๑ Chương 08: Cây cao mây quấn mãi chẳng rời ๑
Chẳng
hiểu sao hình bóng Xi Vưu lại hiện ra trước mắt nàng, hắn đã lớn lên
giữa một vùng non nước thế này ư? Liệu hắn có biết đánh cá không? Hắn
cũng biết hát những khúc sơn ca lanh lảnh mà tình tứ như vậy sao? Hắn đã
từng hát cho ai nghe chưa nhỉ…
Suốt đêm
A Hành không sao chợp mắt, mãi đến gần sáng mới mệt quá ngủ thiếp đi,
khi tỉnh dậy, nàng thấy mặt trời ngả về Tây, A Tệ đã đỗ xuống một sơn
cốc tự lúc nào.
Nàng trở mình ngồi dậy, giơ tay chạm vào Xi Vưu bên cạnh, thấy người hắn nóng hầm hập, vết thương đã trở nên nặng thêm.
Nhìn quanh
bốn bề đều là núi đồi trùng trùng điệp điệp xanh mướt một màu, A Hành
ngỡ ngàng hỏi Liệt Dương đang đậu trên cành: “Xi Vưu có nói với mày là
đi đâu không? Hay là mày lạc đường?”
Bị A Hành vặn hỏi, Liệt Dương vô cùng bực bội, bèn giơ một cánh lên hùng hổ ra hiệu với nàng rồi quay ngoắt đi.
A Hành lòng
như lửa đốt, nàng không biết y thuật nên nhất định phải tìm một người
hiểu y thuật để chẩn trị cho Xi Vưu, đột nhiên nghe loáng thoáng đằng xa
có tiếng động, nàng bèn lại đó xem sao.
A Hành đi trước, A Tệ cõng Xi Vưu theo sau, còn Liệt Dương nghênh ngang đậu trên đầu A Tệ.
Vòng qua một khe núi, đột nhiên trước mắt nàng bừng sáng.
Một dòng
sông rộng từ sơn cốc uốn mình chảy ra, đôi dải núi xanh bên bờ trải dài
bất tận, ráng chiều rơi rớt chênh chếch rọi lại từ sườn núi thấp bên
kia, nhuộm đỏ ối ngọn núi đối diện. Gió thổi xào xạc lá cây, cả ngọn núi
đều lấp lánh ánh vàng.
Mặt nước
mênh mông ngập đầy ráng chiều lấp loáng, mấy người dân chài đang chống
thuyền giữa dòng đánh cá, vung mạnh tay tung tấm lưới lấp lánh ánh bạc
lên cao, tấm lưới từ từ buông xuống dòng sông, rõ ràng chỉ là tấm lưới
gai thông thường, vậy mà lúc này lung linh ánh bạc hòa cùng ráng vàng
lấp loáng trên mặt sông, khiến người khác trông vào mà hoa cả mắt, còn
đẹp hơn cả tơ Nguyệt Quang mà mẹ nàng dệt nữa.
Đám dân chài
hô vang một tiếng, vừa hò dô vừa chung tay kéo lưới lên, cá trong lưới
đua nhau búng khỏi mặt nước, quẫy đuôi uốn mình trên không làm nước bắn
tung tóe, ráng chiều phản chiếu khiến cả mặt sông lung linh bảy sắc cầu
vồng.
Vất vả bận bịu đến thế, mà cũng tràn đầy sức sống, sôi động nhường kia.
A Hành dừng sững lại, ngây người ra nhìn.
Nhìn bầy cá
nhảy tanh tách, đám dân chài thảy đều mừng rỡ, một gã thanh niên vừa ra
sức kéo lưới vừa cao giọng hát vang, tiếng ca ồm ồm mà phóng khoáng lan
đi thật xa trong sơn cốc.
“Ơ… Trời ngả bóng, cá đầy khoang,
Ca vang ướm ý cô nàng xem sao?
Non cao nước đổ rì rào,
Cây cao tán rộng lao xao ong về.
Này cô em hái dâu kia,
Đeo gùi hái khắp bốn bề núi non,
Em yêu ơi có biết không,
Nhớ em ta những héo hon dạ này…”
Gã đánh cá còn chưa dứt lời đã nghe một giọng nữ lanh lảnh từ trên núi đưa sang.
“Chàng là cây lớn đỉnh non,
Em dây mây vấn vít sườn núi xanh,
Chàng cao em thấp vẫn tình,
Níu chân quấn quýt quanh mình chàng ơi,
Chừng nào chàng mệt rã rời,
Thời em đây mới buông lơi cho chàng…”
Núi rừng
cách trở nên không trông thấy cô gái đâu cả, nhưng tình cảm nồng nàn như
lửa mà cô giấu trong giọng hát đã lan theo tiếng ca trên núi đưa xuống,
làm rạo rực cả mặt sông.
Đám dân chài cười rộ lên, gã trai vừa cất tiếng đắc ý khoái trá ra mặt.
“Chàng cao
em thấp vẫn tình, níu chân quấn quýt quanh mình chàng ơi, chừng nào
chàng mệt rã rời, thời em đây mới buông lơi cho chàng…” A Hành nghĩ một
lát mới hiểu ra ẩn ý trong lời ca, liền đỏ mặt tía tai vì ngượng, đây là
lần đầu tiên nàng thấy người ta ngang nhiên bày tỏ chuyện nam nữ thế
này.
Thấy dân
tình nguyên sơ thuần phác lại nhiệt tình thẳng thắn như vậy, nàng đã lờ
mờ đoán ra mình đang ở đâu. Nghe đồn có một dải man hoang không theo
giáo hóa, người trên đại hoang vẫn gọi là Cửu Lê, núi non ở đó rất cao,
sông nước rất đẹp, thanh niên nơi đó đều cường tráng như non cao, thiếu
nữ lại mỹ lệ như nước mát.
A Hành quay sang dặn A Tệ mấy câu để nó cõng Xi Vưu lánh đi, còn nàng men theo con đường mòn lên núi trong tiếng ca lảnh lót.
Trên sườn
núi lúp xúp những nếp nhà sàn, lưng tựa vào núi, mặt quay ra sông, tầng
trệt để lùa gia súc vào trú mưa tránh gió, còn tầng hai làm chỗ ở, có cả
sân thượng nhô ra để trồng hoa cỏ hay phơi lưới. Bây giờ đang là lúc
mọi người về nhà sau một ngày làm việc, khói bếp bắt đầu lững lờ bốc lên
trên những nếp nhà.
Thấy A Hành
ăn vận khác hẳn mọi người, ông lão dắt trâu nheo mắt cười quan sát nàng,
chú nhỏ lấy rau lợn cũng cười hì hì liếc trộm nàng.
Ông lão râu bạc vai vác cuốc, tay dắt trâu còn cười cười hỏi nàng: “Cô nương là người nơi khác đến phải không?”
A Hành cũng gật đầu cười hỏi: “Nơi đây là Cửu Lê ư?”
Ông lão cười
ha hả, “Đây là nơi ông bà tổ tiên ta đã sống hết đời này sang đời khác,
bản này tên gọi Đứa Ngõa, có điều nghe nói người ngoài gọi chung cả
trăm ngọn núi ở đây là Cửu Di hay Cửu Lê gì đó, cô nương tới đây là để…”
“Cháu nghe
nói trong vùng rừng núi Cửu Lê có rất nhiều loại thảo dược nên tới đây
tìm hái vài thứ đấy thôi.” Vùng man hoang này rất hiếm dấu chân người
lai vãng, A Hành không muốn gây chú ý, đành giả làm người hái thuốc,
thân phận tốt nhất dành cho những kẻ lãng du đây đó.
Ông lão
nhiệt tình nói, “Cô nương chưa tìm được chỗ nghỉ ư? Con trai cùng cháu
nội lão vào núi đi săn rồi, trong nhà có phòng trống, nếu cần cô cứ ghé
nhà lão nghỉ chân.”
A Hành cười đáp lễ: “Tốt quá rồi, cảm ơn… cụ ạ.”
Ông lão nào hay A Hành đã sống mấy trăm năm, nghe nàng lễ phép xưng hô liền tươi cười lộ vẻ hài lòng, dắt nàng về nhà.
“Đây là Mễ
Đóa, cháu gái lão, năm nay mới mười mấy tuổi thôi, không biết hai người
ai nhiều tuổi hơn ai?” Ông lão ngồi xổm bên bếp lửa, vừa đun nước vừa
cười cười quan sát nàng cùng Mễ Đóa.
A Hành vội đáp: “Cháu lớn hơn, cháu lớn hơn.”
Mễ Đóa đã nấu cơm xong lại thấy có khách đến nhà, liền vội vã đi ra ngoài, chỉ lát sau đã xách một chú cá tươi rói trở về.
A Hành cười cười, lựa lời hỏi thăm ông lão: “Chẳng hay ai quản lý việc trong cả bản? Có ai biết chữa bệnh không cụ?”
“Các bản đều
chọn ra trưởng bản, muốn chữa bệnh thì đi cầu Vu sư, cả trăm sơn bản
chúng ta ở đây mà các người gọi là Cửu Lê đó, đều mời Vu sư đến xem
bệnh, thường thường muốn biết khi nào nên gieo hạt, lúc nào nên đi săn,
chừng nào phải tế trời, trưởng bản đều đi hỏi Vu sư.”
“Thế ai chữa bệnh mát tay nhất?”
“Dĩ nhiên là
Vu vương tinh thông bách nghệ chứ còn ai.” Ông lão vừa nói vừa đặt tay
lên ngực, cúi đầu thật thấp, vô cùng cung kính và thành khẩn.
“Cháu muốn gặp Vu vương có được không?”
Nghe nàng hỏi, ông lão lộ vẻ áy náy: “E rằng không được đâu, nhưng lão có thể đi hỏi giùm cô.”
“Cụ biết Vu vương ở đâu ư?”
“Thường ngày
Vu vương sống ở một bản khác, gọi là bản Xi Vưu, trong bản Xi Vưu có Tế
Thiên đài,
Vu vương phải bảo vệ thánh địa của chúng ta.”
“Bản Xi Vưu ư?”
Ông lão bật
cười, vẻ mặt đầy kiêu hãnh: “Xi Vưu là đại anh hùng của tộc ta, nghe nói
mấy trăm năm trước ngài đã cứu tất cả người trong tộc, thế nên bản vốn
mang tên khác đã đổi thành bản Xi Vưu để tưởng niệm ngài.”
A Hành lại hỏi tiếp: “Bản Xi Vưu ở đâu thế ạ?”
Nghe nàng hỏi, ông lão liền cầm que cời lò vừa vẽ lên mặt đất vừa miêu tả bản Xi Vưu nằm trên ngọn núi nào.
A Hành nghe xong bèn tươi cười đứng dậy từ biệt ông lão.
Như đoán
được ý định của nàng, ông lão bèn khuyên giải: “Lão nói cô nghe, bản Xi
Vưu ở xa lắm, phải băng qua mấy ngọn núi nữa kia, cô cứ ăn uống rồi ngủ
một giấc, sáng mai chúng ta dậy sớm chuẩn bị lương khô, lão sẽ dẫn cô
đi.”
Mễ Đóa đứng ở
cửa bếp vừa chùi tay vào áo vừa nhìn A Hành, có thể thấp thoáng thấy đồ
ăn thịnh soạn bày đầy trong bếp, đối với một gia đình miền núi, thế này
đã là dốc cả nhà cả cửa ra thết đãi rồi.
A Hành vội
phân trần: “Thật không dám giấu, cháu có việc gấp phải đi một lát, mọi
người cứ ăn trước đi, để phần cơm cho cháu là được, tối nay nhất định
cháu sẽ về ăn cơm Mễ Đóa muội muội làm.”
Ông lão cười nói: “Vậy được, lão sẽ hâm mấy vò Ca tửu[1] đợi cô về.”
[1]
Người Miêu tôn tộc Cửu Di của Xi Vưu là tổ tiên. Mỗi năm vào tháng Bảy
Âm lịch, các phụ nữ trong bản người Miêu đều hái bảy loại thảo dược mà
tổ tiên truyền lại đem ủ trong những chiếc cối giã gạo đặc biệt cho lên
men, đến khoảng mùng chín tháng Chín lại dùng nếp trắng và nếp đen cất
thành rượu, tiếng Miêu gọi là Ca tửu.
A Hành gật đầu tỏ ý cảm tạ.
Vừa ra khỏi
nhà ông lão, nàng đã thấy Liệt Dương bay vù đến như chớp, luôn miệng kêu
quang quác. A Hành cả kinh, nếu không có chuyện gì, Liệt Dương ắt chẳng
thể cuống cuồng như thế, nghĩ vậy, nàng vội theo Liệt Dương bay đi.
Thoạt trông
thấy nàng, A Tệ cũng cuống quýt chạy lại. A Hành đỡ Xi Vưu dậy, thấy mặt
hắn tím tái, cả người lạnh ngắt, trong không khí thoang thoảng mùi
hương kỳ dị. Nàng bèn vạch áo hắn ra, thấy vết thương đã đen bầm lại,
mùi hương càng nồng nặc hơn.
Dẫu mù mờ về
y thuật thế nào, A Hành cũng biết vết thương không thể bám đen, càng
không thể tỏa hương nức mũi như vậy. Triệu chứng này chỉ có thể là trúng
độc.
Vận linh lực
thăm dò mạch tượng của Xi Vưu, A Hành lại phát hiện linh thể của hắn
cũng đã bị ảnh hưởng, nàng hốt hoảng đến nỗi ngã sụp xuống đất.
Không thể là
Đại ca hạ độc, tuy Đại ca tàn nhẫn nhưng tính rất kiêu ngạo, không đời
nào thèm dùng tới cách này. Kẻ có thể hạ độc Xi Vưu chỉ có thể là người
bên cạnh hắn. Nghe Vân Tang nói mấy chục năm nay, Viêm Đế rất coi trọng
Xi Vưu, chuyện lớn chuyện nhỏ gì cũng cho hắn tham dự, lần này lên Ngọc
sơn cũng vậy, rõ ràng Vân Tang ở đó nhưng lại để Xi Vưu xử lý chính sự,
đương nhiên hắn sẽ bị rơi vào thế một vai gánh lấy sơn hà. Tuy A Hành
tâm tính đơn thuần nhưng từ nhỏ lớn lên trong vương tộc, nàng thừa hiểu
nếu cứ tiếp diễn như vậy, tính tình quật cường của Xi Vưu nhất định sẽ
đe dọa tới quyền thế lợi ích của kẻ khác, vì xung đột quyền lợi dẫn tới
hãm hại ám sát là chuyện thường.
Kẻ nào muốn diệt trừ Xi Vưu nhỉ? Là Chúc Dung ư? Hay Du Võng? Cộng Công… Hay tất cả bọn họ đều góp phần?
A Hành chẳng
dám nghĩ tiếp nữa, lời cảnh cáo của Đại ca vẫn còn văng vẳng bên tai,
phụ vương luôn muốn xưng bá Trung nguyên, nàng tuyệt đối không thể bị
cuốn vào cuộc đấu tranh nội bộ của Thần Nông tộc.
Nghĩ vậy, nàng đành ôm lấy Xi Vưu ngồi lên lưng A Tệ, “Chúng ta đi thôi.”
Nhá nhem tối, nàng tới bản Xi Vưu.
Vừa bước vào
bản, nàng đã hiểu tại sao nơi đây được chọn để đặt Tế Thiên đài, nếu
coi hơn trăm ngọn núi của tộc Cửu Lê như những đốt sống của một con rồng
thì chỗ này chính là đầu rồng, nơi hội tụ linh khí.
Chẳng cần
phí công hỏi thăm chỗ ở của Vu vương, A Hành đã thấy một căn nhà xây
toàn bằng đá trắng nổi bật giữa tất cả nhà sàn bằng tre nứa trong bản,
hệt như một thành trì trấn giữ đỉnh núi dồi dào linh khí bậc nhất này.
Nàng bèn đi thẳng tới trước cửa căn nhà bằng đá trắng.
Mấy thiếu
niên đang tíu tít trong sân đều để trần cánh tay, bên dưới mặc quần ống
rộng, đi chân đất. Trông thấy A Hành, họ tò mò dán mắt vào nàng, chẳng
hề e ngại bản thân ăn mặc lôi thôi.
Một gã thanh niên chừng hơn hai mươi tuổi bước ra, “Cô hỏi ai?”
A Hành hành lễ với hắn, “Ta tới xin gặp Vu vương.”
Gã thanh niên nhìn nàng, thầm cảnh giác, “Vu vương không gặp người ngoài đâu.”
“Ta tới xin chữa bệnh.”
Gã trai bật
cười, “Những kẻ từ nơi khác đến như các người, hễ nhắc tới chúng ta chỉ
gọi là dã nhân, còn chẳng buồn kêu cái tên Cửu Di hàm ý khinh miệt kia
nữa, đám dã nhân chúng ta ở đây làm sao biết y thuật gì được? Mời cô về
đi thôi!”
A Hành biết
các Vu sư ở đây khác hẳn những người dân cả đời quẩn quanh trong bản,
rất có thể họ đã từng đi ra ngoài nên hiểu chuyện, chính vì hiểu lại
càng đề phòng hơn.
Nàng bất đắc
dĩ nói, “Ta nhất định phải gặp Vu vương, đành mạo phạm vậy!” Nói rồi, A
Hành lướt qua gã thanh niên kia hệt như một con chạch, xông thẳng vào
sân, chẳng đợi bọn họ kịp phản ứng, nàng đã cắm đầu chạy dọc theo con
đường lát đá trắng.
“Bắt cô ta, mau bắt cô ta lại.”
Mặc cho cả
đám người đuổi sau lưng, lại thêm bao nhiêu kẻ từ trong nhà ùn ùn xông
ra chặn đường, A Hành vẫn nhanh nhẹn như một chú hươu non, né được hết
mọi sự truy bắt, chạy thẳng tới hậu sơn, tại đây nàng trông thấy một đài
tế trắng toát đứng sừng sững mộc mạc mà trang nghiêm.
A Hành chạy
thẳng một mạch lên đài tế rồi nhoẻn cười ngoảnh lại nhìn, thấy tất cả Vu
sư đều dừng lại không dám bước lên đài. Đây là thánh địa để tế trời
đất, ngay đến Vu sư cũng chưa chắc đủ tư cách tiến vào.
Mặc bọn họ giận dữ trừng mắt nhìn mình, A Hành chỉ khoanh tay tủm tỉm hỏi: “Liệu bây giờ Vu vương có chịu gặp ta không đây?”
Một lão già
râu tóc bạc phơ chống gậy bước tới, ánh mắt toát lên vẻ kiên định mà
thông tuệ, “Cô nương, chúng ta kính sợ trời đất không phải vì ngu muội
dốt nát, mà bởi chúng ta tin rằng con người phải có lòng biết ơn và kính
sợ thì mới có thể hòa hợp với đất trời vạn vật được.”
A Hành đáp:
“Vu vương, ta tới đây để tìm gặp ngài, chứ không phải để lăng nhục các
người. Giờ thì ta yên tâm rồi, có chuyện này ta muốn cậy nhờ ngài, ngài
bảo những người khác lui ra được không?”
“Đây đều là người trong tộc của ta, cô có chuyện gì cứ nói thẳng ra, đừng ngại.”
Nghe lão nói
vậy, A Hành đành thở dài, ngoảnh mặt về phía núi huýt gọi một tiếng.
Theo tiếng huýt của nàng, một bóng trắng bỗng xẹt ngang bầu trời như
sao, rồi đỗ xuống đài tế. Đó là một con chim toàn thân trắng muốt, cao
hơn một thước, cặp mắt ngạo nghễ màu lục bích lướt qua cả đám Vu sư như
đánh giá.
Đám Vu sư
thấy thế càng thêm tức giận, mấy Đại vu sư được quyền bước lên đài tế
chỉ muốn xông tới bắt lấy A Hành, nhưng Vu vương lại giơ tay ngăn cản,
tỏ ý bảo bọn họ hãy nghe kỹ đã.
Chẳng biết
gió từ đâu bỗng nổi lên khiến những chiếc chuông gió bằng xương thú treo
trên đài tế kêu leng keng, ban đầu chỉ là ngân nga khe khẽ, dần dà,
tiếng chuông càng lúc càng to hơn, hòa cùng thế gió mỗi lúc một mạnh.
Trong tiếng
lanh canh điên cuồng của chuông gió, giữa không trung bỗng hiện ra một
bóng đen khổng lồ, là một con hồ ly to lớn, diễm lệ lạ thường, không
ngừng bay vòng vòng xung quanh, cuốn theo cuồng phong cuồn cuộn thốc
lên, bao bọc cả đài tế.
Giữa lúc đám
Vu sư đang há hốc miệng kinh ngạc nhìn hồ ly bay, con chim trắng kia
còn sợ họ chưa chịu đủ chấn động, liền há mỏ khạc ra lửa, lửa đỏ, lửa
lam, lửa vàng… Từng cuộn lửa bảy sắc bùng lên giữa trời đêm như những
đóa hoa tuyệt đẹp, tỏa ánh sáng rực khiến cả đài tế toát lên vẻ mỹ lệ
trang nghiêm như cung điện của thần tiên, mà thiếu nữ áo xanh lại đứng
ngay giữa khung cảnh kỳ ảo ấy.
Thấy vậy Vu vương bèn căn dặn mấy câu, lập tức đám người vây quanh đài tế tản cả ra, chỉ còn lại mấy Vu sư lớn tuổi.
Vu vương nghiêm trang hỏi: “Cô nương đến từ Thần tộc ư? Chẳng hay cô tới đây có chuyện gì vậy?”
A Tệ đỗ
xuống bên cạnh A Hành, nàng liền đỡ Xi Vưu trên lưng nó xuống, hỏi ngược
lại: “Không biết Vu vương có nhận ra hắn hay không?”
Trông rõ
diện mạo Xi Vưu, Vu vương biến hẳn sắc mặt, lập tức quỳ sụp xuống đất,
cả người run lên vì kích động, “Sao lão có thể không nhận ra kia chứ, Vu
sư các đời mỗi khi bái sư, trước tiên phải quỳ lạy tượng gỗ của ngài,
lập lời thề sẽ bảo vệ bình yên và tự do cho dải nước non này, có điều,
có điều… lão thật sự chẳng dám mơ kiếp này mình lại được gặp Xi Vưu đại
nhân.”
A Hành nói tiếp: “Hắn bị thương rồi.”
Vu vương vội
lê bằng đầu gối tới cạnh Xi Vưu thăm khám vết thương, thận trọng rút
một đoạn kiếm gãy ra khỏi người hắn, lại kiểm tra kỹ lưỡng tình trạng
trúng độc, vẻ mặt càng lúc càng khó coi.
A Hành
nghiêng mình ngồi lên lưng A Tệ định rời đi. Nhận ra nàng lai lịch không
tầm thường, Vu vương vội giữ nàng lại, khẩn thiết vật nài: “Cầu xin cô
nương ra tay cứu giúp Xi Vưu đại nhân, vết thương của đại nhân nặng lắm,
kiếm khí ngưng tụ trên kiếm này lại rất đặc biệt. Lão chưa từng thấy
kiếm khí lợi hại như vậy bao giờ, còn tẩm cả độc nữa…”
A Hành cầm
đoạn kiếm gãy lên xem, thấy trên rìa kiếm chạm nổi hoa văn Huyền điểu,
chính là biểu tượng của vương thất Cao Tân, sực nhớ tới thân phận mình,
nàng lạnh buốt cả cõi lòng, đưa mắt nhìn Vu vương: “Lão muốn ta giúp hắn
ư? Lần đầu tiên giúp hắn, ta bị giam cầm sáu mươi năm, lần thứ hai, ta
phải phản bội Đại ca mình.” Nói rồi nàng giơ đoạn kiếm gãy lên, “Thanh
kiếm này do vị hôn phu của ta rèn ra, tay nghề rèn kiếm của y rất cao,
hẳn vết thương của Xi Vưu khó mà lành được, đây cũng là bội kiếm bên
mình Đại ca ta, chính Đại ca đã tự tay đâm kiếm vào ngực Xi Vưu đấy.”
Thấy Vu vương tái mặt, sững sờ nhìn mình, A Hành hỏi tiếp: “Giờ lão còn muốn ta cứu hắn nữa không?”
Vu vương lắc
đầu quầy quậy, nàng buông một câu: “Tốt lắm,” rồi vỗ vỗ lên mình A Tệ, A
Tệ liền cất cánh cõng nàng bay lên, khiến những chiếc chuông gió quanh
đài tế lại được dịp rung lên leng keng một tràng.
Nghe tiếng
chuông gió leng keng, A Hành thoáng ngẩn người, thuở còn ở Ngọc sơn,
nàng cũng treo dưới hiên nhà một chiếc chuông gió như thế này, giờ đây
hồi tưởng lại, dường như những bức thư của Xi Vưu chính là sắc màu duy
nhất suốt sáu mươi năm đằng đẵng ấy.
Nhớ tới
chuyện cũ, nàng vừa vuốt đầu A Tệ, vừa hỏi: “Ta không hiểu y thuật, ở
lại cũng chẳng giúp được gì nhỉ. Người trên đại hoang vẫn lén gọi Vu
vương của Cửu Lê tộc là Độc vương, nhất định lão sẽ cứu được Xi Vưu, mày
bảo có phải không, A Tệ?”
Chẳng một ai đáp lời nàng, có điều, nàng cũng chỉ muốn thuyết phục bản thân mình mà thôi.
Lúc nàng về tới bản Đức Ngõa, ông lão Đức Ngõa và Mễ Đóa mới ăn xong cơm chưa lâu.
A Hành lên tiếng chào hỏi: “Cháu về ăn cơm rồi đây.”
Thấy nàng
trở về, Mễ Đóa vui vẻ đi hâm lại thức ăn, trong khi ông lão cười khà
bảo: “Sáng mai lão nói với trưởng bản một tiếng rồi sẽ đưa cô tới bản Xi
Vưu.”
“Không cần đâu, cháu đã giải quyết xong việc rồi, khỏi cần tới bản Xi Vưu nữa.”
“À, thế thì hay quá.”
Người Cửu Lê
nấu rượu rất ngon, Ca tửu của họ nồng nàn ngọt lịm khiến A Hành vừa
uống đã mê, thấy nàng thích thú, ông lão càng thêm vui vẻ, cười đến rung
cả râu.
Trước sự thết đãi nhiệt tình của ông lão và Mễ Đóa, A Hành đã được ăn một bữa tối cực kỳ thịnh soạn.
Trong lúc
chuyện trò, A Hành biết được Mễ Đóa tuổi đã lớn, đáng lẽ phải lấy chồng
từ lâu nhưng con dâu của ông lão ốm nặng, nằm liệt giường, quanh năm mọi
chuyện lớn nhỏ ở nhà đều trông vào Mễ Đóa, bởi thế mà cô lần lữa chưa
chịu gả đi.
Phòng của Mễ Đóa là gian phòng đẹp nhất trong nhà, cô nhường lại cho A Hành.
Người Cửu Lê
luôn dành cho khách những gì tốt đẹp nhất, đây là đạo đãi khách của họ,
cảm nhận được điều đó, A Hành chẳng còn cách nào khác hơn là tiếp nhận.
Rửa mặt xong xuôi, nàng bèn ra ngồi trước bàn trúc hong tóc.
Vành trăng
non nhạt nhòa treo giữa nền trời đen thẫm, gió đêm từ trên núi đưa xuống
mang theo hương thơm cây cỏ, khe suối gần đó róc rách chảy như đang
ngân nga một khúc nhạc đồng quê.
Một người đàn ông từ dưới núi đi lên, ngồi xuống tảng đá lớn bên bờ suối thổi sáo.
Bỗng cửa nhà
cót két hé ra, Mễ Đóa nhanh như sóc chạy về phía con suối, thoáng chốc,
A Hành trông thấy hai bóng người ôm chầm lấy nhau.
Loáng thoáng nghe thấy tiếng chuyện trò.
“Khách ăn cá ta bắt có thích không?”
“Thích lắm, luôn miệng khen ngon.”
“Đó là tại muội nấu ăn ngon.”
Hai người cứ thế dìu nhau mà lên núi.
A Hành chợt
nhoẻn cười, đưa mắt trông về phía núi xa, thầm nghĩ, chàng như cây lớn,
thiếp tựa dây mây, cây lớn che chở cho dây mây, dây mây quấn quýt quanh
cây lớn, gió táp mưa sa vẫn chẳng rời, mãi mãi bên nhau hoài khăng khít.
Phòng bên chợt vang lên tiếng ho sù sụ, cùng tiếng uống nước ừng ực.
Ông lão đã tỉnh rồi, liệu lão có biết cháu gái mình lén lút hẹn hò với bạn tình không nhỉ?
A Hành thấy
hơi thắc mắc, nhưng cũng chẳng lấy thế làm lo lắng. Nam hoan nữ ái vốn
là chuyện tự nhiên trong trời đất, chỉ là ở vùng này, nó vẫn giữ nguyên
những nét ban sơ thuần phác mà thôi.
Chẳng hiểu
sao hình bóng Xi Vưu lại hiện ra trước mắt nàng, hắn đã lớn lên giữa một
vùng non nước thế này ư? Liệu hắn có biết đánh cá không? Hắn cũng biết
hát những khúc sơn ca lanh lảnh mà tình tứ như vậy sao? Hắn đã từng hát
cho ai nghe chưa nhỉ…
Đêm đó A Hành gối đầu lên những gió mát trăng trong giữa núi rừng, chìm vào giấc mộng thơm ngây ngất.
Sáng hôm sau, tiếng gà trống gáy le te đánh thức nàng dậy.
Bình minh ở
đây chẳng hề đượm vẻ tịch mịch chết chóc như trên Ngọc sơn, cũng không
có loan kêu phượng hót líu lo êm tai như tại Triêu Vân phong.
Sáng sớm ra
mọi người gặp nhau đều niềm nở hỏi chào, tiếng mấy cô thiếu nữ lao xao
hẹn nhau đi hái dâu, tiếng đám đàn ông lấy công cụ loảng xoảng, tiếng
các bà mẹ cao giọng mắng con, tiếng đám trẻ khóc lóc ầm ĩ hòa cùng tiếng
bò rống ò ò, dê kêu be be và gà mái cục ta cục tác…
Rất ồn ào! Nhưng…
A Hành mỉm cười, nhưng cũng đầy sức sống!
Nàng còn gặp
cả mẹ của Mễ Đóa, bà đau ốm quanh năm, bị bệnh tật giày vò đến nỗi chỉ
còn da bọc xương, chẳng nói nổi một câu hoàn chỉnh.
A Hành cũng
biết người yêu của Mễ Đóa tên là Kim Đan, hai hôm nay không ở trong bản,
theo lời Mễ Đóa thì y sang bản khác tìm vợ. Nghe vậy A Hành kinh ngạc,
“Chẳng phải hai người là… Cô không giận sao?”
Mễ Đóa cười
khổ lắc đầu, “Mẹ tôi nằm liệt giường, em trai còn nhỏ dại, giờ đây tôi
là người phụ nữ duy nhất trong gia đình, cả nhà không thể không có tôi
được, y đã đợi tôi bốn năm rồi, chẳng thể đợi thêm nữa đâu.”
“Vậy hai người phải chia tay sao?”
“Ừm, sau này y phải đối tốt với người con gái khác thôi.” Mễ Đóa lộ vẻ buồn rầu nhưng vẫn gượng cười đáp.
“Cô biết hai người phải chia tay mà đêm đến vẫn… vẫn lén lút hẹn gặp y ư?” A Hành thắc mắc.
Mễ Đóa vô
cùng kinh ngạc, cô ta cũng không sao hiểu nổi A Hành, “Chính vì chúng
tôi phải chia tay nên mới nắm lấy mọi cơ hội được ở bên nhau, gắng hết
sức mà gặp gỡ.”
A Hành không
nói rõ được quan điểm của Mễ Đóa đúng ở chỗ nào, nhưng cũng không biết
là sai ở đâu cả. Có lẽ, tại vùng rừng núi cách xa thế tục này thì quan
điểm đó đúng, còn ở chốn phồn hoa đầy những phép tắc lễ nghi thì quan
điểm đó lại sai.
Nàng không
muốn Kim Đan rời xa Mễ Đóa nhưng cách duy nhất để Mễ Đóa có thể lấy Kim
Đan là trong nhà phải có thêm một người phụ nữ cáng đáng gia đình.
Nàng đề nghị
Mễ Đóa tìm Vu sư đến xem bệnh cho bà mẹ nhưng Mễ Đóa nói năm ngoái Kim
Đan cùng mấy gã trai trong bản đã khiêng mẹ mình tới bản Xi Vưu, tiếc
rằng Đại vu sư nói bệnh này sức người chẳng thể chữa nổi, đành phó mặc
cho ý trời.
Nàng biết
trên đời này có những căn bệnh không cách nào trị nổi, ngay cả Viêm Đế y
thuật đứng đầu thiên hạ cũng đâu cứu được con gái Dao Cơ của mình.
Lòng đầy bực
bội, nàng bèn chạy thẳng tới đỉnh núi vắng vẻ thăm A Tệ cùng Liệt
Dương, trông thấy hai bọn chúng đang vờn nghịch chiếc tay nải lộn xộn cả
lên, hại nàng phải sắp xếp lại. Đột nhiên giữa đống đồ đạc linh tinh, A
Hành nhìn thấy một túi đào khô.
Đây là đào
tiên mà nàng hái trên Ngọc sơn, đem phơi khô để A Tệ và Liệt Dương ăn
vặt, nhưng chúng ăn suốt mấy chục năm đã chán ngấy, chẳng buồn đụng đến
nữa.
A Hành liền cầm một miếng lên, tiện tay bỏ vào miệng nhai rồi nhảy dựng lên chạy xuống núi.
Nàng định
dùng đào tiên để cứu mẹ Mễ Đóa nhưng đã có tiền lệ của A Tệ, nàng không
dám trực tiếp cho bà ta ăn mà ngâm một miếng vào nước rồi cho bà uống
thứ nước đó.
Ngày đầu
tiên, A Hành vừa chữa vừa nơm nớp lo sợ, may sao mẹ Mễ Đóa chẳng xảy ra
chuyện gì, đến ngày thứ hai, bà bắt đầu thấy đói muốn ăn cơm khiến Mễ
Đóa kinh ngạc, nửa mừng nửa tủi bởi đã bốn năm nay, mẹ cô chưa hề chủ
động đòi ăn cơm bao giờ.
Thấy có vẻ hiệu quả, A Hành lại tiếp tục ngâm đào khô với nước.
Sau ba ngày
uống nước đào khô, mẹ Mễ Đóa dần ăn uống được, tuy vẫn chưa thể ngồi dậy
nhưng rõ ràng bệnh tình đã có chuyển biến tốt, chỉ cần từ từ điều
dưỡng, sớm muộn sẽ xuống đất đi lại được.
Trở về bản,
nghe nói bệnh tình mẹ Mễ Đóa đã đỡ, Kim Đan liền khiêng ngay con dê béo
nhất trong nhà hăm hở sải bước tới nhà Mễ Đóa, ngắc ngứ nói không nên
lời, chỉ biết ấn con dê béo múp vào lòng A Hành.
A Hành hoảng
hốt vội nhảy tót lên bàn gọi Mễ Đóa kêu cứu, nàng vừa trợn mắt vừa nhìn
con dê vừa hú vía nhủ thầm: may mà không phải một con trâu.
Mễ Đóa từ
trong phòng mẹ mình chạy ra, trông thấy Kim Đan, cô sững người rồi bưng
mặt ngồi thụp xuống đất khóc òa lên, ông nội cô ngồi bên bếp lửa cũng
phải quay đi, lấy tay che mặt lén lau nước mắt.
A Hành thấy
vậy liền tụt xuống bàn, vỗ vỗ lưng Mễ Đóa an ủi, “Đừng khóc, đừng khóc
mà, sao lúc Kim Đan ca ca của cô đi cô không khóc mà giờ y quay về lại
khóc lóc thế này?”
Tin A Hành
trị khỏi bệnh cho mẹ Mễ Đóa đã lan khắp bản, người bệnh trong bản bắt
đầu lũ lượt kéo tới nhờ xem bệnh khiến nàng kinh hồn bạt vía, nhưng đã
lỡ ăn cơm và uống Ca tửu khắp các nhà trong bản nên chẳng thể từ chối
được, đành sao y bản chính, tiếp tục dùng nước ngâm đào khô mà chữa bệnh
thôi. Vừa ngâm đào vào nước, nàng vừa thầm khấn Vương Mẫu, chỉ mong
rằng mấy trái đào ngàn năm nở hoa, ngàn năm nữa mới ra quả này của bà
thật sự lợi hại như người đại hoang vẫn đồn đại.
Trong lúc A
Hành nơm nớp lo sợ, những người dùng nước của nàng dẫu bệnh chẳng lui
thì cũng đỡ hẳn đau đớn, ít nhất có thể bình tĩnh thản nhiên mà chờ
chết.
Mọi người
mừng rỡ bèn mượn lời ca tiếng hát để tỏ lòng cảm kích đối với nàng, theo
tiếng ca lanh lảnh, tiếng thơm về y thuật của A Hành cũng từ từ lan ra
khắp trăm thôn bản lớn nhỏ của Cửu Lê tộc. Người mang bệnh nặng đều ấp ủ
một tia hy vọng, tới cầu khẩn A Hành. Bọn họ trèo đèo lội suối, băng
rừng vượt sông mà tới, dắt theo những con trâu đầu cơ nghiệp, những con
gà mái mắn đẻ nhất trong nhà, thành khẩn quỳ xuống trước A Hành, gương
mặt sạm đen vì sương gió đầy vẻ mong mỏi và van xin.
A Hành không
sao cự tuyệt nổi, đành phải nhận lấy. Thực lòng nàng vẫn luôn muốn ra
đi, nhưng chẳng rõ vì sao, hễ tới lúc định đi nàng lại lần lữa, nhủ lòng
nấn ná thêm một ngày. Nàng cũng không rõ rốt cuộc thứ gì đã níu chân
mình lại nữa, có lẽ là cảnh nước non hùng vĩ mỹ lệ của Cửu Lê, có lẽ là
những gương mặt chất phác nhiệt tình của người dân bản Đức Ngõa, có lẽ
là khúc ca phóng khoáng mà nồng nàn hay vò Ca tửu đậm đà sóng sánh, có
lẽ là những quả dại ngọt lành mà các cô gái âm thầm để lại trước cửa
nhà, có lẽ là những bàn tay trẻ nít nhỏ bé đen sạm nắm lấy chéo áo nàng,
cũng có lẽ chỉ là tiếng hò trâu kéo cày ngoài ruộng cũng nên.
Bởi vô vàn lý do không sao nói rõ ấy, nàng cứ thế ở lại nơi này hết ngày này sang ngày khác.
Sáng sớm ra, A Hành vừa mở mắt đã bắt đầu đấu tranh tư tưởng, không biết hôm nay có nên đi hay không?
Nàng cứ một
lát nghĩ lý do nên đi lại một lát nghĩ lý do nên ở, cuối cùng quên hết
sạch mọi lý do, chỉ băn khoăn không biết bệnh tình Xi Vưu rốt cuộc ra
sao, chẳng hiểu Vu vương đã giải được độc cho hắn hay chưa nữa? Liệu có
phải hắn đã quay về Thần Nông sơn rồi không nhỉ?
Trằn trọc
mãi, đột nhiên nàng cảm thấy buổi sáng hôm nay rất lạ, chẳng nghe thấy
tiếng đàn ông gọi nhau đi làm, cũng không nghe thấy tiếng phụ nữ mắng
con, tiếng trẻ nhỏ khóc lóc… cả bản đều im phăng phắc như tờ.
Nàng vội vã
chạy xuống thang, liền trông thấy Vu vương đang quỳ trước cửa nhà, dập
đầu sát đất, lưng cong tựa cánh cung, hệt như một bức tượng người thành
tâm cầu khẩn.
Cả bản lặng
phắc, mọi người đều lấp ló đằng xa, hoang mang nghi hoặc nhìn lại bên
này, không hiểu sao vị Vu vương vĩ đại của họ lại quỳ sụp trước mặt A
Hành.
A Hành vội cúi xuống đỡ lão dậy, hoảng hốt hỏi: “Xi Vưu vẫn chưa giải được độc ư?”
Thấy Vu vương lắc đầu, nàng nói ngay: “Chúng ta tới bản Xi Vưu đi.”
Đại vu sư dắt A Hành lên đài tế, trông thấy Xi Vưu đang nằm giữa đài, nàng bèn quỳ xuống xem xét vết thương của hắn.
Vu vương
nói: “Tuy vết kiếm thương lợi hại thật, nhưng được linh khí núi sông Cửu
Lê bảo hộ, vết thương của Xi Vưu đại nhân có thể từ từ lành lại.”
A Hành vội hỏi: “Vậy vấn đề trí mạng là chất độc kia ư?”
Vu vương gật
đầu, “Tộc Cửu Lê rất giỏi sai sử độc vật, nổi tiếng khắp đại hoang về
dùng độc, nhưng chúng ta thiên về trùng độc, còn đây lại là độc dược,
lão nghĩ nát óc cũng không giải nổi.”
“Lão biết Xi Vưu bị Đại ca ta đả thương mà còn dám xin ta cứu hắn ư? Lão không sợ độc này là do chúng ta hạ à?”
“Lão sống
trên đời đã chín mươi hai năm, chuyện khác có lẽ chẳng biết được bao
nhiêu, nhưng lòng người thì đã thấy nhiều rồi,” Vu vương vuốt đoạn kiếm
gãy trong tay, trầm giọng nói: “Kiếm là do thợ rèn dốc hết tâm huyết tạo
nên, nếu lòng kẻ rèn kiếm không coi trời đất vào đâu thì chẳng thể rèn
nổi thanh kiếm có khí thế nuốt trời diệt đất, kẻ rèn ra được thanh kiếm
thế này nhất định sẽ không trao nó cho người tùy tiện dùng độc, xem
thường kiếm hồn đâu.”
A Hành ngước mắt nhìn Vu vương, im lặng.
Vu vương lại
nói tiếp: “Kẻ hạ độc này vô cùng tàn nhẫn, chất độc đã tiềm phục trong
người Xi Vưu đại nhân từ lâu, ít ra cũng phải mấy chục năm rồi, hàng
ngày chẳng có gì khác lạ, chỉ tới khi ngài bị thương nặng, phải vận linh
lực trị thương thì mới phát tác. Độc tính sẽ theo linh lực vận hành mà
lan đi khắp cơ thể, khiến đại nhân chẳng những không thể dùng linh lực
trị thương mà còn chẳng thể vận linh lực bức độc nữa, chỉ đành bó tay
chờ chết. Linh thể của Xi Vưu đại nhân đã không chống chọi nổi nữa rồi…”
Sắc mặt Vu vương vô cùng buồn bã.
“Các Đại vu sư đề nghị lão tới Thần Nông sơn cầu cứu, nhưng lão đã khước từ.”
“Tại sao thế?”
“Nghe sư phụ
nói Xi Vưu đại nhân lớn lên ở nơi hoang dã, nắm rõ mọi thứ độc trùng
độc thảo, tuy lão được tôn làm Vu vương của Cửu Lê, lại nhờ giỏi dùng
độc mà được người đại hoang gọi là Độc vương, ngay cao thủ Thần tộc cũng
phải nhường nhịn ba phần, nhưng lão chẳng cách nào hạ độc dược đại
nhân, vậy kẻ có bản lĩnh hạ độc làm hại Xi Vưu đại nhân chỉ có thể là
cao thủ Thần tộc am hiểu dược tính mà thôi. Trên đời này, Thần Nông
vương tộc thông thạo y thuật nhất, kẻ hạ độc này có lẽ cũng xuất thân từ
đó, làm sao lão dám đi cầu cứu bọn họ đây? Nếu Xi Vưu đại nhân phải
chết, lão mong rằng ngài có thể yên nghỉ ở dải non nước Cửu Lê này.”
Nghe lão nói vậy, A Hành càng thêm phần kính trọng lão nhân cơ trí trước mặt.
Nhưng giờ
phải làm sao đây? Không thể cầu cứu Thần Nông, không thể cầu cứu Cao
Tân, càng không thể cầu cứu Hiên Viên được. Nghĩ đi nghĩ lại, A Hành cảm
thấy mình đã cùng đường, chẳng có ai để trông chờ cả.
Thấy A Hành
lộ vẻ lo lắng, Vu vương có phần bứt rứt, “Tây Lăng cô nương đừng quá tự
trách mình. Tộc Cửu Lê chúng ta sùng bái trời đất, xem trọng hiện tại
trước mắt, chỉ theo đuổi lạc thú tức thời, chuyện sống chết giao cả cho
trời đất quyết định. Dù phải chết như thế này, lão nghĩ Xi Vưu đại nhân
cũng chẳng có gì ân hận đâu.”
A Hành sầm
mặt: “Xi Vưu nhất định không muốn chết tức tưởi thế này, dù có chết hắn
cũng phải khiến tất cả những kẻ căm hận mình khốn đốn mới cam.” Nói rồi A
Hành thoáng lộ nụ cười.
Vu vương
không kìm được cũng cười theo, “Yêu bằng cả sinh mệnh, lại dùng cái chết
mà trả hận, đó mới chính là người Cửu Lê, kẻ khác thấy chúng ta man rợ
hung ác, thực ra chỉ chúng ta mới hiểu rõ sự trân quý của mạng sống,
chúng ta sợ chết nhưng không khiếp nhược trước cái chết, bởi thế lão có
thể dốc hết sức chữa trị cho Xi Vưu đại nhân, nhưng cũng có thể bình
thản nhìn ngài ra đi.”
A Hành nói:
“Cảm ơn lão đã giảng giải, có điều Xi Vưu còn nợ ơn cứu mạng của ta hai
lần, ta chưa đòi lại, hắn đừng mơ quỵt nợ dễ dàng như vậy!”
A Hành ngẩng
đầu huýt dài một tiếng, theo tiếng huýt, Liệt Dương và A Tệ từ trời bay
xuống, đậu trên đài tế. Nàng xoa đầu A Tệ dỗ dành, “Xi Vưu bị bệnh, ta
muốn xin ít máu của mày được không?” A Tệ lớn lên ở Ngọc sơn, ăn đào
tiên uống ngọc tủy nên cơ thể cũng ngưng tụ linh khí đất trời của Ngọc
sơn.
A Tệ nghe nói liền cúi đầu dịu dàng cọ cọ vào người A Hành như an ủi.
A Hành lại quay sang bảo Vu vương: “Làm phiền ngài rồi.”
Vu vương cầm
bát ngọc cùng dao bạc vẫn dùng khi cúng tế bước tới bên A Tệ, A Tệ hiểu
ý liền giơ chân trước lên để lão kề dao cắt một nhát, máu tươi trào ra,
mùi hương lạ lùng cũng bốc lên sực nức.
A Hành quay
lưng lại phía bọn họ, tự cắt cổ tay mình và Xi Vưu, đưa tay nắm lấy tay
hắn để máu độc trong người Xi Vưu chảy sang cơ thể mình.
Thấy Vu
vương bưng bát máu sóng sánh lại gần, A Hành liền bảo lão cho Xi Vưu
uống, “Máu này không giải được độc nhưng cũng có thể trì hoãn độc tính
khỏi lan ra, hàng ngày lão cắt một bát máu trên người A Tệ cho hắn uống,
ta phải đi một thời gian, mấy ngày nữa sẽ cho Liệt Dương mang thuốc
giải về.”
Dứt lời A
Hành quay gót bỏ đi nhưng vừa đi được mấy bước, nàng bỗng thấy gấu váy
bị thứ gì đó níu lại, không đi được, bèn ngoảnh lại nhìn, phát hiện Xi
Vưu đang nắm chặt lấy gấu váy mình.
Vu vương nói: “Xi Vưu đại nhân không muốn để cô nương đi.”
A Hành đành
dùng linh lực gỡ tay hắn ra rồi ghé tai nói nhỏ: “Ta không để ngươi chết
đâu.” Nói rồi nàng rảo chân bước xuống đài tế.
Không có A
Tệ để cưỡi, A Hành không đi nhanh được, lại thêm Liệt Dương cứ lởn vởn
bay lòng vòng trên đầu nàng, chẳng hề có vẻ sốt ruột như hôm qua. A Hành
dốc hết sức vận linh lực, vừa để đi lại cho nhanh, vừa để độc tính lan
khắp toàn thân. Một người một chim đi suốt một ngày đường, xa khỏi Cửu
Lê tộc.
Đến chập
tối, khi mặt trời đã nhuốm sắc hoàng hôn lên khắp đất trời, sắc mặt A
Hành bắt đầu tái dần, tim đập chậm lại, từ từ cảm thấy nghẹt thở. Nàng
đành ngồi xuống dưới gốc cây nghỉ chân.
Liệt Dương đậu xuống trước mặt, lo lắng nhìn nàng rồi kêu lên quang quác khiến tất cả chim chóc trong rừng đều rớt cả xuống đất.
A Hành xé
một mảnh tay áo buộc vào chân Liệt Dương, ra lệnh, “Tới Thần Nông sơn,
tìm Vân Tang đi.” Nàng thở hổn hển, không sao nói tiếp được nữa, đành
dựa vào thân cây, đưa tay chỉ lên trời.
Liệt Dương
lại ngẩng đầu kêu quác quác, gọi tất cả chim chóc xung quanh run rẩy bay
đến, con trước con sau tự động vây quanh A Hành. Nhanh như chớp, Liệt
Dương dang cánh bay vút lên, thoáng chốc đã mất hút.
Nơi này đã
nằm trong địa phận Thần Nông, với đà bay của Liệt Dương, ắt chẳng bao
lâu sẽ đến nơi. Dẫu kẻ khác có trông thấy mảnh tay áo đó cũng chẳng hiểu
là ý gì, càng không thể phát hiện tính mạng Xi Vưu chỉ còn trong sớm
tối, nhưng Vân Tang đã theo mẹ nàng học nghệ mười năm, rất dễ nhận ra
vải vóc do bà dệt thành, hễ nhìn qua là biết nàng đang cầu cứu, chắc hẳn
sẽ đến ngay.
A Hành không gắng gượng nổi nữa, từ từ nhắm mắt lại.
Dưới bóng
chiều tà, giữa nơi rừng vắng, bầy chim bị Liệt Dương uy hiếp từng con
từng con lần lượt nằm xuống thành một tấm bình phong sặc sỡ đủ màu, bao
bọc A Hành ở giữa.
A Hành lờ mờ
thấy ánh vàng lấp lánh trước mắt mình, hình ảnh Xi Vưu hết lần này sang
lần khác cứ hiện lên trong lòng, lại thêm cả những bức thư trao đi gửi
lại suốt sáu mươi năm, thì ra, trí nhớ của nàng tốt đến mức chính nàng
cũng kinh ngạc, bao nhiêu thư từ như thế mà vẫn nhớ rõ mồn một.
“Ngang qua Khâu Thương, hoa đào nở đỏ rực hai bên bờ, thấy cô gái giặt lụa bên suối, ta lại nhớ cô.”
A Hành chợt
nhoẻn miệng cười, mùa hoa năm nay đã qua rồi, để sang năm đi, sang năm
nàng muốn ngắm hoa đào ở nhân gian, ắt hẳn còn đẹp hơn hoa đào trên Ngọc
sơn nhiều. Thật ra nàng vẫn luôn muốn hỏi Xi Vưu tại sao là “lại nhớ”,
lẽ nào ngươi thường nhớ tới ta ư?
A Hành từ từ
mất đi ý thức nhưng khóe miệng vẫn giữ nụ cười, trong lòng còn đọng lại
cảnh tượng bình yên mà tươi đẹp sau cùng: dải nước biếc Khâu Thương uốn
lượn như một chiếc đai bích ngọc, Xi Vưu vận tấm áo đỏ rực đứng trước
mũi thuyền thả trôi theo dòng, khắp vài dặm ven bờ hoa đào nở rộ, ngào
ngạt hương đưa, đẹp tươi rạng rỡ.
A Hành tha thiết mong Vân Tang đến nhưng nàng không biết rằng bấy giờ Vân Tang không ở Thần Nông.
Sau khi từ biệt Thiếu Hạo và A Hành tại hẻm núi hoang, Vân Tang liền cải trang đi thẳng tới Cao Tân.
Trước nay
nàng chỉ trăn trở với những âu lo của mình mà chẳng hề để tâm tới cảm
nhận của Nặc Nại, y là thần tử, cũng là bạn của Thiếu Hạo nhưng đêm hôm
mưa gió lại ôm ấp thê tử Thiếu Hạo suốt đêm, Cao Tân lễ giáo nghiêm
ngặt, Nặc Nại tính tình thanh cao, sau đêm đó, y đã bất lực, hoảng hốt,
nhục nhã, hổ thẹn đến nhường nào?
Bất lực vì
mình không kiềm chế nổi tình cảm, hoảng hốt sợ chuốc lấy đại họa cho gia
tộc vì dám giành vợ của vương tử, nhục nhã vì sự đê hèn bỉ ổi của bản
thân, hổ thẹn vì đã phản bội bạn bè. Có lẽ chỉ vùi đầu vào sa đọa suốt
ngày, tự chà đạp bản thân, y mới có thể đối mặt với Thiếu Hạo, nhưng
Thiếu Hạo lại chẳng hay chẳng biết, còn lo lắng quan tâm, khuyên nhủ y
giữ mình trong sạch, hẳn mỗi sự quan tâm chân thành đó cũng chính là một
lần lăng trì giày vò y, khiến y càng thêm căm ghét khinh bỉ bản thân
mình.
Khi gặp gỡ
trên Ngọc sơn, Vân Tang chỉ nhất thời xúc động mà thăm dò, nào ngờ có
ngày sự vô tâm của nàng lại bị bè lũ Yến Long lợi dụng, đẩy Nặc Nại cùng
cả gia tộc, thậm chí cả ngôi vị tương lai của Thiếu Hạo vào vòng nguy
hiểm.
Vân Tang vô
cùng căm hận bản thân, sống trong vương tộc, từ nhỏ tới lớn nàng chưa
từng làm sai điều gì, vậy mà hôm đó giữa chốn núi cao sông sâu tình cờ
gặp gỡ, nước như gương soi, lòng vừa xao xuyến, chợt giận chợt mừng
khiến nàng quên bẵng thân phận của mình, ngỡ rằng có thể như một thiếu
nữ bình thường, có rung động mãnh liệt, có thấp thỏm không yên, tự cho
phép mình thăm dò, tiếp cận.
Một thân một
mình đến Cao Tân thế này, nàng cũng không biết liệu mình có gặp được
Nặc Nại đang bị giam trong thiên lao hay không, càng không biết nếu nói
rõ thân phận với y, y sẽ đối xử với mình ra sao nữa, chắc hẳn, y không
đời nào chịu tha thứ cho nàng.
Nhưng nàng nhất định phải gặp được y.
Giữa màn đêm
thăm thẳm, muôn ngàn vì sao sáng như bảo thạch giăng khắp bầu trời, lấp
lánh mỹ lệ khôn xiết, dù nơi đồng không mông quạnh hay chốn cung điện
nguy nga, dù ở Thần Nông, Cao Tân hay nơi nào đi nữa cũng là một màn đêm
như thế, một bầu trời sao như thế.
Đồng hoang
tĩnh lặng, sao sáng đầy trời, A Hành thiêm thiếp ngủ giữa vòng vây bảo
hộ của muôn chim, khóe môi còn ẩn hiện nụ cười, sinh mệnh của nàng cũng
cứ thế vùn vụt trôi qua trong cơn mê ngủ.
Giữa phủ đệ
nguy nga rường chạm cột khắc, Thiếu Hạo uể oải đặt văn thư trong tay
xuống, bước tới bên song, cầm vò rượu lên thong thả uống, đột nhiên như
sực nhớ điều gì, y bèn rút một mảnh khăn lụa trong ngực ra, bên trên là
bí quyết nấu rượu mà A Hành chép lại cho mình. Y cúi đầu xem một lượt
rồi ngẩng lên nhìn trời, thấy muôn sao lấp lánh tựa ngàn vạn ngọn đèn
trong các gia đình ở nhân gian, chẳng rõ giờ này A Hành đang ngồi nghe
chuyện dưới ngọn đèn nào, bất giác khóe môi Thiếu Hạo thấp thoáng nụ
cười.
Kiếm vàng
thương bạc, canh giữ nghiêm ngặt, bên ngoài thiên lao, Vân Tang đeo mặt
nạ lên, cải trang thành một thiếu nữ dung mạo rất bình thường, mặt nạ
này dùng tơ Nhân Diện dệt thành, mỏng như cánh ve, vì không dùng linh
lực để thay đổi gương mặt nên dù đụng phải thần tiên linh lực cao hơn
hẳn mình, nàng cũng không sợ bị lộ thân phận. Vân Tang ngẩng đầu nhìn
trời vừa lúc một vì sao băng xẹt ngang qua, nàng lặng lẽ trông theo vệt
sao khuất cuối chân trời, âm thầm cầu khấn.
Vân Tang
định thần lại, tay trái xách một bình Triển Ti Ngọc Liên đựng đầy nước,
tay phải cầm trường kiếm. Nàng đã bỏ viên thuốc mà Viêm Đế cho mình để
chạy thoát phòng khi gặp nguy vào bình nước, từng làn khói xanh có công
dụng mê hoặc tâm thần phơ phất bốc lên từ chiếc bình Ngọc Liên nơi tay
trái, vấn vít quanh mình nàng, Vân Tang xách bình cầm kiếm bay vút vào
thiên lao.
Núi cao sừng
sững, gió mát hây hẩy, những chiếc chuông gió bằng xương thú treo quanh
đài tế cũng ngân lên leng keng không dứt, dịu dàng như một khúc ca dao
ru người vào giấc ngủ.
Xi Vưu nằm giữa đài tế say ngủ, còn Vu vương và A Tệ ngồi canh bên dưới.
Vu vương tựa
lưng vào tường ngủ gà ngủ gật, A Tệ dường như cũng đang ngủ, có điều
đôi tai hồ ly nhòn nhọn vẫn dỏng lên nghe ngóng, đầy cảnh giác.
Rất lâu rất
lâu sau, Xi Vưu bỗng từ từ mở mắt, chăm chú nhìn bầu trời sao trên đầu
rồi chầm chậm đưa tay lên, nhìn vết dao cắt nơi tay, hắn dần dần hiểu ra
ngọn nguồn mọi chuyện, bèn hít vào một hơi, trở mình ngồi dậy. Ngay lập
tức, A Tệ cũng đứng lên.
“A Tệ, chúng
ta đi Thần Nông sơn.” Xi Vưu cưỡi lên lưng A Tệ, Vu vương bấy giờ mới
sực tỉnh, vội nắm lấy vạt áo hắn. “Chất độc của ngài còn chưa giải,
không thể cưỡi tọa kỵ bay đi thế này được.”
“Ngươi là Vu
vương đời thứ mấy hả? Ngươi dám dạy ta phải làm thế nào sao?” Trước ánh
mắt tàn nhẫn vô tình như dã thú, tựa hồ chẳng còn chút nhân tính của Xi
Vưu, Vu vương đành sợ sệt quỳ xuống, không dám ngẩng đầu lên.
Xi Vưu vỗ vỗ lên mình A Tệ, lập tức A Tệ vỗ cánh bay lên, một người một thú biến mất giữa bầu trời đêm thăm thẳm.
No comments:
Post a Comment