๑ Chương 06: Rừng vắng riêng mình ta vò võ[1] ๑
[1] Trích trong bài từ theo điệu Mãn giang hồng, nhan đề Nhớ Tử Do của Tô Thức đời Tống. (ND)
A Hành
chăm chú nhìn y, cảm thấy con người này khác hẳn nam tử cùng mình uống
rượu chuyện trò đêm trước. Thiếu Hạo đêm qua hệt như kẻ hiệp khách ngang
tàng, ngẫu nhiên gặp gỡ bên bờ dương liễu, có thể cùng chuốc chén, nói
cười, thù tạc, nhưng sáng nay, dưới ánh mặt trời, y lại giống bậc vương
giả cô đơn sải bước trên con đường trước điện, đầy ẩn nhẫn, lạnh lùng và
thâm trầm.
Thấm thoắt
lại đã tới tiệc Bàn Đào. Lần này, Hiên Viên tộc cử vương tử Thương Lâm,
Thần Nông tộc cử vương cơ Vân Tang, Cao Tân tộc cử vương tử Yến Long tới
dự.
Sau khi lên
núi, theo lời Viêm Đế căn dặn, Vân Tang giao hết mọi việc giao tế đối
đãi cho Xi Vưu còn bản thân tha hồ thảnh thơi tản bộ, vô tình, nàng lại
đi tới Ao Đột quán.
Thấy Hiên
Viên Bạt đang ngồi bên hồ ngẩn mặt nhìn trời, Vân Tang hết sức kinh
ngạc, bèn đến gần “hù” một tiếng khiến Hiên Viên Bạt giật nảy mình.
“Sao muội lại lên Ngọc sơn này? Ta đâu có nghe nói muội tới dự yến!”
“Nói ra thì dài lắm, sáu mươi năm trước, sau khi tan tiệc Bàn Đào muội đã bị Vương Mẫu giữ lại đây, chưa hề xuống núi.”
Vân Tang sững người rồi sực hiểu ra, “Muội chính là tên trộm bị Vương Mẫu giam cầm ư?”
Hiên Viên
Bạt bĩu môi gật đầu. Vân Tang liền ngồi xuống cạnh Hiên Viên Bạt hỏi
chuyện, “Ta không tin muội lại tham mấy món thần binh lợi khí của Ngọc
sơn đâu, thế rốt cuộc là sao? Liệu có phải bên trong có hiểu lầm gì
không?”
Hiên Viên
Bạt nhún vai, ra vẻ thản nhiên đáp: “Dẫu sao Ngọc sơn cũng là nơi tràn
trề linh khí, bao nhiêu con em Thần tộc mong tới còn chưa được, muội
bỗng dưng được cho không một trăm hai mươi năm, toàn đóng cửa tu luyện
thôi.”
Vân Tang
thông tuệ, thừa biết bên trong ắt có ẩn tình, có điều giờ lòng nàng đang
ngổn ngang tâm sự, Hiên Viên Bạt đã không nói, nàng cũng chẳng bụng dạ
nào mà gặng hỏi. Nhìn cảnh nước sâu thẳm, núi chót vót bày ra trước mặt,
nàng không nén nổi tiếng thở dài, “Ta đang có chuyện buồn muốn tìm muội
tâm sự đây.” Dứt lời, nàng lại làm thinh.
Biết tính Vân Tang muốn nói thì sẽ nói, nếu không có hỏi cũng bằng thừa, Hiên Viên Bạt chỉ im lặng ngồi bên nàng.
Hồi lâu Vân Tang mới lên tiếng: “Kể từ sau khi gặp Nặc Nại ở đây lần trước, chúng ta vẫn âm thầm qua lại với nhau.”
Hiên Viên Bạt mỉm cười: “Muội đoán được từ lâu rồi.”
“Nhị muội
Dao Cơ sinh ra đã đau ốm, bao năm nay không rời giường bệnh, phụ vương
chỉ một lòng lo lắng cho nó, để an ủi phụ vương đồng thời săn sóc Du
Võng mồ côi mẹ từ lúc lọt lòng, ta đã phải gồng mình trưởng thành thật
mau. Đôi khi Dao Cơ bị bệnh tật giày vò khổ sở muốn chết, phụ vương cũng
đau đớn chẳng kém gì nó, ta lại trộm nghĩ, thà rằng… thà rằng Dao Cơ
chết quách cho xong, giải thoát cho mình, cũng giải thoát cho tất cả
chúng ta.”
Hiên Viên
Bạt lặng lẽ nắm chặt tay Vân Tang. Nàng nhớ mẹ mình vô cùng yêu thương
Vân Tang, có lần bà từng than thở: “Con nha đầu này chưa làm nũng hay
gây chuyện bao giờ, cứ như là trời sinh ra để làm chị cả chăm sóc các em
ấy.”
“Ba mươi năm
trước, Dao Cơ cũng… cũng mất, phụ vương bệnh nặng nằm liệt giường, cơ
hồ sắp theo Dao Cơ đi tìm mẫu thân, ta không rơi một giọt nước mắt, chỉ
lo ngày đêm hầu hạ bên Người. Bệnh tình của Người lui dần, nhưng ta lại
dần dần nhận ra mình không chịu nổi nỗi đau mất đi Dao Cơ, tuy Nhị muội
có vẻ yếu ớt, nhưng mỗi lúc ta cần nhất, nó đều ở bên ta.” Vân Tang nhìn
Hiên Viên Bạt, “Ta sinh ra trong vương thất, đã quá hiểu những thủ đoạn
ngấm ngầm triệt hạ lẫn nhau, tính tình Du Võng lại nhu nhược nên có rất
nhiều việc ta buộc phải cứng rắn. Đôi lúc mệt mỏi vô chừng mà chẳng có
nổi một người bạn để thổ lệ tâm tình, ta chỉ biết ngồi thừ người ra đó.
Mỗi lúc như vậy Dao Cơ lại tới ngồi sau lưng, gỡ tóc ta ra rồi dịu dàng
chải lại, mùi thuốc tỏa ra từ người Nhị muội như an ủi vỗ về ta. Đêm hè,
trong lúc ta tra cứu sách vở, Nhị muội thường quấn một tấm thảm ngồi
bên cạnh thêu túi hương, mùa đông, Nhị muội không chịu được lạnh nhưng
vẫn thèm chơi tuyết, lần nào như lần nấy đều ngồi trong nhà hé rèm nhìn
ta và Du Võng nghịch tuyết, được chúng ta cho một quả cầu tuyết, Nhị
muội thích lắm, như được bảo bối vậy.”
Bàn tay lạnh
ngắt của Vân Tang run lên bần bật khiến Hiên Viên Bạt phải siết tay
truyền hơi ấm và sức mạnh cho nàng, “Trong cung chẳng còn thoang thoảng
mùi thuốc của Dao Cơ, ta đau đớn như chết cả cõi lòng nhưng ngoài mặt
vẫn phải giữ vẻ thản nhiên, bệnh của phụ vương vừa khá lên, ta không dám
khiến Người thương tâm thêm nữa. Nửa đêm dông gió, tiếng sấm sét làm ta
giật mình tỉnh giấc, nhưng chẳng còn Dao Cơ ôm gối đứng ngoài rèm khẽ
hỏi: ‘Tỷ tỷ, muội sợ lắm, cho muội ngủ với tỷ được không?’ Trước nay ta
vẫn ngỡ là mình an ủi, bầu bạn cùng Nhị muội, ta bỗng thấy tiếng sấm
thật là đáng sợ, mới hiểu ra, trong những đêm mưa gió đùng đùng ấy,
không chỉ có ta che chở Dao Cơ, mà chính Dao Cơ cũng đã che chở cho ta.
Trong đêm mưa gió, ta từ Thần Nông sơn lao tới tận biên thùy giáp Cao
Tân tìm Nặc Nại đóng quân ở đó, lúc thấy ta xông vào trướng, chắc y đã
được một phen hoảng hồn, dạo đó ta chỉ còn da bọc xương, mặt mày vàng
vọt, lúc ấy lại vội vã xuống núi nên quần áo xộc xệch, đầu tóc bơ phờ,
cả người ướt lướt thướt, hai chân đi đất.”
Vân Tang
nhìn Hiên Viên Bạt, mặt đỏ lên rồi lại tái đi, “Ta cũng chẳng hiểu nổi
mình nữa, vừa trông thấy Nặc Nại, ta đã nhào vào lòng y khóc òa lên như
tìm được chỗ dựa, có thể buông hết những gánh nặng trên vai xuống, từ
nhỏ đến giờ, đó là lần đầu ta mất kiềm chế. Y cứ ôm lấy ta mặc cho ta
khóc lóc, bao nhiêu nước mắt phải kìm nén từ sau khi mẫu thân qua đời ta
đều trút hết ra, khóc mãi khóc mãi đến nỗi ngất xỉu.”
Vân Tang đỏ
bừng mặt hạ giọng: “Lúc ta tỉnh lại, y đã không còn trong trướng. Ta
cũng chẳng còn mặt mũi nào gặp y, bèn lập tức quay về Thần Nông sơn. Rất
lâu sau chúng ta không liên lạc, cũng chẳng nhắc lại chuyện đêm đó, xem
như chưa xảy ra chuyện gì, y đối với ta rất thờ ơ, nhưng, nhưng…” Vân
Tang lúng túng mãi không nói nốt được nửa câu “nhưng cả hai đều biết có
gì đó đã xảy ra rồi.”
Thần Nông và
Cao Tân đều là Thần tộc từ thời thượng cổ, lễ nghĩa rất thủ cựu nghiêm
ngặt, còn Hiên Viên lại khá phóng khoáng thoải mái đối với chuyện nam
nữ, vậy nên thái độ của Hiên Viên Bạt và Vân Tang trước chuyện này khác
nhau một trời một vực. Hiên Viên Bạt thấy đó là tình sâu nghĩa nặng, là
chuyện hiển nhiên, nhưng Vân Tang lại lấy làm hổ thẹn, thấp thỏm lo
lắng.
Hiên Viên Bạt cười hỏi: “Tỷ tỷ, tỷ đã tiết lộ thân phận mình cho Nặc Nại chưa?”
Vân Tang ủ
rũ đáp, “Vẫn chưa. Ban đầu ta quá cẩn trọng, lại nghĩ thôi thì lỡ lầm
cho lầm luôn, còn muốn thử thách nhân phẩm y trước đã, nhưng về sau
chẳng hiểu sao càng lúc càng sợ thú thật, chỉ e y sẽ nổi giận rồi bỏ mặc
ta. Ta định đợi cho đôi bên thân thiết hơn rồi nói, may ra y sẽ thông
cảm, nhưng khi đã thân thiết ta lại lo sợ, mỗi lần định nói đều không
thốt nên lời, sau đó lại xảy ra chuyện xấu hổ kia, y tỏ vẻ rất lạnh nhạt
xa cách nên ta càng không tiện nói, cứ thế dùng dằng đến bây giờ, muội
xem có cách gì không?”
“Dù tỷ tên gì thì cũng vẫn là tỷ, không phải sao? Nói rõ là được mà.”
“Giành được
lòng tin rất khó mà hủy diệt thì dễ lắm, quan trọng không phải là dối
gạt chuyện lớn hay nhỏ mà chính việc dối gạt đã là vấn đề. Cứ suy từ ta
mà ra, nếu Nặc Nại cũng gạt ta như vậy, ta nhất định sẽ hoài nghi mọi
lời y nói đều là giả dối. Nhìn y khiêm tốn ôn hòa như vậy nhưng còn trẻ
đã nắm giữ binh quyền, chức vị lại cao, được Thiếu Hạo xem trọng, nhất
định là tâm tư rất thâm trầm, giành được lòng tin của y hẳn là khó lắm,
vậy mà ta lại, lại… gạt y.” Vân Tang rầu rĩ tự trách.
Hiên Viên Bạt sửng sốt, lẽ nào mọi chuyện phức tạp vậy sao? Hồi lâu sau, nàng thở dài, đột nhiên cũng bắt đầu lo lắng.
Tiệc Bàn Đào vẫn náo nhiệt như xưa, hết thảy khách khứa đều tụ họp bên bờ Dao trì, ăn uống no say, nói cười vui vẻ.
Xi Vưu ngồi
một lát rồi lẻn đi tìm Tây Lăng Hành. Hắn rảo bước qua ngàn dãy hành
lang, trăm gian lầu gác, một dãy rồi một dãy, một gian lại một gian,
càng gần tới chỗ nàng, bước chân hắn càng chậm lại.
Hắn lần tới
nơi nàng ở nhưng chỉ thấy vườn không nhà trống, gió nhẹ hiu hiu, chiếc
chuông gió bằng răng thú dưới mái hiên khẽ tinh tang như một khúc ca dao
xưa cũ.
Xi Vưu ngơ
ngẩn lắng tai nghe. Năm xưa lúc hắn mới làm xong, chiếc chuông gió này
trắng muốt như ngọc, trải sáu mươi năm dầm mưa dãi nắng, nó đã ngả vàng.
Hắn vòng qua gian nhà, đi thẳng vào rừng đào sau núi.
Dưới ánh trăng, cỏ xanh mươn mướt, ngàn cây đào rực rỡ trổ bông, nom xa tựa ráng hồng lộng lẫy, nhìn gần lại thấy lả tả hoa bay.
Lang điểu
trắng muốt cao chừng một thước đậu trên ngọn cây, hồ ly to lớn, lông đen
tuyền nằm dài trên bãi cỏ, thiếu nữ áo xanh tựa mình vào nó ngủ vùi,
mặc cánh hoa rụng đầy lưng.
Đột nhiên A
Tệ ngẩng lên nhìn gã nam tử áo đỏ cao lớn khôi ngô vừa xuất hiện trong
rừng đào đầy cảnh giác, còn Liệt Dương chỉ hé mắt liếc qua rồi uể oải
nhắm mắt lại.
A Tệ cùng
Liệt Dương sớm tối bên nhau mấy chục năm, đôi bên đã hình thành cách
giao tiếp riêng, thấy Liệt Dương như vậy, A Tệ cũng bớt cảnh giác, uể
oải vùi đầu vào đám cỏ, hai tay bịt mắt tỏ ý: các người cứ tự nhiên, xem
như không có ta.
Xi Vưu rón rén, ngồi xuống bên Tây Lăng Hành.
Thực ra Tây
Lăng Hành không hề ngủ, Xi Vưu vừa tới nàng đã nhận ra ngay, nhưng cố
tình vờ ngủ, nào ngờ tên Xi Vưu này bề ngoài nôn nóng nhưng thực chất
rất kiên trì, cứ lẳng lặng ngồi đợi.
Tây Lăng
Hành không giả vờ nổi nữa bèn hơi nhỏm người dậy hỏi: “Sao ngươi không
gọi ta? Nếu ta ngủ suốt đêm ngươi cũng đợi suốt đêm à?”
Xi Vưu cười hì hì đáp: “Cô là vợ ngoan của ta, đợi cả đời cả kiếp cũng được, sá gì một đêm.”
Tây Lăng Hành vung tay đấm hắn: “Ta cảnh cáo đấy, không được nói nhảm nữa, ta đâu phải vợ ngươi.”
Xi Vưu giữ
chặt tay Tây Lăng Hành, đăm đắm nhìn nàng, cười nói: “Cô không chịu làm
vợ ta thì định làm vợ ai đây? Cô đã bị ngài Thú vương đây chấm làm vợ
rồi, nếu kẻ nào lớn mật dám tranh đoạt, ta sẽ quyết đấu công bằng với
hắn.”
Xi Vưu vốn
chẳng tuấn tú gì cho cam, nhưng ánh mắt hắn sắc sảo, giảo hoạt như loài
thú hoang, ẩn sau vẻ ngoài thờ ơ là sức mạnh kinh người, khiến dung mạo
hắn toát lên sức cuốn hút lạ lùng, hễ gặp một lần là nhớ mãi.
Chẳng hiểu
sao Tây Lăng Hành chợt thấy sờ sợ, không còn cảm giác thoải mái cười đùa
mắng mỏ hắn như xưa nữa. Nàng liền vùng khỏi tay Xi Vưu, “Chúng ta đâu
phải thú vật, quyết đấu gì chứ?”
Xi Vưu cười
phá lên: “Các con đực chỉ quyết đấu để giành quyền giao phối cùng con
cái khỏe đẹp thôi, chứ còn cô…” Hắn nhìn nàng tặc tặc lưỡi rồi lắc đầu,
tỏ ý chẳng con đực nào buồn ngó tới nàng hay giao phối cùng nàng cả.
Câu nói của
Xi Vưu quá đỗi thô thiển khiến Tây Lăng Hành ngượng đỏ cả mặt, bây giờ
nàng mới hiểu tại sao người ta gọi hắn là súc sinh, liền bịt tai hét
lên: “Xi Vưu, ngươi còn dám nói bậy ta sẽ không nghe nữa đâu đấy.”
Ngắm Tây
Lăng Hành thẹn quá hóa giận, Xi Vưu bỗng thấy mê mẩn cả tâm thần, dục
vọng ban sơ nhất của giống đực rục rịch trào lên, hắn đột nhiên sán lại
đặt lên môi nàng một nụ hôn.
Tây Lăng Hành kinh ngạc đến đờ người, trợn trừng mắt nhìn Xi Vưu.
Xi Vưu xưa
này hành sự rất lão luyện dứt khoát nhưng đây là lần đầu kề cận phụ nữ,
hơn nữa còn là người con gái mình hằng yêu thương, lòng hắn khó tránh
khỏi bối rối, trái tim vững vàng bình thản ngay cả khi sống chết cận kề
giờ đây lại đập rộn lên trong lồng ngực, ánh mắt chan chứa nhu tình.
Chừng như còn thèm thuồng vị ngọt ngào khi nãy, Xi Vưu lại cúi xuống
tham lam hôn Tây Lăng Hành, vừa hôn vừa vụng về quờ quạng, toan lấn lướt
thêm chút nữa.
Tây Lăng
Hành sực tỉnh, vội cắn cho Xi Vưu một cái thật đau khiến hắn ré lên lùi
lại, trợn mắt nhìn nàng, vừa ngượng ngùng vừa bối rối, hệt như một con
thú nhỏ đang giận dữ.
Tây Lăng Hành lạnh lùng mắng: “Mùi vị thế nào? Lần sau ngươi còn dám, dám… như vậy nữa, ta sẽ… không nể nang đâu!”
Xi Vưu
nhướng mày cười, lại biến thành Thú vương xảo quyệt tàn nhẫn, hắn giơ
ngón tay quẹt máu trên miệng rồi thè lưỡi liếm mép, chăm chú nhìn bờ môi
Tây Lăng Hành thật lâu như hồi tưởng tư vị khi nãy, lát sau mới lên
tiếng đáp, không quên xuyên tạc câu hỏi của nàng: “Mùi vị tuyệt lắm!”
Tây Lăng
Hành giận đến nghiến răng nghiến lợi nhưng chửi không lại, đánh không
được, đành quay người chạy ra khỏi rừng, căm hận ném lại một câu: “Ta
không muốn gặp đồ khinh bạc vô sỉ nhà ngươi nữa! Từ giờ chúng ta cắt đứt
liên lạc!”
“Tốt quá tốt quá! Ta chán viết thư cho cô lắm rồi!”
Tây Lăng
Hành chạy thẳng không buồn ngoái lại, đột nhiên hai mắt nàng đỏ lựng cả
lên, dù chính nàng cũng chẳng rõ mình bực bội chuyện gì nữa.
Đêm đó, Tây
Lăng Hành trằn trọc hoài không ngủ nổi, nghe tiếng chuông gió ngoài hiên
cứ tinh tang mãi điếc cả tai, nàng bực bội tuột xuống giường, chạy lại
bên cửa sổ, giật chuông gió quẳng đi.
Bốn bề xung
quanh đã yên tĩnh, nhưng nàng càng khó chịu hơn, cảm thấy mọi thứ im ắng
đến rùng mình, nếu không có chiếc chuông gió kia bầu bạn mấy mươi năm
nay, có lẽ nàng đã nghẹt thở mà chết vì sự tĩnh lặng của Ngọc sơn rồi.
Một lúc lâu
sau, nàng lại trở dậy nhìn đồng hồ nước, thấy mới tới canh hai, đêm nay
sao mà dài đằng đẵng, nàng còn sáu mươi năm nữa, là bao nhiêu đêm đằng
đẵng thế này đây?
Tây Lăng
Hành uể oải nằm xuống nhắm mắt, cố dỗ giấc ngủ, có điều vừa trở mình
nàng đã thấy không ổn, vội mở bừng mắt, liền trông thấy Xi Vưu đang nằm
bên mép giường, một tay chống đầu, tay kia giơ chiếc chuông gió vừa bị
nàng quẳng đi khi nãy, cười hì hì nhìn nàng.
Tây Lăng
Hành quá đỗi kinh ngạc chỉ biết ngây người ra nhìn hắn, lát sau mới lấy
lại được phản ứng, vội vận đủ mười phần linh lực tấn công Xi Vưu, những
mong đập chết tên vô lại coi trời bằng vung này cho hả!
Xi Vưu chẳng
buồn động tay đã nhẹ nhàng hóa giải được đòn tấn công của nàng, còn giở
giọng trêu chọc: “Sao nha đầu bừng bừng sát khí thế?”
Trong lúc hắn nói, trên giường bỗng mọc ra mấy sợi dây leo xanh mướt, trói chặt lấy tứ chi nàng.
Biết linh
lực đôi bên chênh lệch quá xa, bản thân mình đấu không lại Xi Vưu, Tây
Lăng Hành lập tức thay đổi sách lược, hét lớn: “Cứu mạng, cứu mạng…”
Xi Vưu chống
má ung dung nhìn nàng, cười thích thú như đang đợi để thưởng thức sự
ngốc nghếch của nàng, xem xem mất bao lâu nàng mới phản kháng lại được.
Hắn đã dám đến, đương nhiên nào có sợ gì.
Sực hiểu ra
hắn đã hạ cấm chế, tiếng hét trong này chẳng thể truyền ra ngoài, nàng
liền im bặt, nghiêm mặt lạnh lùng hỏi: “Ngươi muốn làm gì đây?”
Xi Vưu cười
cười ngồi dậy cởi đồ ra, Tây Lăng Hành tái mặt, vẻ trấn tĩnh vờ vịt nãy
giờ biến mất, cặp mắt nàng hằn nét kinh hoàng: “Ngươi dám!”
“Ta không
dám à? Khắp thiên hạ chỉ có chuyện ta không muốn, chứ nào có chuyện ta
không dám!” Hắn thản nhiên giơ tay cởi y phục của nàng, vẻ mặt tàn nhẫn
vô tình.
Ánh mắt Tây
Lăng Hành đầy khổ đau thất vọng, nàng gằn từng tiếng: “Tuy hiện giờ ta
chẳng cách nào kháng cự nổi ngươi, nhưng ngươi hãy nhớ lấy, trừ phi
ngươi giết luôn ta, bằng không sẽ có ngày ta đập nát xương ngươi.”
Xi Vưu cười
phá lên, lập tức dịu ngay nét mặt, vỗ vỗ má nàng: “Đùa với cô vui ghê,
mới giỡn tí đã giận đùng đùng lên rồi, cô tưởng ta định làm vậy với cô
thật sao?”
Tây Lăng
Hành bị quay mòng mòng, chỉ biết ngớ ra nhìn Xi Vưu, mặc hắn khoác áo
lại rồi ngả người nằm xuống bên cạnh, cười hì hì nhìn nàng, “Các người
chớ tưởng thú vật là man rợ, khi muốn giao phối, con đực không thể cưỡng
ép mà phải nài nỉ để con cái chấp thuận, giữa đôi bên là tự nguyện cả
đó.”
Tây Lăng Hành đỏ mặt lườm hắn: “Ngươi đã, đã không phải… nửa đêm còn mò vào phòng ta làm gì?”
“Ta muốn đưa cô đi.”
Thấy Tây
Lăng Hành ngơ ngác, Xi Vưu liền giải thích: “Chẳng phải ta đã bảo ta
chán viết thư cho cô lắm rồi sao? Để khỏi phải viết thư nữa, ta sẽ đưa
cô xuống núi.”
“Nhưng ta còn phải chịu phạt sáu mươi năm nữa.”
“Hừ, ta ngỡ cô chịu hết nổi từ lâu rồi chứ, lẽ nào cô ở đây mãi sinh nghiện à?”
“Đương nhiên là không, nhưng…”
“Sao lắm
nhưng với nhị thế? Dù Thần tộc các người sống dai nhưng cũng chẳng nên
phí hoài thời gian thế này, chẳng lẽ cô không nhớ những ngày tháng tự do
tự tại khi trước sao?”
Tây Lăng Hành nín lặng hồi lâu, đoạn hỏi: “Vậy còn A Tệ với Liệt Dương làm sao đây?”
“Ta đã bàn
bạc với chúng rồi, trước tiên cả hai sẽ yểm trợ cho chúng ta, đợi chúng
ta xuống núi an toàn, Liệt Dương cùng A Tệ sẽ tìm tới sau.” Xi Vưu vuốt
tóc nàng, “A Hành, mặc kệ cô có nhận lời hay không ta cũng quyết định
rồi, ta sẽ đánh ngất rồi giấu cô trong đội xe của mình, chừng nào từ
biệt Vương Mẫu thì đem theo cô xuống núi luôn. Nếu sau này xảy ra chuyện
gì cũng là do Xi Vưu ta làm, không liên quan gì tới cô cả.”
Tây Lăng Hành lạnh lùng hỏi: “Ngươi đã có bản lĩnh này, sao sáu mươi năm trước không làm đi?”
Xi Vưu cười không đáp, “Cảm ơn cô đã tặng áo.”
“Đó là ta nhờ Tứ ca mua giùm, ngươi muốn cảm ơn thì đi mà cảm ơn Tứ ca ta ấy.” Tây Lăng Hành lườm hắn rồi nhắm nghiền mắt lại.
Xi Vưu dỗ dành, “Cô cứ ngủ đi, đến khi nào đánh ngất cô, ta cũng đỡ phải gọi.”
Tây Lăng
Hành càng nghe hắn nói càng tức anh ách, chẳng biết đốp lại thế nào. Xi
Vưu búng tay tách một tiếng, đột nhiên trên thân leo trói chặt cổ tay
Tây Lăng Hành chợt nhú lên từng nụ hoa trắng muốt lẫn trong đám lá xanh
um, sau đó nở xòe thành từng đóa hoa nho nhỏ, tỏa hương thơm ngát, ru
nàng vào giấc ngủ.
Tây Lăng Hành thiếp đi giữa hương hoa ngan ngát.
Tỉnh lại, nàng nhận ra mình đã không còn nằm trên giường, mà đang ở trong một cỗ xe dát vàng khảm ngọc.
Dẫu biết chắc Xi Vưu đã hạ cấm chế, nàng vẫn cẩn thận thu lại khí tức rồi mới khẽ khàng vén rèm trông ra.
Phần lớn các
tộc đều đã được cung nữ đưa xuống núi, chỉ còn Tam đại Thần tộc do
Vương Mẫu đích thân đưa tiễn, bấy giờ đang thi lễ cáo biệt trước đại
điện.
Vương Mẫu
lần lượt từ biệt Thần Nông tộc, Cao Tân tộc, Hiên Viên tộc, các thần
đang chuẩn bị lên đường chợt nghe thấy giữa trời vang lên mấy tiếng chim
kêu lảnh lót, dường như có người tới gõ cửa, phá vỡ bầu không khí yên
tĩnh của Ngọc sơn.
Vương Mẫu
tắt hẳn nụ cười. Đã mấy ngàn năm nay, chẳng thần tiên yêu quỷ nào không
mời mà dám đến gõ cửa nơi này cả, “Kẻ nào dám tự tiện xông vào cấm địa
Ngọc sơn?” Giọng nói uy nghiêm của Vương Mẫu vang lên tận mây xanh rồi
lại từ mây xanh dội xuống, ầm ầm rền vang như sấm, chấn động cả đất
trời.
Đám nô bộc các tộc chịu không nổi, bưng tai đau đớn lăn lộn dưới đất, bấy giờ mọi người mới thật hiểu sự đáng sợ của Ngọc sơn.
“Vãn bối Cao Tân Thiếu Hạo, mạo muội cầu kiến Ngọc sơn Vương Mẫu.”
Giọng nói
trong trẻo như phượng hót vang lên tự nhiên mà êm ái như gió cuốn mây
trôi, mưa tưới sen hồng, thoạt nghe ôn hòa nhã nhặn, cả đám nô bộc đang
lăn lộn dưới đất bỗng thấy tim đập chậm lại, mọi đau đớn thoắt tan đi
hết.
Một ngàn
chín trăm năm trước, Thiếu Hạo một mình bức lui mười vạn đại quân Thần
Nông, công thành lại rũ áo ra đi, chẳng cậy công, không kiêu ngạo, thế
nên bấy nhiêu năm đằng đẵng, dù Nhân tộc chỉ còn mang máng nhớ nhưng cả
Thần tộc chẳng ai không biết tới y.
Hai tiếng
“Thiếu Hạo” có một ma lực mãnh liệt, cả Ngọc sơn tức thời im phăng phắc,
mấy cỗ xe đang lăn bánh trên sườn núi cũng dừng cả lại, ai nấy đều muốn
chiêm ngưỡng phong thái của y.
Vương Mẫu hơi dịu giọng, “Ngọc sơn không can dự vào chuyện phân tranh của thế gian, không biết ngươi có chuyện gì đây?”
“Vị hôn thê của vãn bối là Hiên Viên Bạt bị giam tại đây, vãn bối vì nàng mà tới.”
Hai đại tộc
Cao Tân và Hiên Viên đặt cạnh nhau quả nhiên uy thế không vừa, khắp trên
dưới Ngọc sơn bỗng xôn xao cả lên, người trong Thần tộc ai ai cũng xì
xào to nhỏ.
Vương Mẫu cau mày đáp: “Mời vào.”
“Đa tạ.”
Ngón tay Tây
Lăng Hành nắm chặt song cửa đến trắng bệch ra, nàng tì người vào cửa
sổ, chăm chắm nhìn lên không trung không chớp mắt.
Đương lúc
bình minh, mặt trời vừa ló rạng, ánh dương rực rỡ muôn màu bao trùm cả
Ngọc sơn, nam tử bạch y[2] cưỡi trên lưng Huyền điểu đen tuyền, từ vầng
sáng rạng ngời tỏa ngợp cả bầu không kia băng mây lướt gió bay lại, đáp
xuống thềm ngọc ngay trước đại điện.
[2] Ân
Thương tự xưng là Tuấn Đế, cũng tức là hậu nhân của Thiếu Hạo. Nhà
Thương coi chim là vật tổ, tôn sùng Huyền điểu, coi màu trắng là tôn quý
nhất. Theo sách Hoài Nam Tử: “Lễ nghi thời nhà Ân, linh vị thổ thần là
đá, thờ cúng môn thần, trước mộ người chết trồng tùng, lễ nhạc dùng cho
tế tự là ‘Đại hoạch’ và ‘Thần lộ’, quần áo dùng toàn màu trắng.” Đoạn
văn này lý giải tín ngưỡng của người Ân, bởi vậy, trong tác phẩm này
Thiếu Hạo mới mặc áo trắng.
Ánh dương lấp loáng chói mắt làm mờ cả gương mặt y, chỉ thấy một tà áo trắng bay bay theo gió.
Y thong dong
tiến về phía Vương Mẫu, tay áo bay bay, phong thái thoát tục, ánh mắt
tươi tắn lướt qua khắp lượt các vị thần tiên, tựa như chào hỏi tất cả,
lại tựa như chẳng nhìn thấy ai cả.
Vương Mẫu
chăm chú quan sát Thiếu Hạo, thầm sửng sốt. Người ta thường nói thưởng
núi phải lên Bắc, ngắm sông phải xuôi Nam, nước Nam non Bắc là những
thắng cảnh khác hẳn nhau, nhưng nam tử trước mặt đây vừa lạnh lùng hờ
hững như dải núi phía Bắc gió tuyết liên miên, lại vừa ôn hòa nho nhã
tựa dòng nước Giang Nam mênh mông mưa khói, lẽ nào trên đời có kẻ hội đủ
thần thái của non cao nước biếc thế này ư?
Thiếu Hạo tới trước mặt Vương Mẫu thi lễ, “Hôm nay vãn bối đến là muốn đón vị hôn thê Hiên Viên Bạt xuống núi.”
Vương Mẫu
nén kinh ngạc, cười nhạt, “Hẳn ngươi biết rõ nguyên do ta giam lỏng nàng
ta, nếu ngươi muốn đón thì sáu mươi năm nữa hãy tới.”
“Đúng là
Hiên Viên Bạt đã sai, mạo phạm tôn nghiêm của Ngọc sơn, nhưng biết đâu
nàng ta chỉ ham rong chơi, nửa đêm dạo tới Dao trì, xui xẻo đụng phải
chuyện này thì sao? Dám hỏi Vương Mẫu có từng bắt được tang vật chứng
minh Hiên Viên Bạt ăn trộm bảo bối hay chưa? Kẻo không một khi sự thật
phơi bày, Ngọc sơn đã giam oan Hiên Viên Bạt một trăm hai mươi năm, e
rằng khó tránh tổn hại đến uy danh Ngọc sơn!”
Thiếu Hạo
nói năng từ tốn nhưng lời lẽ sắc sảo, câu nào câu nấy đều nhằm trúng chỗ
hiểm khiến Vương Mẫu nhất thời cứng họng. Chẳng để Vương Mẫu kịp nổi
giận, y đã cung kính hành lễ, “Nói sao đi nữa cũng là tại Hiên Viên Bạt
đã mạo phạm Ngọc sơn trước, Vương Mẫu phạt nàng ta đương nhiên có lý do.
Hôm nay vãn bối tới đây thỉnh tội với Vương Mẫu, tuy vãn bối chưa thành
hôn với Hiên Viên Bạt nhưng phu thê đồng thể, cái sai của nàng cũng là
cái sai của vãn bối, hơn nữa vãn bối thân là nam nhi lại chưa làm tròn
trách nhiệm chăm lo cho thê tử, khiến nàng phải chịu khổ, tội còn nặng
hơn một bậc.”
Vương Mẫu nghe y nói đến váng đầu hoa mắt, giận dữ cười nhạt, “À? Ra ngươi muốn ta trừng phạt ngươi chứ gì?”
“Vãn bối chỉ có hai đề nghị.”
“Nói.”
“Xin Người giam vãn bối lại để vãn bối chịu thay Hiên Viên Bạt ba mươi năm.”
“Còn đề nghị kia?”
“Xin Vương
Mẫu lập tức thả Hiên Viên Bạt, nếu sau này chứng minh được báu vật đúng
là do nàng lấy đi, vãn bối thề sẽ trả nó lại cho chủ cũ, hơn nữa còn làm
một việc cho Ngọc sơn vô điều kiện, xem như đền bù.”
Người trong
Thần tộc nghe nói đều thầm kinh ngạc, dù báu vật bị mất quý giá đến đâu
chăng nữa, chỉ cần một lời thề này của Cao Tân Thiếu Hạo cũng đủ đền bù,
hơn nữa chẳng đủ chứng cứ, lại đã trừng phạt sáu mươi năm, Thiếu Hạo
còn khẩn khoản nài xin như vậy, Vương Mẫu không chịu thả Hiên Viên Bạt
thì quả có phần quá đáng.
Vẻ mặt Vương Mẫu vẫn lạnh băng, “Nếu ta không chấp thuận cả hai thì sao?”
Thiếu Hạo cười đáp, “Vậy vãn bối đành ở lại đây bầu bạn với Hiên Viên Bạt tới khi nào nàng được xuống núi thôi.”
Câu này của
Thiếu Hạo rất cung kính nhưng lại ép cho Vương Mẫu không còn đường chọn
lựa, nếu không chấp thuận, bà sẽ mang tiếng là con người không thông
tình lý. Vương Mẫu giận đến nỗi tay run bần bật, ai chẳng biết Ngọc sơn
không chứa chấp nam tử, nếu đổi lại là cao thủ nào khác của Thần tộc,
hẳn bà đã đá bay xuống núi từ lâu, nhưng đây lại là Cao Tân Thiếu Hạo,
cánh chim hồng vừa xuất hiện đã vang danh suốt ngàn năm nên bà cũng
không nắm chắc phần thắng.
Vương Mẫu đưa mắt nhìn xa xăm, yên lặng ngẫm nghĩ. Thiếu Hạo cũng không vội, cứ làm thinh đứng đợi.
Suy tính kỹ
càng hồi lâu, Vương Mẫu dịu nét mặt cười nói: “Ngươi nói cũng có lý, nếu
Hiên Viên Bạt chỉ vô tình mạo phạm thì giam cầm sáu mươi năm là đủ rồi,
còn nếu nàng ta cố ý, sau này ta sẽ tìm tới ngươi đó.” Đoạn bà ngoảnh
lại bảo thị nữ, “Mau đi mời Hiên Viên Bạt, nói rằng nàng ta có thể xuống
núi được rồi, dặn nàng ta mang theo hành lý đến luôn thể.”
Thiếu Hạo vội mỉm cười thi lễ, “Đa tạ Vương Mẫu.”
Ngồi trong
xe, Tây Lăng Hành sững người. Một chuyện ầm ĩ như vậy mà Thiếu Hạo chỉ
dăm câu ba điều đã giải quyết ổn thỏa ư? Trước khi Vương Mẫu phát hiện
thấy nàng mất tích, nhất định nàng phải thoát khỏi đây mới được.
Nàng vô tình
nhìn về phía bóng áo đỏ, nào ngờ Xi Vưu cũng đang chòng chọc nhìn mình,
ánh mắt lạnh buốt đầy những kinh ngạc, nghi ngờ, căm giận, thậm chí còn
thấp thoáng một tia hy vọng, như mong mỏi nàng lên tiếng thanh minh
rằng mình không phải Hiên Viên Bạt mà chỉ là Tây Lăng Hành.
Chẳng hiểu
sao lòng Tây Lăng Hành chợt nhói đau, nàng định tìm lời giải thích nhưng
mấp máy môi mấy lần đều bất lực, đành hổ thẹn cúi gằm mặt xuống.
Tây Lăng
Hành vừa đưa tay toan vén rèm lên thì xoạch một tiếng, sợi dây leo xanh
mướt đã kéo sập rèm lại, hai tay nàng bị dây leo quấn chặt, càng cố
giằng ra thì càng bị siết chặt hơn, không sao thoát nổi.
Nhưng Tây
Lăng Hành nhất định phải thoát khỏi đây trước khi thị nữ quay lại, nàng
vừa gắng sức rút tay ra, vừa ngẩng đầu nhìn Xi Vưu cầu khẩn. Mặt Xi Vưu
trắng bệch, cả người cứng đờ nhưng vẻ mặt vẫn trơ trơ như gỗ đá, chỉ có
đôi mắt chằm chặp nhìn nàng.
Tây Lăng
Hành cắn môi gắng rút tay ra nhưng mấy sợi dây leo càng trói càng chặt,
thấy thời gian cứ vùn vụt trôi đi, nàng đành nghiến răng lấy chưởng làm
đao chặt đứt dây leo, nhảy xuống xe, chạy về phía Thiếu Hạo.
Trông thấy nàng, Thiếu Hạo mỉm cười, vừa rảo bước tiến lại, vừa dịu dàng giới thiệu: “A Hành, ta là Thiếu Hạo.”
Trông thấy
Thiếu Hạo xuất chúng ngời ngời, nàng vô cùng mừng rỡ, nhưng dường như
trái tim nàng đã bị những sợi dây leo kia quấn chặt, chỉ trong thoáng
chốc, lại bị chúng siết cho đau nhói. Nàng vội nói với Thiếu Hạo: “Chúng
ta xuống núi thôi.”
“Ừ!” Thiếu
Hạo lẹ làng chìa tay ra, nàng thoáng do dự rồi nắm chặt lấy tay y. Thiếu
Hạo kéo nàng nhảy lên lưng Huyền điểu, lập tức Huyền điểu vỗ cánh bay
lên, y đứng giữa chừng không chắp tay hành lễ cùng Vương Mẫu: “Đa tạ
Vương Mẫu giúp đỡ, vãn bối xin cáo từ.”
Huyền điểu
dang cánh bay đi, Tây Lăng Hành ngoảnh lại thấy Xi Vưu đang đứng bất
động dưới gốc đào hoa rơi lả tả, ngẩng đầu nhìn mình đăm đắm, khóe môi
mím chặt, ánh mắt lạnh lùng.
Huyền điểu càng bay càng xa, nhưng tà áo đỏ kia vẫn đứng yên tại chỗ, đỏ đến nhức nhối cả mắt.
Mong rằng Xi
Vưu sẽ hiểu cho nỗi khổ tâm của nàng mà đừng oán đừng giận, nhưng nếu
hắn không hiểu thì sao? Có lẽ bọn họ chẳng nên dây dưa với nhau nữa, dù
sao thì tên thật của nàng cũng là Hiên Viên Bạt.
Chẳng biết bao lâu sau, A Hành mới sực nhớ đến người đang đứng cạnh, cũng là vị hôn phu của nàng, Cao Tân Thiếu Hạo.
Nàng chẳng dám ngẩng lên, chỉ liếc thấy tà áo trắng của y bay phần phật trong gió, khiến nàng rối bời cả ruột gan.
Từ khi hiểu
chuyện, nàng đã bao lần băn khoăn không biết Thiếu Hạo dáng vẻ ra sao,
mỗi lần thấy thế Tứ ca lại cười cười an ủi nàng, nói tất cả đàn ông
trong thiên hạ đều phải tự thẹn vì không bằng Thiếu Hạo. Nghe vậy nàng
cứ cho là Tứ ca thổi phồng, mãi đến giờ mới biết, Tứ ca chẳng phóng đại
chút nào.
A Hành im lặng, Thiếu Hạo cũng làm thinh.
Bầu không
khí yên lặng kéo dài khiến A Hành lúng túng, nàng định cảm ơn y một
tiếng, bèn lấy can đảm ngẩng đầu lên, nào ngờ đập vào mắt nàng là một
gương mặt nhợt nhạt, còn chưa kịp cất lời, thân mình Thiếu Hạo đã rớt
khỏi lưng Huyền điểu mà rơi xuống, Huyền điểu ré lên một tiếng thảm
thiết, lập tức nhao theo cứu chủ, A Hành cũng vận linh lực, vô số sợi tơ
từ áo nàng bay ra, níu lấy Thiếu Hạo.
Huyền điểu
chở hai người đỗ xuống một khe núi không biết tên, A Hành phẩy tay gọt
phẳng một phiến đá thành chiếc giường rồi đặt Thiếu Hạo lên đó.
Thiếu Hạo
mạch tượng rối loạn, rõ ràng vừa bị thương. A Hành chỉ biết từ từ truyền
linh lực của mình cho y để ổn định lại mạch tượng.
Mãi đến chập tối, mạch đập của y bình ổn lại, nàng mới dám thở phào nhẹ nhõm, lau mồ hôi trán.
Hèn chi nàng
vừa nói đi là Thiếu Hạo đi ngay, té ra y sợ Vương Mẫu nhận ra mình bị
thương. Nhưng trên đời này còn ai đủ bản lĩnh đả thương Thiếu Hạo đây? A
Hành lo lắng nghĩ, hay tay ôm lấy chân, tì cằm lên đầu gối, chăm chú
nhìn y.
Thiếu Hạo
dung mạo thanh nhã, duy chỉ có đôi mày nghiêm nghị như ngọn núi sừng
sững vạn thước bên trời Bắc, cô đơn ngạo nghễ, lạnh lẽo thâm trầm.
A Hành chợt nảy dạ tò mò, cặp mắt y phải thế nào mới trấn áp được dải núi nguy nga sừng sững đó nhỉ?
Đúng lúc
nàng đang muốn nhìn, Thiếu Hạo bỗng mở bừng mắt, chỉ thấy hai mắt y tựa
đôi dòng sông trong veo lặng sóng, sâu thăm thẳm như dải nước xanh ngàn
dặm phương Nam, có thần thái tiêu dao của hải âu sải cánh giữa biển mây,
vẻ lãng đãng khi ngắm ráng chiều mà nghe trống dồn tiêu vắng, cái êm ái
của lông vũ mướt xanh hay của vạt áo mỹ nhân đỏ thắm, giữa muôn trùng
sóng nước mênh mang ấy, cả dãy núi chót vót vạn thước kia cũng uyển
chuyển mà đắm mình hòa lẫn vào nhau.
Bị Thiếu Hạo bắt quả tang đang ngắm y, A Hành đỏ bừng mặt, vội ngoảnh đầu quay đi.
Thiếu Hạo chẳng màng tới thương thế bản thân, còn quan tâm hỏi: “Làm nàng giật mình ư?”
Tây Lăng Hành khẽ đáp: “Đâu có.”
“Ta gọi nàng là A Hành như mấy vị ca ca nàng được chứ?”
“Vâng.” A Hành ngập ngừng giây lát rồi hỏi, “Ai đả thương chàng thế?”
Thiếu Hạo trở mình ngồi dậy, “Là Thanh Dương.”
A Hành kinh ngạc nhìn y, “Gì cơ? Là Đại ca thiếp ư?”
Thiếu Hạo gượng cười, “Đại ca nàng đánh cuộc với ta, ai thua phải tới Ngọc sơn đón nàng.”
A Hành dở
khóc dở cười, té ra màn anh hùng cứu mỹ nhân đó đâu có phải vì người
đẹp, hơn nữa chẳng để cho nàng ăn dưa bở, y đã phải vội vã thanh minh
ngay.
“Nàng bị giam cầm bao nhiêu năm như thế, có oán trách Đại ca không đoái hoài gì tới mình chăng?”
A Hành làm thinh không đáp, quả thật sáu mươi năm nay, nàng đã vô số lần thầm oán Đại ca.
“Biết nàng
bị Vương Mẫu giam lỏng, mẫu hậu nàng giận tím mặt, viết thư nói với phụ
vương nàng rằng nếu ngài không phái thuộc hạ đi đón nàng, bà sẽ đích
thân lên Ngọc sơn đòi người, Thanh Dương phải giải thích rõ ngọn ngành,
còn hứa sau sáu mươi năm nhất định sẽ đưa nàng về, mới xoa dịu được cơn
giận của bà.”
A Hành xưa nay cứ ngỡ mẹ mình nghiêm khắc bảo thủ, nào ngờ bà lại nuông chiều nàng đến thế, bất giác cay cay khóe mắt.
Thiếu Hạo
cười, “Thanh Dương để nàng ở lại Ngọc sơn sáu mươi năm đâu phải vì sợ
Vương Mẫu mà chính vì thương thế của nàng đấy chứ. Lần trước nàng bị
thương rất nặng, thủy linh của Quy khư chỉ giữ được mạng chứ không trị
dứt được vết thương, ta đã phải cùng Thanh Dương đi khắp nơi lùng tìm
linh đan diệu dược, nào ngờ cơ duyên xảo hợp, Vương Mẫu lại giam cầm
nàng, Thanh Dương bèn quyết định tát nước theo mưa luôn. Ngọc sơn là
thánh địa từ thời thượng cổ, linh khí rất hợp với nữ giới, trên núi lại
có đào tiên ngàn tuổi, ngọc tùy vạn năm, vừa khéo điều dưỡng được thân
thể của nàng.”
Hóa ra là
vậy! Hẳn Xi Vưu cũng vì thế mà sáu mươi năm sau mới tới đón nàng xuống
núi. Nghĩ tới đây, nàng sững sờ chẳng thốt nên lời, lòng ngổn ngang trăm
mối.
Thiếu Hạo
cười nói: “Nếu không vì thế, Tứ ca nàng đâu có chịu khoanh tay ngồi
nhìn. Tuy Xương Ý tính nết ôn hòa nhưng rất mực cưng chiều em gái, dù
Thanh Dương không ra tay, y cũng tự xoay xở nghĩ cách, chẳng hiểu sẽ gây
ra những chuyện gì nữa.”
A Hành nhoẻn miệng cười tươi rói, “Tứ ca hiền lắm, chẳng bao giờ gây chuyện đâu.”
Thiếu Hạo lắc đầu cười, “Nàng chưa thấy Xương Ý nổi giận đấy thôi.”
“Chàng thấy rồi ư? Sao Tứ ca lại nổi giận?” Tây Lăng Hành kinh ngạc hỏi.
Thiếu Hạo đáp quấy quá: “Ta cũng chưa thấy, chỉ nghe nói thôi.”
A Hành hỏi: “Bây giờ Đại ca thiếp đâu?”
Thiếu Hạo
cười đắc ý: “Hắn đánh ta bị thương thế này, ta đời nào để yên cho hắn?
Hắn bị thương còn nặng hơn ta, chẳng cưỡi nổi tọa kỵ nữa, lại sợ bị phụ
vương nàng phát hiện nên lấy cớ đi thăm mẫu hậu, chuồn về núi Hiên Viên
dưỡng thương rồi.”
A Hành hỏi: “Chàng bị thương thế này, sao ban sáng còn dám nói cứng với Vương Mẫu thế?”
Ánh mắt
Thiếu Hạo lóe lên ranh mãnh, “Việc binh chẳng nề gian trá, mà nói vậy
cũng đâu phải là gạt Vương Mẫu! Nếu Vương Mẫu ra tay thật thì ta đánh
bài chuồn, dù sao bà ta cũng chẳng thể xuống núi, không bắt được ta
đâu!”
A Hành ngớ người ra rồi phá lên cười. Thiếu Hạo vang danh thiên hạ hóa ra lại láu cá thế này ư!
Những ngượng ngùng giữa đôi bên cũng theo tiếng cười mà tan đi cả.
Đương lúc
đêm hè tháng Sáu, muôn ngàn ánh sao nhấp nháy trên nền trời đen thăm
thẳm như đứa nhỏ mê mải chơi trốn tìm, loài hoa dại không tên nở đầy sơn
cốc, bông xanh bông vàng chen nhau, thỉnh thoảng trong rừng vang lên
tiếng cú rúc thê lương khiến màn đêm đượm phần rùng rợn, gió đưa hương
cỏ cây ngan ngát khắp nơi làm người ta nhẹ nhõm vô cùng.
Thiếu Hạo
đứng dậy định giục A Hành lên đường, nào ngờ nàng đã ngước lên khẽ năn
nỉ: “Nán ngồi thêm lát nữa hãy đi được không? Sáu mươi năm nay thiếp mới
lại được trông thấy quang cảnh này đó.”
Thiếu Hạo không đáp, chỉ lặng thinh ngồi xuống, rút bầu rượu ra vừa ngắm sao vừa uống.
A Hành chun chun mũi ngửi, nhắm nghiền mắt nói: “Đây là Điền tửu đất Điền.”
Bình sinh
Thiếu Hạo có ba tuyệt kỹ – rèn sắt, ủ rượu, gảy đàn, thấy A Hành ngửi
hương đoán rượu, y liền nhận ra ngay đồng đạo, “Không sai, hơn hai trăm
năm trước ta mất bao công sức mới moi được bí quyết này từ một người dân
Điền đấy.”
A Hành phụ
họa: “Chín mươi năm trước thiếp qua đất Điền, lập tức mê tít rượu ở đó,
nán lại cả năm trời vẫn chưa đã thèm, hùng tửu thì nồng đượm, thư tửu
thì thanh khiết, uống riêng đã ngon, uống chung càng ngon hơn.”
Thiếu Hạo ngẩn người, ngạc nhiên hỏi: “Hùng tửu? Thư tửu? Sao ta chưa từng nghe rượu cũng chia ra thư hùng[3] nhỉ?”
[3] Hùng, thư: chỉ giống đực và giống cái. (ND)
A Hành cười
đáp: “Thiếp tới đất Điền mới hay rượu cũng phân thư hùng đấy. Một cô gái
rất giỏi nghề ủ rượu kể với thiếp rằng tổ tiên cô ấy vốn chỉ là một
tiều phu đốn củi trong núi, tính mê rượu nhưng nhà nghèo chẳng có tiền
mua nên cứ đau đáu nghĩ cách cất rượu từ cây cỏ hoa trái trên núi. Có
chí thì nên, một hôm ông ta nằm mơ thấy cách cất rượu, cất được loại
rượu ngon, chẳng những đậm đà thơm ngát mà còn bổ thân dưỡng thể. Ông ta
dâng rượu lên Điền vương, được Điền vương hết lòng sủng ái. Nào ngờ
long ân dồi dào lại khiến cho người ngoài ghen ghét, chúng dùng đủ cách
đoạt lấy bí quyết cất rượu nhưng ông ta vẫn giữ kín như bưng. Về sau ông
ta gặp một cô bán rượu, cũng rất giỏi nấu rượu, đôi bên kết thành vợ
chồng ân ân ái ái, mấy năm sau sinh được một trai một gái. Ông ta tiết
lộ cho vợ cách nấu rượu, bà vợ dựa theo đó nấu ra một loại rượu khác,
hai loại rượu cùng một xuất xứ nhưng một cương một nhu, một nồng đượm
một thanh khiết, vợ chồng họ nhờ rượu mà quen nhau, nhờ rượu mà thành
hôn, lại cũng nhờ rượu mà khăng khít bền lâu. Đương lúc họ hạnh phúc vẹn
tròn thì có kẻ dâng lên đại vương thứ rượu hệt như của họ nên dần dần
họ bị thất sủng, còn bị người ta hãm hại, cả nhà rơi vào hiểm cảnh. Ông
chồng nghi ngờ bà vợ phản bội mình, bà ta không sao biện bạch, đành tự
vẫn ngay trước vò rượu đang ủ, lấy cái chết tỏ lòng mình, máu biếc bắn
đầy lên vò khiến đất vàng bịt miệng vò bị nhuộm đỏ thắm. Hạn dâng rượu
lên đại vương đã cận kề, ông ta chẳng kịp ủ vò rượu mới, đành đem vò
rượu đó dâng lên, nào ngờ đại vương uống xong vô cùng thích thú, nhờ đó
mà bảo toàn được tính mệnh cả nhà, nhưng chẳng ai biết được vợ ông ta có
tiết lộ bí quyết hay không nữa. Trải qua chuyện này, ông ta nguội lòng
nản chí, bèn ẩn cư nơi hoang dã, cả đời không tục huyền, nhưng cũng
không cho phép mai táng vợ trong phần mộ của gia tộc. Lúc thiếp gặp cô
gái ủ rượu kia tại một quán rượu nơi thôn dã, câu chuyện đó đã trôi qua
cả trăm năm, theo lời cô ấy, trước lúc lâm chung, bà cô ta vẫn khăng
khăng với con gái rằng: ‘Không phải mẹ làm đâu.’ Vì bà cô ta, mẹ cô ta
đã phải tủi hổ suốt đời trong dòng tộc, bị nhà chồng ruồng rẫy, nhưng
vẫn ra sức giữ bí quyết mà mẹ mình truyền lại, bởi bà ta hiểu bí quyết
cất rượu chính là kết tinh tâm huyết cả đời của người ủ rượu.”
Thiếu Hạo
chăm chú lắng nghe, ánh mắt thoáng vẻ bi ai. A Hành kể tiếp: “Thiếp nghe
cô ta thuật lại chuyện đó bèn nảy dạ tò mò, dùng linh lực tra xét khắp
nơi, cuối cùng tìm được hậu nhân một nhà khác cũng có bí quyết kia.”
“Nàng tra được chân tướng rồi sao?”
“Quả không
phải người đàn bà thông tuệ khéo tay kia tiết lộ, mà là đứa con nhỏ lanh
lợi của nhà đó. Lúc vợ chồng họ ủ rượu, cho rằng đứa con nhỏ dại chưa
hiểu chuyện nên chẳng hề giấu giếm, nào ngờ thằng nhỏ rất giỏi bắt
chước, lại theo nòi cha mẹ, lúc những trẻ khác còn vầy đất nghịch cát,
nó đã biết lấy vò lấy lọ đựng cây cỏ học theo cha mẹ cất rượu. Tuy nó
chỉ nghịch chơi nhưng lọt vào mắt một tay cất rượu nhà nghề, hắn chỉ cần
đào sâu nghiên cứu là tìm ra bí quyết đó ngay. Sau khi bà ta tự vẫn,
tuy tay cất rượu kia được vinh hoa phú quý cả đời nhưng lúc nào cũng
thấp thỏm không yên, trước lúc lâm chung bèn thuật lại chuyện này cho
con cháu.”
Thiếu Hạo thở dài hỏi: “Về sau thì sao?”
“Cô gái kia
cảm kích thiếp giải giúp mối oan bèn tặng lại bí quyết đó cho thiếp, có
điều thiếp chỉ biết uống chứ nào biết cất rượu, có cũng vô ích, để thiếp
chép cho chàng.”
“Ta không hỏi cái đó, ta hỏi thi hài của người phụ nữ kia cơ? Chẳng phải nàng nói bà ta bị chôn ngoài đồng hoang đấy sao?”
A Hành liếc
nhìn Thiếu Hạo, chợt thấy ấm lòng, y mê rượu nhường ấy mà vẫn lo tới
người phụ nữ kia, không hề chăm chăm nghĩ tới bí quyết ủ rượu, bèn đáp:
“Bọn họ đã tới bái tế trước phần mộ tổ tiên, kể rõ đầu đuôi câu chuyện
rồi dời hài cốt bà ta vào phần mộ tổ tiên, kể rõ đầu đuôi câu chuyện rồi
dời hài cốt bà ta vào phần mộ dòng họ, tuy nhiên không hợp táng cùng
chồng mà chôn bên cạnh con trai con gái mình.”
Thiếu Hạo gật đầu rồi lại dốc bầu tu một hớp, “Chắc đây là hùng tửu?”
“Vâng. Dòng
họ đó lấy làm hổ thẹn vì người phụ nữ kia nên không cất thư tửu, bởi vậy
chẳng ai hay trên đời từng có một người phụ nữ ủ được thứ rượu ngon
tuyệt trần, may mà con gái bà ta vẫn lén giữ lại được bí quyết này. Có
điều nếu hiện giờ chàng qua đất Điền, có thể được nếm thư tửu rồi.”
Thiếu Hạo
nghiêng bầu rót rượu xuống đất rồi nói với hư không: “Cùng nghề cất
rượu, xin được kính cô nương một chén từ xa, cảm tạ cô đã để lại thư tửu
đất Điền cho gã tửu khách như ta.” Y lại trao bầu rượu cho A Hành,
“Cũng cảm tạ nàng đã để gã tửu khách là ta có cơ hội được nếm rượu của
cô ấy.”
A Hành chẳng
nề tiểu tiết, mỉm cười nhận lấy, hào sảng ngửa cổ tu một hớp, rồi trả
lại cho Thiếu Hạo, “Rượu ngon, có điều ít quá.”
“Nhìn bầu rượu bé thế thôi, bên trong không ít đâu, bảo đảm đủ cho nàng say.”
A Hành liền
giật bầu rượu lại, “Vậy thiếp chẳng khách sáo nữa đâu.” Nói rồi nàng tu
liền ba ngụm, lim dim mắt rồi từ từ thở ra một hơi, mặt đỏ bừng ngây
ngất.
Thiếu Hạo nhìn A Hành, ánh mắt thấp thoáng nét cười, “Tiếc rằng ta đi vội quá, quên đem đàn theo mất rồi.”
A Hành cười
nói: “Mượn nhạc bồi rượu dĩ nhiên là thú vị, nhưng thiếp còn biết một
cách khác, hay hơn cả đàn sáo nhã nhạc và người đẹp ca múa cơ.”
“Cách gì thế?”
“Kể chuyện.
Chàng đã bao giờ vừa nghe chuyện vừa uống rượu chưa? Bôn ba mệt mỏi suốt
dặm trường, được ôm bầu rượu ngon ngồi bên đống lửa giữa đồng hoang hay
trên thuyền nhỏ cạnh bến sông, vừa uống vừa nghe mấy kẻ qua đường khề
khà kể chuyện, bất kể là truyền kỳ ma quái hay là yên hận nhân gian, qua
miệng họ đều thành ra vừa hấp dẫn vừa ấm cúng.”
Thiếu Hạo
bật cười, chừng như cảm động vì câu nói của A Hành, ánh mắt y chợt trở
nên chứa chan hoài niệm, “Hơn hai ngàn năm trước, có lần ta lạc tới tận
vùng cực Bắc, ngàn dặm tuyết bay, vạn tầng băng phủ, giá lạnh thấu
xương, tối đến trên trời không một đốm sao, dưới đất cũng chẳng thấy ánh
đèn, bốn bề tối đen như mực, ta một mình dẫn bước, đột nhiên lòng dâng
lên một cảm giác lạ lùng, không phải sợ hãi, mà là… Dường như cả đất
trời chỉ còn lại mình ta, tựa hồ gió tuyết sẽ gầm rít mãi chẳng ngừng,
con đường này đi hoài đi mãi cũng không tới đích. Đương lúc ta lầm lũi
lê bước, chợt trông thấy xa xa thấp thoáng ánh đèn, ta dõi mắt nhìn
theo, liền trông thấy…” Thiếu Hạo nhìn A Hành, nuốt lại cái tên đã thốt
ra tới miệng, kể tiếp, “Thấy một người thợ săn cáo tuyết đang trú trong
căn lều băng được dựng vội vàng, vừa sưởi ấm vừa uống rượu. Được anh ta
mời, ta liền bước vào ngồi xuống bên đống lửa, cùng anh ta uống thứ rượu
dở tệ, nghe anh ta kể chuyện đi săn. Về sau mỗi khi ai đó hỏi ta thấy
thứ rượu nào ngon nhất, chẳng hiểu sao ta đều nhớ tới bữa rượu đêm ấy.”
A Hành cười
nói: “Chuyện của chàng hay đấy, đáng để chúng ta cạn ba chung lớn.” Nàng
uống liền ba hớp rồi lại đưa bầu rượu cho Thiếu Hạo.
Tới lượt A Hành kể chuyện: “Năm đó, ta xuống núi chơi…”
Dưới trời
sao lấp lánh, Thiếu Hạo và A Hành sánh vai ngồi trên phiến đá, người này
một ngụm, người kia một hớp, cùng thưởng thức hùng tửu đất Điền nồng
đượm, kể cho nhau nghe hết chuyện này sang chuyện khác, Thiếu Hạo từng
trải lịch lãm, A Hành tinh tế thông minh, đôi bên khi cười nói, lúc lại
làm thinh ngắm sao trời, chớp mắt đã qua một đêm.
Khi ánh bình
minh rọi vào mắt hai người, A Hành nhoẻn miệng cười với tia nắng đầu
ngày mỏng tựa cánh ve, thật khó tin rằng nàng lại cùng Thiếu Hạo chuyện
gẫu thâu đêm, nhưng thực tình nàng thấy vui vẻ sáng khoái vô cùng. Bao
năm nay, A Hành đã đặt bao kỳ vọng cùng âu lo vào hai chữ Thiếu Hạo, hơn
nữa còn giấu kín không cho người khác biết, mỗi khi có ai nhắc tới nàng
đều ra vẻ không màng, vậy mà sao bao nhiêu năm, hết thảy âu lo kỳ vọng
ấy cuối cùng hóa thành một nỗi êm đềm từ sâu thẳm đáy lòng.
Khác với
nàng, giữa ánh nắng đầu ngày rực rỡ, cặp mắt Thiếu Hạo bỗng trầm xuống
như vừa tỉnh mộng, nét cười trong mắt tắt lịm, nhưng khóe miệng lại tươi
cười.
Y mỉm cười đứng dậy, “Chúng ta lên đường thôi.”
A Hành chăm
chú nhìn y, cảm thấy con người này khác hẳn nam tử cùng mình uống rượu
chuyện trò đêm trước. Thiếu Hạo đêm qua hệt như kẻ hiệp khách ngang
tàng, ngẫu nhiên gặp gỡ bên bờ dương liễu, có thể cùng chuốc chén, nói
cười, thù tạc, nhưng sáng nay dưới ánh mặt trời, y lại giống bậc vương
giả cô đơn sải bước trên con đường trước điện, đầy ẩn nhẫn, lạnh lùng và
thâm trầm.
Nàng đành
lặng lẽ theo sau y, đang định đặt chân lên lưng Huyền điểu, bỗng Thiếu
Hạo ngước nhìn lên vách núi, cao giọng nói: “Các hạ quanh quẩn ở đó cả
nửa đêm không đi, dám hỏi có chuyện gì đây?”
Là Xi Vưu ư? Tim nàng nhảy thót lên tới cổ họng, vội rảo bước chen lên trước, nào ngờ kẻ từ trong núi đi ra lại là Vân Tang.
A Hành kinh ngạc hỏi: “Sao tỷ lại ở đây?”
Vân Tang cười đáp: “Ta có mấy câu muốn hỏi Thiếu Hạo điện hạ, ai ngờ mải nghe hai người trò chuyện, chẳng nỡ nào quấy nhiễu.”
Thấy Thiếu Hạo nghi hoặc nhìn mình, A Hành vội giới thiệu: “Vị này là Đại vương cơ Vân Tang của Thần Nông.”
Thiếu Hạo tươi cười hành lễ, “Chẳng hay vương cơ muốn hỏi chuyện gì?”
Vân Tang đáp
lễ nhưng do dự mãi chẳng thốt nên lời, dáng vẻ vô cùng bối rối. Thấy
vậy, Thiếu Hạo động viên, “Vương cơ yên tâm, chuyện này nàng nói ta
nghe, rời khỏi đây ta sẽ quên đi ngay.”
Vân Tang vội
đáp, “Phụ vương rất hiếm khi khen ngợi ai, nhưng lại hết lời ca tụng
điện hạ cùng Thanh Dương. Không phải tôi không tin điện hạ, chỉ là
chuyện này nói ra quả có chút thất lễ.”
“Xin vương cơ cứ nói.”
“Trên Ngọc
sơn, tôi có nghe nói điện hạ đã giam cầm Nặc Nại, chẳng rõ vì nguyên cớ
gì? Nếu liên quan tới quốc sự Cao Tân thì xem như tôi chưa hỏi, nhưng
nếu là việc riêng thì xin điện hạ cho tôi hay, biết đâu bên trong có
chút hiểu lầm mà tôi giải quyết được chăng?”
Thiếu Hạo liền đáp: “Thật không dám giấu, quả là việc riêng.”
“A…” A Hành kinh ngạc bưng miệng nhìn Vân Tang rồi lại nhìn sang Thiếu Hạo. Lẽ nào y đã biết “vương cơ Hiên Viên” cùng Nặc Nại…
Thiếu Hạo
nói tiếp: “Ta và Nặc Nại quen nhau từ nhỏ. Dù Cao Tân lễ giáo nghiêm
ngặt nhưng y dung mạo tuấn tú, khó ngăn được các cô nương trẻ trung
nhiệt tình đem lòng ngưỡng mộ, có điều y vẫn giữ đúng phép tắc, chưa
từng vượt qua quy củ. Chẳng hiểu sao mấy năm gần đây lại thay đổi tâm
tính, phong lưu đa tình, gây ra không ít điều tiếng. Tình cảm nam nữ là
việc riêng tư, đáng ra chẳng nên hỏi tới, nhưng nghĩ tình thân thiết nên
thường cũng bóng gió nhắc nhở, khuyên nhủ đôi câu, tiếc rằng càng nói y
càng phóng túng hơn. Nặc Nại xuất thân từ Hy Hòa bộ, một trong Cao Tân
tứ bộ[4], rất nhiều nhà quyền quý muốn gả con gái cho y, ấy vậy mà trong
một lần say rượu, y lại hồ đồ đáp ứng việc chung thân.”
[4] Theo
sách vở ghi lại thì bộ tộc của Thiếu Hạo chia ra làm bốn bộ: bộ Thanh
Dương, bộ Hy Hòa, bộ Bạch Hổ, bộ Thường Hy, trong sách này đổi bộ Thanh
Dương thành bộ Thanh Long, nguyên do thì sau này sẽ rõ.
“Gì cơ? Y đã đính ước rồi ư?” Sắc mặt Vân Tang thoắt chốc tái nhợt.
“Đâu chỉ là
đính ước, mà còn sắp tới ngày cưới nữa kia. Nghe nói vương cơ học rộng
hiểu nhiều, hẳn cũng biết quy củ hôn phối của Cao Tân rất nghiêm ngặt,
tuy Nặc Nại say rượu hứa bừa nhưng hôn nhân đại sự chẳng phải chuyện
chơi, y không thể nuốt lời được. Bởi thế hằng ngày y cứ vùi đầu trong
rượu, say tràn cung mây, mặc cho người ta sắp xếp, thậm chí còn lè nhè
cười khuyên ta nên sớm thành thân, dặn ta nhớ chăm lo cho thê tử thật
tốt, có điều ta thấy thực lòng y không muốn cưới đối phương, đành phải
gán đại cho y một tội danh, đem nhốt vào thiên lao, ít ra cũng hoãn được
hôn sự của y lại.”
Ánh mắt Vân Tang lộ rõ vẻ hoảng hốt, vội gượng gạo hỏi: “Cô gái đó là ai vậy?”
“Chuyện liên quan tới danh dự của cô ấy, càng ít người hay càng tốt nên không tiện nói rõ, mong vương cơ bỏ quá cho.”
A Hành tức
tối hỏi: “Sao lại thế được? Nặc Nại hồ đồ, lẽ nào gia đình kia cũng hồ
đồ nốt, coi lời nói lúc say của y là thật ư? Vân Tang tỷ tỷ, chúng ta đi
Cao Tân nói rõ với bọn họ!”
Thiếu Hạo
liếc A Hành, làm thinh không nói. Vân Tang gượng cười, nhưng nhìn còn
thảm hơn cả khóc, “Đâu có hồ đồ, gia đình họ quá khôn ngoan ấy chứ! Nặc
Nại là tướng quân của Hy Hòa bộ mà họ cũng dám ‘bức hôn’, e rằng cô gái
kia lai lịch chẳng phải tầm thường, không ở Thường Hy bộ thì ở Bạch Hổ
bộ.” Nàng lại quay sang bảo Thiếu Hạo: “Điện hạ trì hoãn hôn sự, hẳn
không chỉ vì nhận thấy y không muốn thành thân.”
Thiếu Hạo
mỉm cười, cũng không phủ nhận, “Xưa nay nghe đồn Đại vương cơ Thần Nông
huệ chất lan tâm, thông minh cao khiết, quả nhiên danh bất hư truyền.”
“Điện hạ có nắm chắc không?”
“Lễ giáo quy
củ của Cao Tân tích lũy từ cả vạn năm nay, quả thực ta chẳng lấy gì làm
chắc cả, đành được đến đâu hay đến đó mà thôi.”
“Hai người nói gì thế?” A Hành nghe cả hai nói chuyện cứ như vịt nghe sấm.
Vân Tang từ
biệt Thiếu Hạo, gọi tọa kỵ Bạch Thước[5] của mình tới, đoạn mỉm cười kéo
tay A Hành, quay sang nói với Thiếu Hạo: “Tôi có chút chuyện riêng muốn
nói với vương cơ.”
[5] Bạch
Thước, thời cổ còn gọi là bạch vũ thước (chim khách lông trắng), là
loài chim lành, dáng vẻ đẹp đẽ, tính tình cao khiết, lông trắng muốt như
tuyết.
Thiếu Hạo khoát tay tỏ ý cứ tự nhiên rồi chủ động lánh đi.
Còn lại hai
người, Vân Tang dặn A Hành: “Muội đừng lo cho tỷ, chừng nào về Triêu Vân
phong, nhớ thay tỷ hỏi thăm vương hậu nương nương.”
“Tỷ tỷ…” A Hành lo lắng nhìn nàng.
Từ nhỏ Vân
Tang đã quen làm vẻ thản nhiên để che giấu nỗi buồn thương nên dù đau
khổ thắt lòng, nàng vẫn bình tĩnh cười nói: “Ta không sao thật mà.” Nói
rồi, nàng lại nhìn bóng Thiếu Hạo đằng xa, nói nhỏ: “Đừng cho Thiếu Hạo
biết chuyện của ta và Nặc Nại nhé.”
“Sao thế tỷ? Muội sợ Thiếu Hạo…”
“Không đâu,
Thiếu Hạo rất tốt, tốt vô cùng, có điều ta e rằng y quá tốt với muội thì
phải! Muội nên để ý mọi chuyện một chút, câu gì có thể không nói thì
đừng nói ra. Phải nhớ rằng sống trong vương tộc, rất nhiều chuyện thoạt
nhìn có vẻ đơn giản, thật ra chẳng đơn giản chút nào đâu.”
A Hành nghe hiểu láng máng, thoáng ngẩn người ra rồi khẽ hỏi: “Tỷ tỷ, Xi Vưu đã về Thần Nông chưa?”
“Ta không
biết. Lúc ấy ta canh cánh chuyện kia trong lòng nên cũng chẳng lưu ý,
muội hỏi ta mới nhớ, tính nết Xi Vưu xưa nay nói dễ nghe thì là lãnh
đạm, nói khó nghe thì là tàn nhẫn, chẳng màng tới chuyện gì, vậy mà hôm
qua đột nhiên lại hỏi ta đủ chuyện về muội và Thiếu Hạo, nào là đính ước
khi nào, tình cảm ra sao…” Vân Tang chăm chú nhìn A Hành, “Giờ đến lượt
muội hỏi thăm hắn, không lẽ muội và hắn… có chuyện gì à? Ta còn không
biết hai người quen nhau từ bao giờ nữa đó.”
A Hành thở dài, “Nói ra thì dài lắm, trước đâu giấu giếm là vì sợ tỷ phạt hắn đấy thôi. Sau này từ từ muội sẽ kể với tỷ.”
“Ta phạt hắn
ư?” Vân Tang hừ một tiếng, cười khổ: “Tính hắn như thế, trời không ràng
đất không buộc nổi, ai mà dám chọc vào? Hắn đừng làm phiền tới ta là ta
đã tạ trời tạ đất rồi.” Dứt lời, Vân Tang bước lên lưng Bạch Tước, “Ta
đi đây, ngày sau sẽ khảo tiếp chuyện của muội cùng tên ma đầu kia, nhưng
ta nói muội nghe, gã Xi Vưu ấy không trêu vào được đâu, tốt nhất muội
nên tránh xa hắn ra.” Nàng cười với A Hành rồi tha thướt bay lên.
“A Hành,
chúng ta cũng lên đường thôi.” Thiếu Hạo tươi cười chìa tay mời nàng
ngồi lên lưng Huyền điểu, nhưng nụ cười ôn hòa mà khách sáo ấy lại khiến
nàng thấy xa cách vô cùng, tựa vầng trăng trên trời vậy, dù sáng tới
đâu cũng chẳng có nổi chút hơi ấm. A Hành bắt đầu cảm thấy mọi chuyện
tối qua như một giấc mơ, Thiếu Hạo cùng nàng uống chung bầu rượu, nói
cười tán gẫu thâu đêm dưới trời sao lấp lánh hình như cũng chỉ là tưởng
tượng của nàng thôi.
Dọc đường,
cả hai đều yên lặng, mãi tới rạng sáng, khi về đến Hiên Viên sơn, Thiếu
Hạo mới quay sang nói với nàng: “Ta chẳng có việc gì cầu kiến nên không
tiện lên núi, chỉ đưa được nàng tới đây thôi.”
A Hành khẽ đáp: “Đa tạ chàng.”
Thiếu Hạo
cười: “Cảm ơn nàng đã tặng ta bí quyết ủ rượu, lần sau có dịp, ta sẽ mời
nàng uống thư tửu ta tự cất.” Nói rồi y ngẩng đầu nhìn lên núi: “Người
hầu tới đón nàng rồi kìa, gặp lại sau nhé.” Vừa nói, y vừa cưỡi Huyền
điểu bay vút đi.
Xe mây đã đỗ xuống bên cạnh, đám thị nữ quỳ xuống mời vương cơ lên xe.
A Hành cứ
ngơ ngẩn như không nghe thấy, ngẩng đầu đăm đắm trông theo tà áo trắng
càng lúc càng bay xa giữa ánh tà dương đỏ rực, dần dần chỉ còn lại một
đốm trắng, rồi đốm trắng đó cũng tan vào ráng chiều rực rỡ, nhưng phong
thái tựa nước Nam non Bắc của y vẫn như còn rành rành trước mắt nàng.
No comments:
Post a Comment