nhi thần nghĩ chúng ta nên án binh bất động.”
Tuấn Đế liền phán: “Vậy cứ thế đi, ta cũng mệt rồi, bãi triều!”
Thấy Thiếu
Hạo phản đối xuất quân chi viện, Bán Hạ lén liếc A Hành nhưng nàng chẳng
phản ứng gì, chỉ lặng lẽ đứng dưới thềm vắng đợi.
Thiếu Hạo
bước ra khỏi đại điện cùng Quý Ly, đang đi chợt y dừng bước, nhường Quý
Ly đi trước còn mình băng qua dãy hành lang trùng trùng, bước tới trước
mặt A Hành, chủ động nắm lấy tay nàng, “Hai ta đi dạo một chút rồi hẵng
về cung nhé.”
Bán Hạ cùng các thị nữ biết ý lui cả xuống dưới.
Thiếu Hạo lên tiếng hỏi: “Nàng nghe thấy ta nói gì rồi ư?”
“Vâng.”
“Nàng giận sao?”
A Hành đáp:
“Thoạt đầu nghe nói cái gì toàn quân bị diệt, thiếp vô cùng lo sợ, vội
sấp sấp ngửa ngửa chạy về, nhưng nghe chàng nói lại thấy yên lòng. Nhất
định chàng nhận thấy Hiên Viên chưa bị tổn thương nguyên khí nên mới ung
dung không xuất quân như thế, chứ nếu tình hình Hiên Viên nguy cấp, hẳn
chàng đã phải nôn nóng từ lâu.”
Thiếu Hạo
khẽ cười, tiếng cười lồng lộng trong gió, toát lên vẻ thích thú, “Trận
chiến này e rằng chẳng thể kết thúc ngay trong một sớm một chiều, Cao
Tân quả thật không cần phải vội.”
Nói đến đây Thiếu Hạo chợt ngừng lời, đưa mắt nhìn A Hành như thể đang đố nàng.
A Hành chẳng
chịu lép vế, ngẫm nghĩ một hồi rồi đáp: “Bản thân Du Võng vốn không
muốn gây chiến, phái Chúc Dung ra trận là việc cực chẳng đã mà thôi.
Chúc Dung cũng chỉ muốn lấy lòng tướng sĩ và lôi kéo chư hầu chứ đâu có
định đánh thật, giờ y đã thắng một trận vẻ vang, giết được một vị vương
tử Hiên Viên, có thể nói là lập công lớn rồi, nếu đánh nữa sẽ phải tiến
sâu vào lãnh thổ Hiên Viên khổ chiến, một kẻ không chịu tiêu hao binh
lực của mình như Chúc Dung nhất định không chịu tiến sâu thêm đâu, nếu
có quan viên nào xúi giục tiếp tục đánh, y cũng sẽ đứng về phía Du Võng
vì lợi ích bản thân cho xem.”
Thiếu Hạo
gật đầu, “Thật chẳng hổ là muội muội của Thanh Dương, tiến bộ rất nhanh,
có lẽ chẳng bao lâu nữa nàng có thể cầm quân ra trận rồi.”
A Hành chắp
tay thi lễ với Thiếu Hạo, “Đó là nhờ thiếp được thầy giỏi chỉ bảo, ngày
ngày đều cùng chàng bàn luận những chuyện này, chỉ cần không phải gỗ mục
thì nhất định phải có tiến bộ chứ, có điều…”
“Có điều làm sao?”
“Thiếp rất
ít khi tiếp xúc với Tam ca, gần như chẳng có ấn tượng gì, nói thật, nghe
tin huynh ấy chết trận, thiếp kinh ngạc nhiều hơn là đau buồn, nhưng
huynh ấy là con trai của người phụ nữ mà phụ vương sủng ái nhất, e rằng
bây giờ phụ vương thiếp đang đau lòng khôn xiết, dù Chúc Dung không tiến
đánh Hiên Viên nữa, phụ vương thiếp cũng chưa chắc chịu bỏ qua cho y.”
Thiếu Hạo
phân tích: “Luận về tài tình phẩm mạo phụ vương ta đều đứng đầu, chỉ
phải cái tai thính quá, hơi một tí gió lay cỏ động là nơm nớp đề phòng
mấy đứa con trai, nhưng nếu có đứa con nào bị giết hại, nhất định Người
sẽ lập tức xuất quân báo thù cho chúng ta không tiếc bất cứ thứ gì, còn
phụ vương nàng thì khác, Hoàng Đế chỉ đau lòng trong chốc lát mà thôi,
qua cơn đau xót sẽ lại lấy đại cuộc làm trọng.”
Nghe Thiếu Hạo nói, A Hành thấy lạnh buốt cả cõi lòng.
Nghĩ tới Thanh Dương, ánh mắt Thiếu Hạo chợt thấp thoáng lo âu, “A Hành, nàng có biết mình còn một ca ca nữa không?”
“Thiếp cũng
có nghe loáng thoáng, luận vai vế huynh ấy đáng ra là Nhị ca, có điều
qua đời quá sớm nên mọi người cũng không nhắc tới.”
“Nàng biết y chết thế nào không?”
“Tứ ca kể
với thiếp là huynh ấy mắc bệnh mà chết, thiếp sợ mẹ đau lòng nên xưa nay
chẳng dám hỏi tới, kể ra thì tên huynh ấy là gì thiếp cũng không biết
nữa. Sao đột nhiên chàng lại hỏi chuyện này?”
“Có sao đâu, đột nhiên ta nghĩ tới thì hỏi thôi.”
A Hành buồn
bã, “Cứ nói tuổi thọ của Thần tộc lâu dài nhưng chín ca ca của thiếp nay
chỉ còn bảy. Chúng ta luôn ỷ tuổi thọ dài lâu, chẳng để tâm tới việc gì
cả, lại cho rằng dù thế nào cũng còn rất nhiều thời gian, mà đâu biết
thực ra rất nhiều thứ chỉ vụt qua trong chớp mắt, sinh mệnh đằng đẵng
càng khiến cho nỗi đau dài ra vô tận mà thôi.”
Thiếu Hạo đưa mắt nhìn nàng rồi hỏi: “Thư tửu và hùng tửu ta cất đều ngon cả, nàng có muốn thử uống hai loại cùng lúc không?”
“Hay lắm!”
Quả thật
phải uống một trận say khướt mới hóa giải được nỗi buồn vì toàn quân bị
diệt, nỗi đau vì mất đi một người anh trai chôn sâu trong lòng A Hành.
Thiếu Hạo
ngẩng lên trời huýt một tiếng lanh lảnh, triệu gọi Huyền điểu tọa kỵ đỗ
xuống. Y nắm tay A Hành bước lên lưng Huyền điểu, mặc đám thị nữ thị vệ
cuống quýt chạy theo hỏi: “Điện hạ, vương tử phi, hai vị đi đâu thế?”
A Hành bực
bội cau mày với Thiếu Hạo, đoạn ngoảnh lại đổi sang vẻ mặt tươi cười,
tựa vào lòng Thiếu Hạo, lấy giọng nhõng nhẽo trả lời bọn họ: “Vợ chồng
ta đi làm chuyện vợ chồng, các ngươi cũng muốn theo nhìn ư?”
Đám thị nữ
Hiên Viên còn đỡ, nhưng hết thảy thị nữ thị vệ Cao Tân đều kinh hãi
khựng lại, không dám tin rằng đường đường vương tử phi lại dám thốt ra
những lời dâm loạn đến thế.
A Hành nháy mắt với Thiếu Hạo, Thiếu Hạo lắc đầu cười lớn, lệnh cho Huyền điểu bay vút đi.
Đúng như
Thiếu Hạo và A Hành phân tích, sau khi khao thưởng Chúc Dung thật hậu
hĩnh, Du Võng chẳng mấy mặn mà với những lời đề nghị tiếp tục thừa thắng
truy kích, Chúc Dung cũng lấy cớ quân sĩ không hợp thủy thổ, phát sinh
bệnh tả để từ chối tiến sâu vào lãnh thổ Hiên Viên.
Về phía Hiên
Viên, Hoàng Đế cũng phong thưởng Ứng Long thuộc Yêu tộc, khen ngợi y đã
bảo tồn được binh lực Nhân tộc quý báu cho Hiên Viên.
Trước sự ưu ái của Hoàng Đế, Ứng Long chỉ biết khấu tạ liên hồi.
Đợi Ứng Long
cùng các quan viên khác lui ra, trong đại điện chỉ còn lại Hoàng Đế và
Thanh Dương, Hoàng Đế mới quay sang bảo: “Lần này con làm rất tốt, nếu
không có con, ta chẳng những đã giết lầm một viên tướng tài hiếm có mà
còn làm mất lòng Yêu tộc. Không có lương thảo, không có binh khí, thậm
chí không có lãnh thổ đều có thể nghĩ cách, nhưng để mất lòng dân thì
chẳng cách nào cứu vãn được cả. Con cũng phải nhớ lấy, trên đời này thứ
đáng quý nhất chính là lòng dân, nhất định không được để mất lòng dân.”
Thanh Dương cung kính: “Nhi thần sẽ nhớ kỹ lời phụ vương dạy bảo.”
Hoàng Đế lại hỏi: “Chuyện Chúc Dung con thấy thế nào?”
Thanh Dương
đáp: “Chúc Dung giết chết Tam đệ, đương nhiên chẳng thể bỏ qua, con xin
được dẫn quân thảo phạt hắn, nhất định đem đầu hắn về gặp phụ vương.”
Hoàng Đế lắc
đầu: “Không thể giết Chúc Dung được! Mẹ và bà hắn đều xuất thân tôn
quý, có thế lực hùng hậu ở Thần Nông, nếu giết chết Chúc Dung chẳng khác
nào bức mấy bộ lạc lớn kia tử chiến với chúng ta. Dân số Thần Nông đông
gấp ba Hiên Viên, nếu họ quyết tử chiến với ta, dù quân ta có kiêu dũng
mấy chăng nữa cũng không chống nổi đâu.”
Thanh Dương nghĩ ngợi một lát rồi nói: “Nhi thần ngu ngốc không hiểu ý Người, xin phụ vương giảng giải thêm cho.”
Hoàng Đế
giải thích: “Cách hay nhất không phải là giết chết Chúc Dung, mà là
khiến hắn quy thuận chúng ta, để thế lực của hắn thu về dưới trướng Hiên
Viên.”
“Sao có thể được? Chúc Dung là người Thần Nông chính gốc mà!”
Hoàng Đế
nhướng mày, ánh mắt sắc như dao, vặn lại: “Sao không được chứ? Thủy tổ
của Thần Nông khi xưa chẳng phải cũng là thuộc hạ Bàn Cổ sao?”
Thanh Dương
vội chữa lại: “Phụ vương nói rất có lý, Chúc Dung lòng tham không đáy,
tự coi mình là kẻ có thần lực cao cường nhất trong Thần Nông tộc, đời
nào cam lòng đứng dưới một Du Võng bất tài vô dụng. Chỉ cần đem món lợi
lớn ra nhử hắn, hắn nhất định sẽ động lòng.”
Hoàng Đế gật
đầu cười, “Có điều Chúc Dung cũng chỉ là một con chó hoang thôi, thoạt
đầu phải lấy gậy đánh cho nhụt hết nhuệ khí để nó biết sợ rồi mới đem
thỏ béo ra dụ dỗ, dần dà thuần hóa nó thành chó nhà.”
“Nhi thần hiểu rồi.”
“Chuyện này
giao cả cho con, ta biết con có cài thám tử vào Thần Nông quốc, cứ sai
chúng phao tin đồn nhảm để Du Võng cùng quan lại trong triều đinh ninh
rằng Chúc Dung sớm muộn sẽ tạo phản, đợi khi nào Chúc Dung nhận ra cả
triều đình đều nghĩ mình sắp làm phản, chừng đó hắn muốn không phản cũng
không được.”
Thanh Dương
quỳ xuống dập đầu, “Vâng.” Y hiểu những lời này của Hoàng Đế vừa là giao
nhiệm vụ, cũng vừa là cảnh cáo ngầm, con làm gì ta đều biết hết.
Hoàng Đế cúi đầu lật lật công văn, “Con lui xuống đi.”
Thanh Dương đứng dậy hỏi, “Tam đệ vừa qua đời, hôn sự của Xương Ý có phải lùi lại không ạ?”
Hoàng Đế
nghĩ ngợi rồi đáp, “Không cần, cũng đâu phải bậc bề trên qua đời, khỏi
cần giữ quy củ chịu tang. Hơn nữa mùa xuân sang năm mới tới hôn lễ của
Xương Ý, còn hơn một năm nữa, cứ cử hành đúng hạn đi! Giờ đang là lúc
Hiên Viên cần dùng người, Xương Ý lại kết hôn với nữ tộc trưởng tương
lai của Nhược Thủy, sau này chiêu mộ quân lính từ Nhược Thủy tộc cũng
thuận tiện hơn nhiều.”
Chẳng rõ
đang nhớ tới chuyện gì, Hoàng Đế chợt ngẩn ra, hồi lâu mới nói, “Tuy hôn
sự có mẹ các con lo liệu nhưng mấy năm nay tinh thần bà ấy không được
tốt, con nên đỡ đần thêm cho bà ấy, nhất định hôn lễ phải tổ chức thật
trọng thể, mời hết khách khứa bốn phương để Nhược Thủy tộc thấy rằng
chúng ta hết sức tôn trọng họ. Nhược Thủy tộc kiêu dũng thiện chiến
nhưng tâm tư rất thuần phác, chúng ta càng tỏ lòng tôn trọng họ, họ sẽ
càng trung thành với chúng ta.”
Lúc Thanh
Dương còn nhỏ, Hoàng Đế chưa lập nên Hiên Viên quốc, Luy Tổ cũng chưa
trở thành vương hậu nên chưa có danh xưng mẫu hậu, giờ đây Hoàng Đế bỗng
vô tình dùng lại cách xưng hô ngày cũ ân cần dặn dò khiến Thanh Dương
nghe mà chợt xót xa, chỉ biết cúi đầu thành tâm vâng dạ, đợi Hoàng Đế
căn dặn xong xuôi, y bèn cáo từ lui ra.
Thấy Thanh
Dương bước ra khỏi đại điện, Chu Du liền rảo bước theo sau, vừa đi vừa
nói: “Tên khốn Ứng Long kia thật tệ, hôm nay nô tỳ trông thấy y bèn lên
tiếng chào hỏi, chúc mừng y thăng quan tiến chức, nào ngờ y lạnh như
tiền, chẳng hề tỏ vẻ biết ơn, cũng chẳng thèm nghĩ xem nếu không nhờ
điện hạ, y đã phải bỏ mạng từ lâu rồi!”
Thanh Dương
lườm Chu Du, chế giễu: “Ngươi đã ở bên ta hơn ngàn năm, cũng tu thành
hình người mấy trăm năm nay rồi, sao vẫn dốt đặc cán mai như khúc gỗ
thế?”
Chu Du ấm ức ra mặt nhưng chẳng dám phản bác, chỉ biết lẩm bẩm trong lòng, nô tỳ vốn là khúc gỗ mà!
Thanh Dương
bèn nhẫn nại cắt nghĩa, “Ta cứu y là bởi phẩm chất và mưu trí của y,
muốn cho y một cơ hội thi thố tài năng, nếu y tỏ vẻ thân thiết với chúng
ta, ngược lại chính là phụ lòng ta, khiến ta thất vọng vì đã cứu y đó.”
“Thế là thế
nào?” Chu Du vẫn ngơ ngác không hiểu. Thanh Dương hết cả kiên nhẫn, lạnh
lùng nói: “Nếu y quá thân cận với ta thì phụ vương sẽ đắn đo khi dùng
y, vậy há chẳng phải phụ tâm ý ta cứu y ư?”
“À! Té ra là thế, xem chừng nô tỳ trách oan y rồi! Nô tỳ đã nói Yêu tộc của nô tỳ luôn uống nước nhớ nguồn mà!”
Thanh Dương
lắc đầu ngán ngẩm nhìn Chu Du, vừa đi vừa dặn: “Nhược Thủy tộc sùng bái
nhược mộc[1], nhưng nhược mộc rời khỏi Nhược Thủy thì không sao sống nổi,
ngươi nghĩ cách trồng cho được nhược mộc ở Hiên Viên đi, khi nào Xương Ý
thành hôn cùng Trọc Sơn Xương Phó, ta muốn nhược mộc nở hoa dọc hai bên
đường đón dâu.”
[1] Theo
Sơn Hải kinh: ở Nam Hải, nơi hai dòng nước trong đục giao hòa vào nhau,
có một loài cây tên nhược mộc, là khởi nguồn của Nhược Thủy. (ND)
Chu Du cười
hì hì, “Việc này cứ giao cho nô tỳ, nô tỳ sẽ đi nài nỉ ông tổ của nhược
mộc, lão ta còn nợ nô tỳ, cảm phiền con cháu lão nở hoa một lần chỉ là
chuyện nhỏ.”
“Còn nữa, nhớ thúc cho đám dâu trên Triêu Vân phong chín sớm lên đấy.”
“Biết rồi
biết rồi, Tứ điện hạ và vương cơ đều thích ăn dâu lạnh, chừng nào họ tới
điện hạ nhớ làm một trận tuyết, nhân đó hái luôn dâu lạnh tươi rói,
ngon hơn dâu ướp lạnh trong hầm băng nhiều.”
Thanh Dương
nghe vậy lạnh lùng trừng mắt nhìn Chu Du khiến ả giật nảy mình vội cúi
gằm mặt xuống than thầm, người ta ngốc thì lườm, người ta thông minh thì
trừng, thế là sao đây!
No comments:
Post a Comment